06/05/2018, 09:36

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải – Văn mẫu hay lớp 12

Xem nhanh nội dung Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Sơn La Nguyễn Khải là nhà văn giỏi quan sát chuyện đời, chuyện người, say mê giảng giải, triết lí về mọi sự bằng một tư duy phân tích sắc sảo. Nét độc đáo ở ...

Xem nhanh nội dung

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Sơn La

Nguyễn Khải là nhà văn giỏi quan sát chuyện đời, chuyện người, say mê giảng giải, triết lí về mọi sự bằng một tư duy phân tích sắc sảo. Nét độc đáo ở những trang viết của ông là mối quan hệ giữa "chuyên người" với "chuyện mình", giữa "chuyện đời" với "cái tôi" trải nghiệm chặt chẽ đến mức luôn có xu hướng làm thành một kết cấu trần thuật kép : vừa "phản ánh" vừa "biểu hiện", vừa nhằm "tác động" vừa "tự nhận thức", vừa xác định chân lí theo kinh nghiệm cá nhân vừa muốn bàn bạc, đối thoại với những kinh nghiệm khác. Chính cái tôi tác giá, một cái tôi có khá năng in đậm dấu ấn lên câu chuyện (rất thông minh khi phát hiện và lật xới vấn để, dễ dàng nắm bắt được trạng thái tinh thần thời đại phía sau những ứng xử thường ngày, kể chuyện mà cứ như đang suy nghĩ – luận bàn về câu chuyện với rất nhiều đúc kết khôn ngoan) đã giúp Nguyễn Khải khẳng định vị trí chắc chắn trong tâm trí những bạn đọc yêu thích thứ văn chương giàu chất trí tuệ mà vẫn tựa vững trên tấm lòng trìu mến, thân thiện đối với con người. Khi tự chia hành trình sáng tác của mình thành hai giai đoạn (trước năm 1978 và từ 1978 trở đi), nhà văn không chỉ muốn nói đến mối quan hệ giữa "con người" và "thời thế", đến những sự điều chỉnh cần thiết và tất yếu trong thế giới quan của ông ở giai đoạn thứ hai, mà còn gián tiếp triết lí về cái hữu hạn của nghệ thuật trước cái vô hạn của đời sống. Từ đây ông sẽ lấy triết lí này làm nguyên tắc sáng tạo : khước từ cung cách độc thoại của kiểu nhà văn đứng cao hơn bạn đọc để làm một người đề xuất vấn đề, gợi mở đối thoại, chia sẻ cảm xúc và chiêm nghiệm riêng trên tinh thần tôn trọng bạn đọc, trao cho họ quyền phán xét chân lí. Nếu trước năm 1978, Nguyền Khải chủ yếu theo đuổi cảm hứng chính luận và tập trung vào các vấn đề chính trị – xã hội thì từ năm 1978 về sau, ông dành mối quan tâm chủ yếu cho con người, trước hết là con người cá nhân, có thân phận, danh phận, bổn phận cụ thể đang đan dệt nên cái dòng cháy sôi sục, ồn ào, đầy biến động của cõi nhân gian. Một người Hà Nội, được hoàn thành ngày 19 – 1 – 1990 (theo ghi chú cuối truyện) là một truyện ngắn nghiêm túc, một cuộc đối thoại cởi mở về con người : Phải chăng bản lĩnh cá nhàn, lòng tự trọng của mỗi cá nhân là cốt lõi của nhân cách ? Phải chăng sự sâu sắc, thâm trầm, lối sống sang trọng, lịch lãm, có vãn hoá làm nên vẻ đẹp của người Hà Nội?

Được viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam trên con đường đổi mới đang biến chuyên mau lẹ, nhiều cuộc "đụng độ" gay gắt giữa hai hệ giá trị cũ – mới xảy ra khi cơ chế kinh tế thị trường phát huy ảnh hướng rộng khắp và quan hộ giao lưu đa chiều đem đến nhiều kinh nghiệm mới mẻ, làm mất giá nhiều kinh nghiệm cũ, Một người Hà Nội là nơi tác giả gửi gắm những điểu mình chiêm ngẫm và trăn trư vé khả năng bảo tồn những giá trị mà ông tin là tinh tuý nhất của người Việt : văn hoá Thăng Long, Tràng An. Liệu mảnh đất ngàn năm văn hiến ấy trước cơn lốc kinh tế thị trường có đánh mất gương mặt tinh thần sang trọng, hào hoa được hun đúc suốt trường kì lịch sử ? Ma Văn Kháng khi viết Mùa lá rụng trong vườn (1985) cũng đã ít nhiều chạm đến câu hỏi này. Cùng thời điểm đó, đạo diễn Trần Văn Thuỷ làm bộ phim tài liệu nghệ thuật Hà Nội trong mắt ai đã không giấu cái nhìn phê phán có tính cảnh báo đối với những biểu hiện phi ván hoá cúa thủ đô đang hàng ngày bày ra ngay trước mắt du khách (bộ phim đem lại những tiếp nhận đa chiều). Một người Hà Nội có thể xem như một tiếng nói đối thoại sắc sảo Nguyễn Khải góp vào mối quan tâm chung của những ai nặng lòng với vẻ đẹp kinh kì (ý hướng đối thoại rất rõ vì nhà văn đã đưa truyện này vào một tập truyện có tên Hà Nội trong mắt tôi, in năm 1995). Người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Khải dành cho Hà Nội một tình yêu và niềm tự hào sâu sắc đến thế nào và ông cũng coi trọng truyện ngắn Một người Hà Nội thế nào. Với ông, Hà Nội là "đất kinh kì"(tên một truyện khác trong tập), là nơi hội tụ tinh hoa cả nước : "cái nước sông Hồng, cái gió sông Hổng nó lạ lắm, nó làm ra văn chương Bắc Hà, văn chương Hà Nội". Mà đâu chỉ văn chương ! Chọn một người phụ nữ như nhân vật bà Hiền làm một "lát cắt" nhỏ về Hà Nội, ông muốn kí thác tình yêu bền chặt và sự kì vọng đối với truyền thống văn hoá dân tộc vào những con người luôn luôn biết cách nuôi dưỡng "nếp nhà". Chính nhờ họ mà nét đẹp riêng của kinh kì qua bao nhiêu thãng trầm lịch sử vẫn nguyên cốt cách, không gì có thể làm phiêu tán, phôi pha. Tính thời sự của tác phẩm do vậy lại gắn với nhu cầu đối thoại về văn hoá Hà Nội. Người như bà Hiền có phải là hiện thân của cái văn hoá ấy không?

Bà Hiền – điểm tựa chính cho chủ đề tác phẩm, được khắc hoạ nổi bật ở cả hai mặt : tính cách và tư tưởng. Qua điểm nhìn của người kể chuyên xưng "tôi", tính cách bà Hiền hé lộ dần, một tính cách "động" mà hoá ra ổn định từ đầu đến cuối. Tư duy nghiên cứu đã đảm bảo cho câu chuyên liên tục là những khám phá bất ngờ, "níu chân" bạn đọc. Từng bước hoàn thiện chân dung bà Hiền theo dòng chảy thời gian với bao đổi thay thời cuộc, mỗi lần gặp gỡ nhân vật là thêm một lần người kê chuyện ngỡ ngàng. Tác phẩm xâu chuỗi bốn tình huống nhận thức, cố ý tạo nên mạch truyện tưởng lan man, ngẫu hứng mà kì thực đan xen uyển chuyển, chặt chẽ, kết dính thành một hành trình nhận thức từ thấp đến cao (tình huống bà Hiền chọn chồng, tình huống bà bị "ngờ" là tư sản, tình huống các con bà tình nguyện đi chiến đấu và tình huống bà phải bày tỏ thái độ trước lối sống thủ đô thời kinh tế thị trường). Cảm quan lịch sử ở đây rất đậm nét. Mỗi tình huống tương ứng với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, những phát hiện của người kể chuyện về bà Hiền là mạch phát triển tuần tự : từ hoài nghi đến nể phục, từ e ngại đến tin cậy, từ tò mò đến cảm động, trân trọng. Tình huống nhận thức trong Một người Hà Nội khác với trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ở chỗ : không gay cấn, éo le, người kể chuyện không "bừng ngộ" mà "tiệm ngộ" dần dần cùng độ dài thời gian suy tư, chứng nghiệm, giống như một mạch ngầm văn bản. Có thể xem bà Hiền như chứng nhân cho những biến thiên lịch sử kéo dài từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kì đất nước tưng bừng công cuộc đổi mới. Qua bao biến động dữ dội, Bà Hiền vẫn vững vàng một bản lĩnh sống, đầy trách nhiệm công dãn mà không khi nào đánh mất mình "một đời không để bị ai cám dỗ". Bà luôn lấy lòng tự trọng làm nguyên tắc xử thế, lấy văn hoá làm thước đo giá trị sống : "là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống luỳ tiện, buông tuồng". Bà là một "thể phách" và một "tinh anh" của Hà Nội, vượt lên mọi biến suy của thời gian, mọi nông nổi của thói thời thượng để người đọc được nhẹ nhõm mãi niềm tin "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An" (ca dao). 

Vẻ đẹp "người Hà Nội" trong bà Hiền thể hiện trước hết ở việc gìn giữ "nếp nhà". Gốc gác Hà Nội cho bà một căn cốt vững vàng từ nền giáo dục gia đình. Cha mẹ bà đã là bằng chứng cho việc người ta có thể giàu có mà vẫn lương thiện, giàu có mà không "trọc phú". Cô Hiền thuở trẻ được cha mẹ cho mở phòng tiếp khách văn chương (gọi là xa lông văn học). Với ai đó thì đây là cơ hội để lấy được tấm chồng danh giá hoặc chỉ đơn giản, có dịp phô diễn sự thức thời (kiểu bà Phó Đoan xây sân quần trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chẳng hạn), nhưng với cô Hiền và gia đình cô, đấy là nhu cầu giao tiếp để mở mang tầm mắt, để hấp thụ thêm cái tao nhã cứa văn chương nghệ thuật. Thế nên việc cô Hiền chọn chồng đã khiến tất cả người quen biết bất ngờ. Họ bất ngờ vì họ tư duy theo thói thường. Cô Hiền đứng ngoài cái thói thường ấy. Có lẽ cô nhắm tới một cuộc hôn nhân đảm bảo duy trì truyền thống "giàu có lương thiện" của gia đình và cô phải đóng vai người "nội tướng" để giữ vững "nếp nhà". Đấy là sự lựa chọn của bản lĩnh cá nhân và của tình yêu Hà Nội sâu xa trong máu thịt. Những năm Hà Nội bị tạm chiếm, gia đình cô không tản cư (điều này gây ra sự ngờ vực ở không ít người về lập trường yêu nước của cô) nhưng thực chất cô không tản cư chỉ vì "không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất nào khác". Một tình yêu kiên định bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc vào sự ngay thẳng (nhưng có lẽ cũng vì vậy mà cực đoan nghĩ rằng chỉ ở Hà Nội mới duy trì được lối sống đẹp ?)

Khi Hà Nội được giải phóng, khi "văn hoá thời chiến", "văn hoá bình dân" lên ngôi, bà Hiền càng có ý thức nuôi dưỡng dưới mái nhà mình nét thanh lịch vốn có, từ cách ăn, cách mặc đến cách xưng hô. Theo bà, đấy cũng là văn hoá, bà muốn các con bà nhận ra "văn – hoá – người" ngay từ những chuyện nhỏ nhặt, thường tình nhất : "Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn sống ra sao là tuỳ". Bà không uốn mình theo lối ứng xử dễ dãi của số đông. Cái sâu sắc ở người phụ nữ, người mẹ, người Hà Nội ấy không phải ai cũng nhận ra. Nhân vật "tôi" lúc đầu đã nghĩ bà "đích thị là tư sản" nên bảo vợ con "tránh xa" để khỏi liên luỵ, rồi sau đó lại cho bà là kẻ thủ cựu, cố chấp, không hợp thời. Có lẽ mãi sau này, khi gặp những kẻ không còn khả năng "biết xấu hổ", không còn lòng tự trọng mà chỉ còn sự trăng tráo thô bỉ, "tôi" mới thật hiểu trí lự của bà Hiền. Có một người mẹ như thế, tất sẽ có những người con "không sống bám vào sự hi sinh của bạn bè", tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. Trong bữa tiệc gia đinh mừng ngày Dũng trở về từ chiến trường miền Nam, người – con – trai – bà – Hiền đã nói rất ít về những chuyện vui, những chiến công:

"Anh nói rằng trong nửa năm nay, anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người. Bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục" (Hà Nội của anh đã không tiếc máu xương cho Tổ quốc hoà bình, thống nhất). Rồi anh kể về tình yêu mẹ của người đồng đội tên là Tuất, về sự can đảm phi thường của mẹ Tuất lúc anh đến báo tin Tuất đã hi sinh. Niềm vui được sống trở về không làm chàng trai còn rất trẻ ấy quên chia sẻ nỗi đau của người khác. "Chất Hà Nội" từ thế hệ người mẹ như bà Hiền, như mẹ Tuất đang được chuyển giao thật tự nhiên sang thế hệ những người con như Dũng, Tuất. (Đối diện với họ, nhân vật tôi phải giật mình bởi những nhận xét ồn ào, vội vã : "tôi đã nói điều gì thất thố ?")

Để có thể gìn giữ nghiêm cẩn nề nếp gia phong, người phụ nữ đương nhiên phải đóng vai trò "nội tướng" (tục ngữ có câu "Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm"). Bà Hiền thực hiện tư tưởng nam nữ bình quyền theo cách riêng : dứt khoát mà vẫn thừa tinh tế. Bà chủ động chấm dứt sinh đẻ với nhận thức thật đúng đắn : sinh con nghĩa là phải nuôi dạy con nên người, phải chuẩn bị chu đáo cho mỗi đứa con có khả năng sống tự lập "khỏi phải sống bám vào anh chị" (lại vẫn lấy nguyên tắc tự trọng làm chuẩn). Bà chê trách người cháu : "Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Bà điều hành gia đình bằng những phép tính khôn ngoan, nhìn xa trông rộng "và luôn tính đúng vì khòng có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ". Như vậy chồng và con bà không nể trọng sao được ? Có một chi tiết nhỏ tưởng bình thường mà thật đắt giá : thấy cậu con trai xưng hô không hợp với quan hệ gia đình (gọi anh là đồng chí), bà "cau mặt gắt" nhưng khi ông chồng cũng phạm chính lỗi đó, bà chí "thở dài, quay người đi". Một người vợ biết tôn trọng chồng là biết nhượng bộ, nhường nhịn đúng lúc. Nghiêm khắc, kĩ lưỡng uốn nắn con cái từng li từng tí, nhưng bà bao giờ cũng hiểu con và luôn biết dành cho chúng quyền tự quyết định. Bà đảm dang, tháo vát mà không ích ki lạnh lùng. Tình nghĩa thuỷ chung của vợ chồng chị vú em đối với gia đình bà nói lên điều đó.

Nhưng một người "nội tướng" mẫu mực chúng ta có thể gặp ở nhiều nơi. Cái làm nên tính cách riêng của bà Hiền, khiến bà – một phụ nữ bình thường trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam – trở nên cá biệt, phi thường chính là bản lĩnh cá nhân, sự lịch lãm và lối sống sang trọng. Dù có lúc bị ngờ vực, bị soi xét bằng cái nhìn định kiến, bao giờ bà Hiền cũng vẫn là mình – một cái tôi khôn ngoan, giàu tự trọng, biết neười biết ta. Thuở trẻ trung, nhan sắc hơn người, bố mẹ lại giàu có, cô Hiền đã không buông mình cho thói hợm hĩnh, đua đòi ăn chơi hưởng lạc như vô số kẻ tầm thường khác. Sau này người phụ nữ ấy sẽ tạo lập tổ ấm của mình bằng chính bàn tay tài hoa, chăm chỉ và cái đầu giỏi tính toán, cho nên gia đình bà lúc nào cũng giữ được phong cách sống đàng hoàng, ấm áp. Bà "có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả" (giữa những cái nhìn kì thị với sự giàu sang cực đoan đến mức cháu cũng nghi ngại cô, thì phải có bản lĩnh lớn lắm mới có thể ung dung mà sống như bà Hiền). Không bao giờ xu thời, nhưng cũng không quay lưng với thời cuộc, bà tự giác điều chỉnh công việc làm ăn mỗi khi cơ chế thay đổi. Tỉnh táo và công bằng, bà phê phán sự lạc quan tự mãn thái quá của nhiều người trong những ngày đất nước mới độc lập : "Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ!" (có phải lại thêm một cái giật mình tự phản tính của tác giả ?). Bà không tán thành quan điểm "không khuyến khích cá nhân làm giàu" của chế độ mới nhưng không phản kháng mà cố gắng thu xếp sao cho gia đinh mình vừa không vi phạm luật pháp vừa không đánh mất truyền thống riêng. Một câu nói nhẹ nhàng giải thích việc bà không bị "học tập cải tạo" cho thấy bà rất công tâm : "các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết". Con người ấy luôn độc lập trong nhìn nhân đánh giá và rất ít vướng vào định kiến.

Thông minh, thức thời, tháo vát,… đó là tính cách của bà Hiền trong cuộc sống đời thường. Tính cách ấy rất đáng để nể phục. Nhưng bản lĩnh ứng xử trước thời cuộc (luôn "là mình" mà không thiếu trách nhiệm với cộng đồng, tính toán khôn ngoan mà vẫn đằm thắm một tấm lòng đôn hậu) mới thực sự là những giá trị làm nên nhân cách của bà, làm nên văn hoá sống, làm nên cái đẹp. Khi hàng trăm thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường đánh đế quốc Mĩ, người con trai cả của bà Hiền tình nguyện nhập ngũ, bà không ngăn cản con, cũng không nhân đó mà khoe lòng yêu nước. Bà trả lời thẳng thắn "tao đau đớn mà bằng lòng". Trong văn học thời chiến tranh của ta hình như chưa một bà mẹ nào phát biểu thế cả. Nguyễn Khải đã rất sâu sắc để cho nhân vật công khai đối thoại với những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa ái quốc. Người đọc nào yêu chuộng sự trung thực sẽ rất cảm động vì tin vào cuộc đấu tranh nội tâm – dù chỉ được hé mở qua một câu nói – chắc chắn nhiều giằng xé mà người mẹ – người công dân như bà Hiền phải trải qua. Bà mẹ nào có thể vui khi đứa con phải đi vào nơi hiểm nguy, nhưng bà hiểu con "nó dám đi cũng là biết tự trọng". Bà không che giấu niềm kiêu hãnh : "tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè". Với việc ra đi của đứa con thứ hai, bà vẫn ứng xử trên nguyên tắc tự trọng và niềm kiêu hãnh như vậy vì theo bà, ngãn cản con là "bảo nó tìm đường sống để các bạn phải chết", "đấy cũng là cách giết nó". Bà đặt danh dự cao hơn sự sống, mất danh dự tức là chết về tinh thần, nhân phẩm.

Mang đậm cốt cách Hà Nội, trong sâu thẳm con người bà Hiền là cái tâm linh của Hà Nội. Tâm linh ấy được bồi đắp trên truyền thống của mảnh đất nghìn năm văn hiến. Khi con người tin rằng mình đang giữ gìn một giá trị, thì tự khắc nó tìm được khả năng đề kháng trước mọi biến suy và cám dỗ. Bà Hiền ý thức mình là người Hà Nội nên cái mà bà tha thiết bảo vệ và phát huy là cái chất Hà Nội. Bà không chỉ dạy dỗ con cái sống có văn hoá mà còn nỗ lực tạo dựng một môi trường văn hoá trong gia đình (mỗi tháng đều tổ chức một bữa ăn bạn bè làm sống dậy những nét sinh hoạt và giao tiếp sang trọng, đẹp đẽ như truyền thống kinh kì). Giữ nếp nhà là cách để giữ nếp người. Sau bao nhiêu biến thiên của lịch sử, giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy tâm lí thực dụng mà phòng khách nhà bà Hiền – thế giới riêng của bà – vẫn giữ nguyên phong cách lịch lãm, quý phái của hơn nửa thế kỉ trước với tấm bình phong bằng gỗ chạm, bộ sa lông gụ, sập gụ, tủ chùa, lọ men Thuý hồng, lư hương đời Hán, liễn hấp sâm Giang Tây,… Những thứ đồ trưng bày đều là cổ vật quý giá, mang trong mình tính trang nghiêm, cổ kính của nhiều tầng văn hoá, biểu hiện cốt cách văn hoá của chủ nhân. Căn phòng khách có thể coi là biểu tượng cho con người có thế giới tâm hổn thanh sạch, luôn bình tâm trước mọi đổi thay. Và con người – chủ nhân của không gian ấy – cũng là một "cổ vật" hay một giá trị không phai nhoà của một thời vàng son. Hình ảnh bà Hiền đang lau đánh chiếc bát thuỷ tiên tưởng như đơn giản mà chứa đựng tất cả cái không khí Tết Hà Nội đặc trưng, đó sẽ là hình ảnh chắc chắn trong tương lai con người hiện đại phải nặng lòng hoài nhớ khi cái nhịp sống công nghiệp và xu hướng đô thị hoá ào ạt có nguy cơ tước đoạt hết những khoảng không gian yên tĩnh để di dưỡng tinh thần. Nhà văn đã dự cảm trước nguy cơ đó khi nêu câu hỏi : “Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thuỷ tiên", "ví thử có thuỷ tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thuỷ tiên ?". Và còn đáng buồn hơn nếu cách sống ồ ạt xô bồ đã khiến con người không còn biết bình tĩnh mà thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một giò thuỷ tiên. Phòng khách nhà bà Hiển là thế giới thực nhưng cũng đầy tính tượng trưng. Bà vẫn tỉnh táo, thức thời, có điều bà đã vượt lên trên thói thường nhờ cái tầng văn hoá tâm linh vô hình mà ám ảnh. Mối bận tâm của bà bây giờ có thể chỉ là chuyên cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn. Cây si ấy gợi liên tưởng đến sức sống trường tồn của tự nhiên mà cũng là sự hữu hạn của tự nhiên. Chính ý thức con người (việc làm kịp thời của Sở Văn hoá Hà Nội) sẽ khắc phục tính hữu hạn đó. Cây si nối quá khứ với hiện tại, là hoá thân của linh hồn Hà Nội, là niềm tin của người Hà Nội vào những giá trị bất diệt. Cuộc đời bà Hiền cũng như câu chuyện về cây si đã làm sáng tỏ chân lí mà nhà vặn tâm niệm : "nói cho cùng, để sống được hằng ngày, tất nhiên phải nhờ vào những giá trị tức thời. Nhưng sống cho có phẩm hạnh, có cốt cách nhất định phải dựa vào những giá trị bền vững”.

Câu chuyện kết thúc khi những hoài nghi, bất bình của người kể chuyện vể cách ứng xử thô bạo ông gặp trên đường phố Hà Nội đã được hoá giải bởi những chiêm nghiệm của bà cô "ngoài bảy mươi tuổi" mà vẫn "giỏi quá", "khiêm tốn và rộng lượng quá". Bước ngoặt nhận thức khiến người kể chuyện, trong niềm hi vọng lạc quan, đã nảy ra một so sánh thật đẹp : "Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ". "Hạt bụi vàng" nhỏ bé nhưng là tinh tuý tạo nên ánh vàng "sáng chói" cho đất kinh kì. Nó cũng trở thành biểu tượng cho con ngựời Hà Nội : bình dị mà lớn lao, hữu hạn về thân xác mà vô hạn về tâm hồn. Trong cảm hứng ngợi ca, tự hào, ngòi bút Nguyên Khải không khỏi thoáng gợn chút rưng rưng tiếc nuối (hay một nỗi lo âu vẻ viễn cảnh phôi pha cái đẹp cổ truyền trước dòng chảy cuồn cuộn của dời sống thời kinh tế thị trường), phải chăng vì thế mà ông mơ ước: "Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng!".

Một người Hà Nội rất đậm dấu ấn của tư duy tiểu thuyết : cốt truyện được nới lỏng, ít sự kiện, biến cố nhưng được kết cấu thành nhiều tình huống nhận thức. Sau mỗi lần gặp gỡ, người kể chuyện lại có thèm một phát hiện mới, một nhận thức mới về bà Hiền, để cuối cùng người đọc tự hoàn chỉnh chân dung người phụ nữ Hà Nội ấy. Thường xuyên tác giả đặt một sự việc, một vấn đề dưới nhiêu cách nhìn (khi công khai, khi ngầm ẩn), biện pháp đối sánh này là sản phẩm cua tư duy dân chủ trong tiểu thuyết, tạo ra quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và bạn đọc, đưa đời sống vào nhiều "toạ độ" đánh giá để mời gọi bạn đọc tham gia đối thoại. Bà Hiền có phải người Hà Nội điển hình không ? Cách sống của bà, những ứng xử của bà có gì hạn chế ?,… tất cả thực ra vẫn còn là những giả định, hình dung, những câu hỏi ngỏ vì tác giả đã luôn nhấn mạnh vào cái nhìn chủ quan của người kể chuyên. Như vậy, tôn trọng kinh nghiệm cá nhân không có nghĩa người đọc phải coi kinh nghiệm ấy là chân lí. Truyện không sa vào lí luận nặng nề hay nhàm tẻ mà có sự đan xen giọng điệu khá linh hoạt : đằng sau / ẩn trong giọng của người kể chuyện, thấp thoáng có những giọng khác. Hình tượng người kể chuyên ưa triết lí, suy ngẫm, lại xưng "tôi" , thậm chí tự tiết lộ tên mình là Khải (lời con trai bà Hiền : "Mẹ ơi ! Đồng chí Khải đến"), nghĩa là mang rất nhiều chi tiết tiểu sử tác giả, đã gợi cảm giác thân mật và tin cậy, rất thích hợp cho cuộc giao tiếp cởi mở giữa nhà văn với người đọc. Qua hình tượng người kể chuyện, hiển hiộn một Nguyễn Khải có nhu cầu tự vấn, tự nhận thức lại về nhiều vấn đề tưởng đã là chân lí. Cảm hứng triết luận nghiêm túc không hoàn toàn lấn át cảm hứng tự trào – đấy là cái duyên riêng của tác giả Một người Hà Nội.

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải – Bài làm 2

Nói đến thế hệ nhà văn viết về nông thôn thì Nguyễn Khải là một trong số đó. Các tác phẩm viết về nông thôn của ông chủ yếu là trong quá trình xây dựng cuộc sống mới. Truyện ngắn "Một người Hà Nội" được viết với chủ đề như thế. Truyện ngắn đã phát hiện được vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước.

Truyện được viết dưới nhãn quan của nhân vật "tôi" và nhân vật trung tâm là cô Hiền. Truyện kể về những biến chuyển của Hà Nội những năm đầu vừa giải phóng. Hà Nội chuyển biến từ cảnh vật cho đến cách sống, cách sinh hoạt.  Và cách sống ấy là của nhà cô Hiền, "gia đình nàu rất khó gắn bó với chế độ mới, và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ. Là vì họ ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn". "Cái mặc họ cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo ba – đờ – xuy, đi giày da, bà mặc áo măng – tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm. Lại cái ăn nữa cũng không giống số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định". "Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, và cả cách nói năng nữa". Truyện tập trung chủ yếu nói về lễ nghi của người Hà Nội mà cô Hiền là hiện thân của nó. Cô vẫn thường răn: "Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng".

Cô Hiền bị chê là tư sản nhưng rất khôn khéo trong việc nhà việc nước. Những nét đẹp của người Hà Nội cô đều có cả. Miêu tả cách sống của người Hà Nội song khi cách sống ấy đã bị mai một, tác giả đã thể hiện thái độ của mình. Cách sống ở Hà Nội bây giờ đã thay đổi. "Cách sống, cái tâm lý sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái chết cái khổ". Họ không còn giữ được cái bình tĩnh. Phần hồn Hà Nội không còn nữa. "Đã lâu không đến nên quên đường lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất hàm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ".

Trong tác phẩm, Nguyễn Khải còn thể hiện vẻ đẹp của Dũng, những thanh niên Hà Nội. Họ tình nguyện đăng kí đi đánh Mỹ với lòng sắt son, tình yêu nước nồng nàn. Trước cái chết của đồng đội, họ không những thấy tiếc thương mà còn hổ thẹn. Tuất là bạn của Dũng nhưng Tuất đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Anh về đến Hà Nội "là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau, cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hi sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống đến tận bây giờ, đến hôm nay". Thêm một nét đẹp nữa về con người Hà Nội. Họ biết đồng cảm với những người bất hạnh hơn mình. Phần cuối tác phẩm, cô Hiền đã già, Hà Nội đã đổi khác nhưng nét Hà Nội trong cô vẫn còn đó, không bị pha trộn. Chính bởi đó mà tác giả thể hiện sự tiếc nuối nếu nét ấy không còn. "Một người Hà Nội như cô chết đi thật là tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào đất cổ".

Kết thúc tác phẩm, Nguyễn Khải đã cho người đọc nhiều suy ngẫm nhất là đối với những ai sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Tác phẩm như một bài ca nhẹ nhàng về lối sống, con người Hà Nội. Giọng điệu trần thuật tự nhiên và nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của Nguyễn Khải đã giúp cho tác phẩm tiến gần với bạn đọc hơn.

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội – Bài làm 3

Trong số các sáng tác của Nguyễn Khải, truyện ngắn Một người Hà Nội là cái nhìn mới trong nghệ thuật của nhà văn về cuộc sống và con người. Trước những năm đổi mới, con mắt nhìn của nhà văn về truyện ngắn có sự sắc lạnh, đa chiều, nghiêm ngặt…nhưng bước sang thời kì đổi mới, cái nhìn ấy trở nên đầy suy nghiệm, trăn trở trước hiện thực đầy biến động, hối hả và xô bồ nhưng cũng đầy hương sắc. 

Nguyễn Khải đã chuyển từ các nhìn hướng ngoại sang hướng nội và lấy việc khám phá con người làm trung tâm trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, dân tộc, gia đình và các thế hệ qua đó ngợi ca những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay. 

Nhân vật trung tâm của Một người Hà Nội là nhân vật bà Hiền. Bà Hiền hiện lên là một con người lịch lãm, thông minh, thẳng thắn và giàu lòng tự trọng. Trải qua bao biến động thăng trầm  của đất nước, bà Hiền vẫn giữ được vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn người Hà Nội. Bà chính là hạt bụi vàng lấp lánh của đất kinh kì ngàn năm văn hiến, góp phần làm giàu làm đẹp cho bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. 

Qua nhân vật bà Hiền, người đọc thấy được những sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Khải về giọng điệu trần thuật cũng như khả năng xây dựng hình tượng nhân vật. Chân dung bà Hiền được nhà văn phác họa lên sự hào hoa, thanh lịch của một người Hà Nội với vẻ đẹp thanh tú, cầu kì kiểu cách khiến ngay cả chính đứa cháu của bà cũng tin bà đích thị là tư sản. 

Trong cuộc sống, bà Hiền thể hiện là người thông minh, tài hoa và lịch lãm… đó là những nét văn hóa lâu đời của một người Hà Nội. Bảy mươi tuổi vẫn chơi hoa thủy tiên và cho bao năm tháng đi qua vẫn duy trì một phòng khách sang trọng, lịch lãm. Bà Hiền luôn có ý thức giữ tìn nét đẹp trong tâm hồn và lối sống người Hà Nội vì thế bà luôn bảo ban, dạy dỗ con cháu phải sống nền nếp, tế nhị và giữ lòng tự trọng từ cách ngồi, cách ăn uống, đi đứng, nói năng đến lẽ sống ở đời.

Nét nổi bật của nhân vật bà Hiền là sự thẳng thắn, giàu lòng tự trọng. Bà thực tế từ việc lấy chồng, sinh con đến mọi công việc nhà. Bà Hiền lấy một ông chồng không tài hoa để đảm bảo sự an toàn cho hạnh phúc gia đình; đẻ con chỉ năm đứa để tròn trách nhiệm nuôi dưỡng con cái. Mọi việc bà đều liệu trước và quyết là làm cho bằng được.

Trải qua bao biến cố thăng trầm của đất nước, bà Hiền vẫn giữ được nét đẹp vẹn nguyên trong tâm hồn người Hà Nội không pha trộn, không đổi thay ngay cả khi lớp bụi thời gian đã phủ mờ quá khứ và ở cái tuổi thất thập cổ lai hy. Bà luôn tin tưởng vào tương lai của Hà Nội ngay cả khi sự nghiệt ngã của cuộc sống hiện đại mà người ta dần làm mất đi phần hồn của Hà Nội nhưng bà Hiền vẫn ung dung kể chuyện cây si cổ thụ. Cây si cũng như sự đắp đổi của thời gian, đời người nếu được con người cứu chữa nó sẽ tiếp tục sống lại và hồi sinh. 

Nguyễn Khải đã đem tới cho bạn đọc tác phẩm Một người Hà Nội với giọng văn nhẹ nhàng pha chất triết luận khi khắc khọa hình mẫu bà Hiền, một hạt bụi vàng nhỏ nhoi nhưng không dễ dàng có thể chìm vào biển cát mênh mông giữa giông tố và sự đổi thay của thời đại. Những người như bà Hiền sẽ soi sáng cho mỗi thế hệ Hà Nội, ấy chính là giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người mà Nguyễn Khải muốn ngợi ca.

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải – Bài làm 4

Văn chương thuộc lĩnh vực nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo độc đáo. Một nhà văn có tài thường bộc lộ cá tính sáng tạo không phải chỉ ở việc phát hiện và phản ánh hiện thực mà còn ở cách thức thể hiện vấn đề nhằm đạt được giá trị tư tưởng và thẩm mỹ cao.

Nguyễn Khải là một trong những nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo. Nhạy cảm phát hiện hiện thực cuộc sống ở những góc độ khác nhau, ông đã đem đến cho người đọc cảm giác thú vị khi tiếp cận tác phẩm của ông qua hình thức phản ánh độc đáo, sáng tạo. Hà Nội là một đề tài tạo nhiều cảm hứng sáng tạo cho nhà văn. Trong truyện ngắn “ Một người Hà Nội” (tác phẩm được giảng dạy ở chương trình Ngữ văn lớp 12 nâng cao), hình ảnh con người Hà Nội, cuộc sống Hà Nội qua sự cảm nhận suy ngẫm, vốn trải nghiệm cuộc sống sâu sắc của nhà văn đã hiện ra với một vẻ đẹp riêng. Điều ai cũng nhận thấy ở truyện ngắn này là qua hình ảnh cô Hiền, tác giả muốn khắc đậm bản lĩnh, cốt cách, vẻ đẹp tâm hồn người Hà Nội biểu lộ qua lối sống lịch lãm, sang trọng thể hiện bản sắc văn hóa Hà Nội. Cô Hiền là hình ảnh của một người phụ nữ luôn trân trọng, nâng niu và có ý thức giữ gìn những nét đẹp của văn hóa truyền thống Hà Nội. Xây dựng nhân vật này, nhà văn đã bộc lộ quan niệm nghệ thuật riêng về con người mà cái chuẩn qui chiếu được đặt ra là lối ứng xử văn hóa cá nhân của con người thể hiện bản lĩnh của người Hà Nội. Bài viết không nhằm đề cập sâu đến vấn đề này mà muốn bàn luận đến lối trần thuật  sáng tạo để phản ánh vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Hà Nội qua bao biến động thăng trầm của đất nước, qua đó nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình về cuộc sống, về con người Hà Nội.

Truyện ngắn, một thể loại tự sự trong văn học bao giờ cũng phản ánh cuộc sống qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó, qua đó ta hiểu được sự nhận thức đánh giá của nhà văn đối với cuộc sống. Do đó tác phẩm bao giờ cũng có hình tượng người trần thuật với vai trò kể lại, tả lại những diễn biến, sự việc và khắc hoạ nhân vật trong câu chuyện. Người kể có thể xuất hiện ở các ngôi kể khác nhau, có thể ở ngôi thứ nhất  “tôi” để trực tiếp kể nhưng cũng có thể ở ngôi thứ ba không tham gia câu chuyện,  cũng không nói thẳng ra là tôi kể mà cứ để cho sự việc hiện dần lên và tự nó diễn biến đến kết thúc như nó vốn có. Các hình thức xuất hiện của người kể tạo thành hai kiểu trần thuật cơ bản: kiểu trần thuật khách quan ( kể từ ngôi thứ ba) và kiểu trần thuật chủ quan ( kể  từ ngôi thứ nhất).

Một người Hà Nội là truyện ngắn của Nguyễn Khải được xây dựng theo lối trần thuật chủ quan với người trần thuật ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Theo lối kể này, nhân vật “tôi” vừa là người có vai trò trần thuật vừa là người tham gia vào câu chuyện, có mối quan hệ với  các nhân vật trong câu chuyện. Vì thế bên cạnh nhiệm vụ tái hiện lại câu chuyện, nhân vật “tôi” cũng có vai trò bình đẳng với các nhân vật khác, có thể bộc lộ cá nhân mình với những biểu hiện về tính cách, tâm lý, suy nghĩ… Trong tác phẩm này, sự tự bộc lộ cá nhân của người kể thể hiện khá đậm. Do vậy dõi theo câu chuyện, có thể nhận thấy cùng với sự việc khách quan được người kể dẫn dắt có sự đan xen những dòng suy nghĩ nội tâm của người kể chuyện. Nhân vật “tôi” đã vừa kể vừa suy ngẫm về những vấn đề được kể cho nên người đọc có thể vừa theo dõi câu chuyện vừa có thể hiểu được những suy nghĩ có tính chất chủ quan của người kể. Câu chuyện vì thế không hoàn toàn khách quan, người kể luôn lộ diện để suy ngẫm, để bình luận, triết lí một vấn đề nào đó qua những dòng độc thoại nội tâm. Ví như đang kể  chuyến về Hà Nội thăm người cô nay đã già, người kể vừa kể vừa tả vừa bộc lộ suy nghĩ về hành động của người cô từ đó nghĩ về nét đẹp của văn hoá Tết ở Hà Nội : “ Cô đang lau một cái bát thủy tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nối bằng đồng, miệng chân cũng đều bịt đồng, thật đẹp. Bên ngoài trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt, lại nhìn một bà lão ( nếu là một thiếu nữ thì phải hơn) lau đánh cái bát bày thủy tiên thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại cái tết Hà Nội. Năm nay chắc chưa thể có thủy tiên. Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà không buôn được vài ngàn củ thủy tiên nhỉ? Ví thử có thủy tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thủy tiên. Lại thêm cái cách sống, cái tâm lí sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái khổ đã dễ gì có được sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên.”. Do đặc điểm lối trần thuật của Nguyễn Khải có sự đan xen giữa việc kể, tả với bộc lộ cá nhân ở những suy nghĩ, phân tích, bình luận sự việc đậm màu sắc triết lí nên sự việc được kể không hoàn toàn khách quan, người đọc có thể hiểu được vấn đề tác giả phản ánh và cả quan điểm của người kể. Cách kể như thế đã làm rút ngắn khoảng cách giữa người kể với câu chuyện cùng với những nhân vật trong truyện, do vậy độ chân thật của truyện cũng sẽ cao hơn. Với lối kể này, giọng trần thuật của truyện cũng mang nét riêng thâm trầm sâu lắng. Nhịp điệu câu chuyện chậm rãi lắng sâu vào suy tư của nhân vật “tôi”, một con người có nhiều trải nghiệm trong cuộc đời nên đã phát hiện ra những vấn đề tinh nhạy, những bài học nhận thức mang rõ chủ kiến sâu sắc của nhà văn. Những đúc kết từ sự trải nghiệm  tác giả đặt ra đã đem đến cho người đọc sự suy nghĩ trước những vấn đề của cuộc sống hiện đại. Vì thế tác phẩm như một sự đối thoại, chia sẻ với bạn đọc vấn đề tác giả chiêm nghiệm, suy tư. Cuối truyện khép lại tác phẩm là đoạn văn: “Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết. Bà vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng.”. Đoạn văn đã để lại một dư âm vấn vương trong lòng người đọc, gợi sự suy nghĩ về một vấn đề mà tác giả đặt ra: Nét đẹp xưa của thủ đô với truyền thống văn hóa lâu đời liệu có còn được gìn giữ bảo tồn khi Hà Nội đang trên đà hiện đại hơn xưa? Có lẽ đây là vấn đề tác giả quan tâm và muốn chia sẻ, đối thoại với người đọc. Bằng lối kể như trên, tác giả đã rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và câu chuyện, tạo sự dân chủ trong đối thoại giữa tác giả và người đọc.

Đọc truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, người đọc còn cảm thấy hấp dẫn, lí thú do lối kể  có nét mới lạ độc đáo của tác giả. Nhà văn luôn đặt vấn đề ở nhiều điểm nhìn và cách đánh giá khác nhau: của người kể, của từng nhân vật. Trong truyện thường có sự chuyển vai linh hoạt, sự luân phiên điểm nhìn và ý thức từ người kể đến nhân vật, từ nhân vật này đến nhân vật khác trong việc thể hiện suy nghĩ trước vấn đề tác giả đặt ra. Chẳng hạn ở phần 3 của truyện ( SGK 12 nâng cao trang 74,75), vấn đề được đặt trong điểm nhìn và ý thức của người kể. Nhân vật “tôi” đã bộc lộ tâm trạng của mình được sống năm đầu ở Hà Nội vừa giải phóng là vui, là “cực kì khoan khoái”. Nhưng để cái nhìn khách quan hơn, tác giả đã đặt vấn đề ở những góc nhìn của những con người khác nhau, những người Hà Nội như cô Hiền, hay chị vú để cho nhân vật bộc lộ suy nghĩ. Ở góc nhìn của cô Hiền, một người phụ nữ Hà Nội vốn sống trong khuôn phép thì tuy vui nhưng “ chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục buổi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ  mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở…”. Ở góc nhìn và sự đánh giá của chị vú, người làm công thì chị cho rằng: “Cách mạng gì toàn để ý đến những chuyện lặt vặt”. Có khi ý thức suy nghĩ, quan điểm của nhân vật như có sự đối thoại với người kể. Ví như khi người cô răn dạy lũ trẻ: “ Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Quan niệm này như được đặt trong sự đối thoại với quan niệm của người kể ngay sau đó: “Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại bắt dạy con cái theo  thời bình là khó lắm”. Sự đối thoại về ý thức như thế tạo nên sự thay đổi điểm nhìn linh hoạt làm cho khoảng cách giữa người kể và nhân vật trở nên gần gũi. Cách kể sự việc dưới nhiều góc nhìn, điểm nhìn về cuộc sống, con người Hà Nội ở một giai đoạn mới của xã hội giúp cho người đọc hiểu được tâm tư tình cảm, cách nghĩ và đời sống tinh thần của họ. Sự việc được kể vì thế khách quan hơn đồng thời cách kể cũng trở nên linh hoạt, sinh động, hấp dẫn chứ không đều đều, nhàm chán.

Do sự trần thuật có sự đan xen giữa lời kể khách quan của câu chuyện với suy nghĩ chủ quan của người kể và ý thức của nhân vật nên lời văn nghệ thuật cũng biến hoá linh hoạt. Trong truyện, tác giả sử dụng lời gián tiếp khi dẫn dắt câu chuyện đan xen với lời trực tiếp khi dẫn lời nhân vật hay bộc lộ suy nghĩ nội tâm của chính mình. Có khi tác giả lồng vào trong lời kể ý thức, quan điểm, suy nghĩ của nhân vật bằng lời văn nửa trực tiếp, tức lời gián tiếp nhưng đã mang ý thức và ngữ điệu của nhân vật. Chẳng hạn đoạn văn sau đây: “ Cô than thở với tôi rằng dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt một bà già nhà quê. Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa nhìn sang đền Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tán cây đè lên hậu cung, một phần bộ rễ bật đất chổng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn luôn là thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Đoạn văn đã có sự hoà trộn giữa giọng điệu của người trần thuật và giọng của nhân vật. Để tạo sự khách quan trong khi kể, nhà văn không đứng ngoài để miêu tả mà nhập vào ý thức nhân vật để nhân vật tự nói lên suy nghĩ, tâm tư của mình. Bằng cách này nhà văn đã vừa kể vừa thâm nhập vào ý thức nhân vật. Điều này đã làm cho lời văn có tính đa thanh, đa giọng và biến hoá linh hoạt.

Đọc văn Nguyễn Khải, người đọc dễ dàng nhận thấy  nghệ thuật trần thuật theo một lối riêng của ông. Không thuật kể theo lối thông thường để tái hiện sự việc, truyện của ông thiên về lối kể qua suy ngẫm, chiêm nghiệm của bản thân về cuộc sống, qua lối đối thoại mang tính dân chủ với người đọc. Điều này đã tạo nên một nét phong cách rất riêng thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn. Có lẽ đây là một yếu tố tạo nên sự thú vị, hấp dẫn cho người đọc khi tiếp cận tác phẩm của ông. Đọc “ Một người Hà Nội” cũng có thể thấy Nguyễn Khải là một nhà văn hiểu Hà Nội sâu sắc, yêu và say mê nét đẹp văn hóa người Hà Nội và thiết tha muốn lưu giữ mãi mãi nét đẹp văn hóa chốn kinh kỳ.

Thu Thủy (Tổng hợp)

0