Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Văn mẫu hay lớp 11
Xem nhanh nội dung Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Gia Lai A. MỞ BÀI: Vào thời điểm thơ mới đang hưng thịnh, người ta quan tâm tới Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Gia Lai
A. MỞ BÀI:
Vào thời điểm thơ mới đang hưng thịnh, người ta quan tâm tới Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận,… Nguyễn Bính chỉ được ghi nhận là nhà thơ quê mùa, mang hương vị của “hương đồng gió nội” chốn thôn quê. Thông qua sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, thơ Nguyễn Bính càng lúc càng được khẳng định, thơ ông đã đánh động, khơi nguồn những giá trị văn hóa truyền thống, đã làm sống lại ca dao dân ca vốn là nền tảng của đời sống tâm hồn dân tộc.
“Tương tư” là trạng thái tình cảm, được bộc lộ nhiều nhất trong ca dao, tình yêu người Việt Nam. Đề tài này đi vào thơ Nguyễn Bính, nó vừa mang những nét rất quen nhưng cũng có nét biến thái rất lạ, “rất Nguyễn Bính”.
B. THÂN BÀI
* Giải thích: “Tương tư” trong nghĩa chữ Hán có nghĩa là cùng yêu nhau, cùng quan tâm khắc khoải về nhau. Mối quan tâm này đặc biệt được thể hiện trong quan hệ lứa đôi. Do vậy nói đến “tương tư”, là nói tới nỗi nhớ mãnh liệt, với nghĩa hẹp là nói về tình yêu trai gái.
Tuy nhiên, nghĩa thông dụng nhất của hai tiếng “tương tư’ còn có một nội hàm rất hẹp nữa. Đó là tâm trạng, nhớ nhung, mãnh liệt, phập phồng trong bao nhiêu âu lo và nó thường chỉ là một thứ tình cảm đơn phương từ một phía.
Do truyền thống văn hóa và đặc điểm giới tính, trong ca dao Việt Nam, văn chương Việt Nam, tương tư thường được người phụ nữ bộc lộ. Bài “Khăn thương nhớ ai”, “Sóng” của Xuân Quỳnh, hoặc “Lời ru với anh” của Lý Phương Liên., đều nói lên điều ấy.
Cái lạ của Nguyễn Bính trong bài “Tương tư” này là nhân vật trữ tĩnh bộc lộ những cung bậc nỗi nhớ không phải là người con gái mà chính là một chàng trai thôn quê.
Bắt đầu là một trạng thái nhớ nhung
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Câu thơ thứ nhất đáng lẽ nói: “Anh ở thôn này ngồi nhớ em ở thôn kia”. Một cá nhân quan tâm tới một cá nhân. Ấy vậy mà khi tương tư người ta cảm nhận tất cả mọi người thôn Đoài ngồi nhớ tất cả mọi người thôn Đông. Thậm chí, “thôn nhớ thôn” không gian địa lí dường như có linh hồn để chúng nhớ nhau. Thủ pháp Hoán dụ ở đây đã nói lên quy luật của nỗi nhớ: Khi tương tư người ta có cảm giác thế giới quanh mình cũng chịu áp lực của nỗi nhớ.
Câu thơ thứ hai xuất hiện 4/8 tiếng là số từ. Nào là “một” rồi lại “chín” rồi lại “mười” và rồi lại là “một”. Có điều tiếng “một” người đứng ởđầu và ở cuối câu thơ. Giữa người này và người kia là “chín nhớ mười mong”. Chính thành ngữ dân gian đã làm cho sự xa cách trở nên ngàn trùng hun hút. Đây không chỉ là sự xa cách không gian, địa vật lí mà là sự xa cách của không gian tâm lí. Chính nỗi nhớ với mười sự thương đã làm nên một sự ngăn cách diệu vợi giữa một người với một người. Hai dòng thơ thứ 3 và thứ 4 đều có hệ từ “là”. Nó tạo nên một so sánh có suy luận. Sở dĩ có “gió mưa” bởi vì trời trở bệnh. “Gió mưa” là biểu hiện bên ngoài của căn bệnh mà trời đang mắc phải. Bệnh của trời là do yếu tố bên trong chi phối.
So sánh thứ hai là nói về mối quan hệ giữa tương tư và bệnh. Nếu trời bị bệnh biểu hiện bằng gió mưa thì tôi bị bệnh biểu hiện bằng tương tư. Trời và tôi là hai kẻ đồng bệnh. Những cái khác nhau cơ bản giữa “trời” và “tôi” là nguyên nhân gây bệnh. Vì tôi yêu thương, tôi “tương tư’ cho nên tôi mắc bệnh tương tư. Phương thuốc trị bệnh cho tôi chỉ có thể là nàng. Chừng nào sự nhớ nhung một chiều; chừng nào người ta không có mối quan tâm ngược lại với tôi thì tương tư của tôi không dứt, không hết.
Trạng thái thứ hai của tương tư là băn khoăn hờn dỗi
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Văn hóa Việt luôn lấy làng làm đơn vị. Vì vậy, các thôn cũng thống nhất với làng, về hiện thực khách quan thì hai thôn là một. Bởi vì hai thôn chỉ là hai thành phần của một làng.
Khi tự nguyện “chung lại” thì sẽ trở thành con số một duy nhất. Quy luật của tình yêu là hợp nhất, tự nguyện giữa con người con gái và người con trai để thành một cặp, một mái ấm gia đình. Nói đến thôn làng ẩn dấu phía sau là nói tới quy luật của tình yêu định hướng phía hôn nhân.
Khách quan đã vậy cớ sao bên ấy và bên này lại khác biệt?
Hiển nhiên, bên này rất muốn chung với bên ấy. Việc “chung lại” hòa hợp này không thành thiện thực là do bên ấy quá hờ hững. Hai tiếng “cớ sao” là sự trách cứ dỗi hờn, sự băn khoăn của bên này với bền ấy.
Cung bậc thứ 3 của tương tư chính là những lời than thở
“Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.
Có thể nói, đây là hai câu thơ hay nhất trong bài Tương tư nó phản ánh một quy luật của tình yêu đơn phương đợi chờ, không có ai để sẻ chia tâm sự. Cách ngắt nhịp của thơ lục bát truyền thống là hai / hai ở đây nó đã tạo nên sự bất thường:
“Ngày qua ngày (3) lại qua ngày (3)”
Từ “ngày” đã lặp lại 3 lần ở câu lục (6). Nó tạo cảm giác: ngày này đi qua, ngày khác lại đến, không có thay đổi. Chờ đợi những ngày tiếp theo mong muốn có những động thái “bên ấy”. Nhưng rồi, lại qua một ngày nữa đợi chờ. Đồng thời gian trôi. Nỗi day dứt nóng ruột của kẻ tương tư cứ tăng lên.
Ở câu “bát” cũng có sự ngắt nhịp rất bất thường
“Lá xanh nhuộm (3) đã thành cây lá vàng (5)
Sợ chờ đợi mỏi mòn đã biểu hiện bằng thị giác. Từng chiếc lá xanh “ngày qua ngày lại qua ngày” đã bị nhuộm thành màu vàng. Nhiều chiếc lá xanh đã bị tháng ngày nhuộm thành nhiều lá vàng, ở đây thời gian tương tư đằng đẵng cho những cây lá xanh thành những cây lá vàng.
Nguyễn Du khi mô tả trạng thái chờ đợi lê thê và rất sốt ruột của nàng Kiều đã viết:
Nay hoàng hôn (3) đã (1) lại mai hôn hoàng (4)
Trong hai câu thơ Nguyễn Bính đã tách “lại”, và “đã” để dòng thời gian vẫn tiếp diễn như cũ và sự vật đã bị thời gian phủ nhận hoàn tất một quá trình.
Nguyễn Du có một câu thơ rất hay:
“Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
“Nhuốm” là muốn nói đến màu sắc “quan san” vừa chớm vào rừng phong mùa thu. Từ “nhuốm” chỉ sự bắt đầu xâm nhập vào màu sắc nguyên thủy. Từ “nhuộm” trong thơ Nguyễn Bính cho thấy màu xanh đã thành màu vàng. Thời gian đã “nhuộm” đi, nhuộm cho xanh không còn và vàng hiện diện. Câu thơ cho thấy sự tương tư ở đây đã gặm nhấm tâm hồn thật lâu, thật nặng nề. Nó biến cái tươi tốt thành vàng héo, hủy diệt.
Trạng thái tâm lí thứ 4 là hờn trách mát mẻ.
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng nay cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai hỡi ai người biết cho?”
Bởi tương tư là tình cảm đơn phương cho nên khi không có đối thoại chàng trai đã tự độc thoại. Nói thầm một mình mà cứ ngỡ cô gái mình yêu sẽ hiểu thấu tất cả.
Rõ ràng, thôn Đoài và thôn Đông chung một ngôi đình, một làng thì hiển nhiên không có cách trở đò giang; hiển nhiên con đường từ bên ấy sang bên này không có sự cách trở. Chẳng thà thôn Đoài thôn Đông bị ngăn cách bởi sông nước.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhân vật “tôi” và “nàng” ở hai thôn trong một làng nhưng thật sự hai nhà ở rất gần nhau. Anh ở bên này ngôi đình, còn chị bên kia ngôi đình mà. thôi. Cả hai chỉ cáchmột đầu đình.Do vậy, không gian địa lí, vật lí có xa xôi mấy đâu. Sự phi lí là tình lại xa xôi, vì vậy mà tương tư. Đã tương tư thì phải thao thức không biết “mấy đêm rồi” nghĩa là không hề đếm thời gian, không quan tâm tới thời gian đằng đẵng.
Chàng trai hỏi người yêu, mong người yêu biết cho nỗi tương tư của mình. Hiển nhiên câu hỏi chỉ góp vào một lời thở than hờn mát.
Tình cảm thứ 5 trong trạng thái tương tư chính là nôn nao mơ tưởng: Càng cảm thấy tuyệt vọng bao nhiêu người ta càng hy vọng vu vơ bấy nhiêu.
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
“Bến và đò”, “hoa và bướm” vốn là những ẩn dụ trong ca dao, là những cặp đôi rất đẹp; rất dễ liên tưởng tới những quan hệ lứa đôi. “Đò” về “bến”, “bướm” tìm “hoa” thơm, thôn Đông phải hợp thôn Đoài. Đó là quy luật nhưng bao giờ thời điểm này xảy ra? Quả là một mơ tưởng, một hy vọng, không ước hẹn.
Tâm trạng cuối cùng trong tương tư là ước vọng xa xôi. Bài thơ chuyển đổi đề tài trần thuật rất bất ngờ, tự dưng mô tả “Nhà em có y một giàn giầu”.
Lời mô tả thứ hai khiến ta liên tưởng thú vị:
"Nhà anh có một hàng cau liên phòng”
Đây là loại cau có quả quanh năm. Hễ có trầu là có cau.Ẩn dụ trầu cau là muốn nói tới quan hệ tình nghĩa khỏi đầu cuộc hôn nhân, ở đây trầu vẫn là trầu, cau vẫn là cau.
Vì thế thôn Đoài vẫn ngồi nhớ thôn Đông; “cau vẫn nhớ trầu”… có nghĩa là tình yêu cứ đơn phương, chàng trai vẫn tương tư… Tuy nhiên trầu và cau là kết hợp cặp đôi, Nói lên ước vọng xa xôi, cau rất cần trầu cũng như trầu không thể thiếu cau.
C. KẾT BÀI
“Tương tư” của Nguyễn Bính đã diễn tả một cách chân thật và có lí tình yêu đơn phương một chiều của một chàng trai quê thụ động bị nỗi mong ước dày vò. Tất cả những tâm sự, những thang bậc tình cảm ở đây đều diễn ra một cách tự nhiên và hợp lí. Bắt đầu là nỗi nhớ nhung.
Nỗi nhớ không được đáp ứng nên tỏ ra băn khoăn hờn dỗi. Sự hờn dỗi không nhận được tấm lòng cảm thông cho nên chàng trai một mình than thở, hờn trách, kết tội người mình yêu. Khi biết rằng đây là tình cảm đơn phương, chàng trai nhóm lên hy vọng bằng mơ tưởng và ước vọng xa xôi. Tất cả những tình cảm tinh tế ấy được viết bằng thể thơ lục bát truyền thông thông qua những hình tượng của ca dao, dân ca…
Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 2
Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi được Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính vào Nam Bộ. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ rồi kháng chiến chống Pháp, ông ở lại tham gia kháng chiến Nam Bộ, phụ trách đoàn Văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Sau đó, ông chuyển sang công tác ở Ban văn nghệ khu Tám, sáng tác thơ, viết truyện kí và tùy bút. Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông chủ trương tờ báo Trâm hoa. Cuối đời, ông sống ở Nam Định.
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị, thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình… Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… ông đã góp một dòng thơ, phái thơ riêng – Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới.
Tương tư rút tong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng.
“Tương tư’ có nghĩa là nhớ nhau, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ nhung. Nỗi tương tư trong bài thơ này là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều. Bắt đầu là sự nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười thương một người
Rồi đến băn khoăn hờn dỗi:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy không sang bên này?
Đến than thở:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Đến hờn trách mát mẻ:
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Rồi nôn nao mơ tưởng:
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau
Đến những ước vọng xa xôi:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có mốt hàng cau liên phòng
Tất cả diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực.
Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái:
Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là người con trai, đằng này lại trong vai thụ động ngồi chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tâm tư của một người trai quê như thế. Thứ hai, lối trách móc này không phải vì ghét, không giống như sự qui kết trách nhiệm, đỗ lỗi thông thường. Mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ mong giày vò người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược, trách xuôi” thôi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu. Người đời cũng gọi thế là “trách yêu”.
Người xưa nói:
“Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”
(Một ngày không gặp mặt dài như ba mùa thu)
Để chỉ nỗi nhớ mong của những người đang yêu
Trong bài thơ này, tâm trạng đang chờ đợi, nhớ mong cũng được diễn đạt bằng những hình ảnh thật sắc sảo:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm dã thành cây lá vàng
Câu lục ngắt nhịp 3/3 phá đi cái nhịp thông thường của thơ lục bát (2/2/2). Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ” lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ còn là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán và vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp lại vế câu và nói nhấn giọng ở chữ “lại” khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả điều đó làm hiện lên hình ảnh của một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.
Câu hát diễn tả thời gian và tâm trạng một cách thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp sốt ruột, nhưng mới qua lời kể lể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn, thời gian hiện lên qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu đợi chờ, cây hãy còn xanh, đến nay lá xanh đã ngả sang vàng cả rồi, thế mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề, tâm trạng càng mỏi mòn nôn nóng, thời gian càng chậm chạp lê thê. Nhưng điều tinh tế nhất là ở chữ “nhuộm". Thứ nhất, “nhuộm” diễn tả được thời gian chậm chạp. Thứ hai,” nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Chủ thể này hàm ẩn. Không gian thời gian, cũng không hẳn là sự chuyển biến nội tại của cây lá. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây héo úa. Kẻ tương tư và cái cây ấy có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhận của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của nỗi tương tư đó. Có thể xem cái kia cũng là cây tương tư được chứ sao!. Lối diễn đạt như thế thật tinh tế, ý nhị.
Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê.
Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời: thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…
Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí, là ngôn ngữ nũa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thế hòa quyện vào nhau được. Trong bài thơ này, trước hết thể hiện ở cách tạo ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông, đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra và khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn, chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cho thủ pháp nhân hóa: “Thôn Đông ngồi nhớ…”. Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả môt quy luật tâm lí. Khi tương tư, thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm mọi tương tư ấy, vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.
Thứ hai, nó được thể hiện nghệ thuật sử dụng các chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian, địa danh “thôn Đoài”, “thôn Đông” dùng thành ngữ “chín nhớ mười mong”, dùng số từ “một”, “chín”, “mười”,… cách tổ chức lời thơ độc đáo: nhà thơ đã sử dụng bút pháp tài tình để tạo ra khoảng cách, “thôn Đoài… thôn Đông”, “một người… một người”. Nhất là ở câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Lối sử dụng ngôn từ này đã gợi được phong vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư của nhân vật trữ tình.
Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thôn Đông, môt người – một người, gió mưa – tương tư, tôi – nàng, bên ấy – bên này, hai thôn – một làng, bến – đò. hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, giàn giầu – hàng cau, cau thôn Đoài – giầu thôn Đông.
Các cặp đôi trên xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi giầu – cau. Điều ấy cho thấy rõ, bên dưới nỗi tương tư là niềm khát khao gần kề, khao khát chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một đặc điểm quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính(cũng giống với ca dao). Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê đã thấm sầu và hồn thơ Nguyễn Bính.
So sánh bài “Tương tư” của Nguyễn Bính với những Ca giao yêu thương, tình nghĩa (trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 Nâng cao, tập một)
Những nét truyền thống về nghệ thuật: Đề tài tương tư, những hình ảnh thơ truyền thống (lá trầu xanh, trầu vàng, cau liên phòng, cách trở đò giang…) thể thơ lục bát…
Những cách tân nghệ thuật: Vận dụng sáng tạo thành ngữ “cách trở đò giang” – Yêu nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội mây đèo cũng qua”, “chín nhớ mười mong” …
Phân tích Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 3
Nguyễn Bính (1918 -1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vịnh xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm mồ côi mẹ, năm 10 tuổi phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khi mới 13 tuổi và sớm thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia công tác báo chí văn nghệ.
Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dẫn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế. Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp.
Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941) Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ -1944); sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958). Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo -1961), Người lái đò sông Vị (chèo – 1962)…
Bài thơ Tương tư được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.
Tâm trạng của người con trai trong bài thơ
Bản chất tâm lí của tâm trạng tương tư không chỉ có nhớ nhung đơn thuần mà là một phức hợp cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không xuôi chiều
Tâm trạng tương tư trong bài thơ diễn biến qua nhiều sắc thái cảm xúc chính như sau;
Nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh, của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Băn khoăn, dỗi hờn:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Than thở:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Hờn trách:
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Nôn nao, mơ tưởng:
Bao giờ biến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau
Ước vọng xa xôi:
Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ gỉầu không thôn nào?
Sự phức tạp mang tính quy luật trong tâm lí khi yêu
Sự bày tỏ tình cảm của người con trai trong bài thơ có điều gì bất hợp lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động, ngồi chờ tình yêu. Đã thể hiện sự thụ động lại còn hờn dỗi, trách móc. Đó là cái bất hợp lí bên ngoài.
Tuy nhiên, trong cái bất hợp lí đó lại thể hiện, cái lí của nó. Đó là cái lí về chiều sâu.
Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả đã tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm, chứ không câu nệ vào lẽ khách quan. Thi sĩ phải đặt chàng trai vào thế thụ động mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người con trai quê mùa, chất phác.
Thứ hai, lối trách này không phải vì ghét, không giống sự qui kết trách nhịệm, đổ lỗi thông thường, mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hững hờ, nên sinh ra trách hờn, không có hàm ý ghét bỏ. Nói cách khác, trách chỉ là một cách để bộc bạch tình yêu.
Cách biểu hiện thời gian của tác giả
Tâm trạng chờ đợi sốt ruột và mòn mỏi không tách rời với việc diễn ra thời gian. Nổi bật lên là việc dùng cách ngắt nhịp, phép lặp, giọng kể lể và việc tả ngụ tình, dùng sự biến đổi của không gian để biểu hiện thời gian.
Câu lục: Ngày qua ngày lại qua ngày
Nhịp 2/2/2 thông thường của câu lục trong lục bát truyền thông đã được ngắt thành 3/3: Ngày qua ngày lại qua ngày. Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt này khiến chữ lại ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới lập lại ngày cũ một cách chán ngán vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp vế câu và nốt nhấn giọng ở chữ lại khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở kể lể ngán ngẩm. Tất cả những điều đó đã làm hiện lên hình ảnh một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.
Câu bát: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Câu thơ diễn tả thời gian và tâm trạng thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp nhưng mới thể hiện qua lời kể. Đến câu sau, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu. đúng hơn, thời gian thể hiện qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu chờ đợi, lá hãy còn xanh, đến nay lá đã chuyển sang vàng rồi, thế mà vô vọng hoàn vô vọng. Thời gian và tâm trạng dường như không tìm một điểm chung với nhau; thời gian càng chậm tâm trạng càng nặng nề; tâm trạng càng nôn nóng, thời gian càng chậm chạp, lê thê. Tinh tế nhất trong cách diễn tả có lẽ là chữ nhuộm. Chữ nhuộm diễn tả thời gian chậm chạp. Có thể so sánh chữ nhuốm trong hai câu thơ sau của Nguyễn Du:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Nhuốm nói đến sự biến đổi sắc màu mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tất. Sắc màu sự vật biến đổi chủ yếu ở bề mặt, bề ngoài. Còn nhuộm thể hiện sự hoàn tất. Thời gian dài đến mức đủ để cho màu này chuyển hẳn sang màu khác. Ngoài ra chữ nhuộm còn để ngỏ chủ thể. Nhuộm nhưng ai nhuộm? không hẳn là thời gian, cũng không phải là sự chuyển màu của lá: đó chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuốm thành héo úa. Kẻ tương tư và cây lá có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của kẻ tương tư, hay chính là hiện thân của nỗi tương tư. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư được. Đó chính là cái tinh tế, ý nhị trong lối thể hiện của Nguyễn Bính.
Khung cảnh chốn quê trong bài thơ
Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cành cây và chốn quê.
Những chi tiết trong bài thơ về địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời như thôn làng Đoài, Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…
Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê để nhân vật trữ tình tạo ra mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện vào nhau được.
Cách diễn tả tâm trạng của Nguyễn Bính
Cách tạo hình độc đáo, hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cơ sở cho thủ pháp nhân hóa: Thôn Đoài ngồi nhớ… Nhưng sâu xa hơn, cách diễn đạt đó còn diễn tả một quy luật tâm lí. Khi tương tư thì cả không gian bao quanh chủ thể cũng như nhuốm nỗi tương tư ấy, vì thế trong bải thơ có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.
Nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: địa danh thôn Đoài, thôn Đông cùng thành ngữ chín nhớ mười mong; dùng số từ một, chín, mười. cách tổ chức lời thơ độc đáo: đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ, tạo ra khoảng cách (Thôn Đoài… thôn Đông, Một người…. một người). Lối sử dụng ngôn ngữ gợi được hương vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể, rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư.
Phân tích bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính – Bài làm 4
Nguyễn Bính nổi tiếng là một hồn thơ mang đậm chất ca dao, dân ca và bài thơ “Tương tư” viết năm 1939 in trong tập “ Lỡ bước sang ngang” (1940) của ông là một minh chứng cho đều đó. Nỗi nhớ trong bài thơ là nỗi nhớ của một mối tình quê, được diễn tả bằng những cách thức và những lời nói của dân quê, của dân gian.
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Hia thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua, ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau
Nhà em có một giàn giầu.
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Người con trai trong thơ Nguyễn Bính sống cùng làng nhưng khác thôn với cô gái mà anh ta yêu. Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ khá lạ: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Làm gì có chuyện cả một thôn này tương tư cả thôn kia? Anh chàng này chỉ đang nói quá nên thôi. Nhưng điều này là cần thiết, để khỏi đường đột, để khỏi khiến cô gái bất ngờ. trong cái tập thể thôn Đoài ấy, anh ta mới bắt đầu tách ra: “Một người chín nhớ mười mong một người”. Thì ra chỉ có mọt người nhớ và một người được nhớ mà thôi.
“Gió mưa là chuyện của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Chàng thanh niên như đang tự thanh min, rằng yêu nàng không phải là ý muốn chủ quan nào của tôi, không phải là tự tôi muốn có, bởi tôi tự đâu muốn tôi đau khổ đến thế mà mang căn bệnh đó vào người. Căn bệnh ấy vốn là tự nhiên mà có, tình yêu ấy vốn là tự nhiên mà đến, cũng như trời đâu có muốn gió mưa làm gì, chẳng qua đó là một quy luật mà đến trời cung phải chịu, không thể nào tránh được. Anh ta giãi bày tình yêu của mình mới thật khéo làm sao. Anh ta không là nguyên nhân của căn bệnh này, cho nên anh ta tự đi tìm nguyên cớ sao mình lại mắc căn bệnh tương tư.
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại ngày ngày
Lá xanh nhuộm đã thành hai lá vàng
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi”
Tuy không chỉ đích danh nhưng qua những câu thơ ta hiểu, anh ta đang cho rằng lỗi thuộc về phía người con gái. Vì sao cô ta mang lỗi? Bở cô ta chẳng bao giờ sang bên này. Vậy vì sao cô ấy lại không sang? Anh chàng tự đưa ra các lý do rồi cũng tự mình gạt bỏ. Cô ấy không sang vì “cách trở đò ngang ư”? Không phải, hai thôn cách nhau mỗi một đầu đình, gần trong gang tấc chứ đâu phải không có lối sang. Ca dao xưa có câu “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”. Có tình yếu thì dù có bao thử thách, khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau, huống chi “hai thôn chung lại một làng”. Chỉ có một lý do duy nhất lí giải sự vô tâm của cô gái đó là: tấm lòng. Tấm lòng hay nói cách khác là tình yêu của nàng không hướng về tấm lòng của chàng trai “tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” kia. Chắc hẳn, chàng trai cũng nhận ra điều đó nên mới ngậm ngùi chịu mang mối tình tương tư. Lời trách móc của chàng trai danh cho cô gái vừa nhẹ nhàng nhưng cũng vừa sâu cay, vừa tha thiết nhưng cũng vừa ai oán làm sao! Những từ ngữ “bảo rằng”, “đã đành”, “nhưng đây”, “có xa xôi mấy”, tự nhiên như lời lẽ của một anh trai quê nói với người khác lại như tự sự với chính mình, sao mà chất phác, tội nghiệp, chân tình đến thế. Nhưng trách người thì có được gì đâu, chẳng qua là buồn quá, đau khổ qua thì trách vậy mà thôi. Trách để mà trách, cuối cùng vẫn chỉ có mình mình với mình mà thôi, chẳng có ai quan tâm hay sẻ chia cùng cả.
“Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”
Anh chàng thương nhớ để mà hi vọng, tuy chỉ là hi vọng mong manh mà thôi. Cùng với hình ảnh “bến” và “đò” vốn đã quen thuộc trong ca dao, Nguyễn Bính đưa thêm cặp hình ảnh “hoa khuê các” và “bướm giang hồ” để mang lại ý nghĩa gợi cảm và ý nghĩa mới mẻ hơn cho câu thơ. Cô là “hoa khuê các”, là con nhà gia giáo, nề nếp, giàu sang, còn anh chỉ là “bướm giang hồ”, là kẻ phiêu bạt, lang thang nghèo khổ, hai người chênh lệch nhau quá lớn, anh thật khó để sánh với cô. Vậy mà anh vẫn nuôi hi vọng, mong chờ.
Đoạn kết bài thật xót xa nhưng cũng thật đẹp:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn