Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Văn mẫu lớp 8
Nội dung bài viết1 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 1 2 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 2 3 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 3 4 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 4 5 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số ...
Nội dung bài viết1 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 1 2 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 2 3 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 3 4 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 4 5 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 5 Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 1 Trên văn đàn Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu nổi lên như một hiện tượng đặc biệt, làm kinh ngạc và xôn xao dư luận. Là người của hai thể kỉ (theo cách nói của Hoài Thanh), ở tiên sinh vừa có lớp dấu ấn của nhà nho thế hệ cuối, vừa thoát thai một con người tự do dân chủ thời hiện đại. Cái tư chất phóng túng và gia đình của nhà nho tài tử là mảnh đất thích hợp cho “cái tôi” cá nhân lãng mạn tự do nảy nở. “Cái tôi” đó ở Tản Đà, vừa bị trói buộc bởi chính những tư tưởng phong kiến của nhà thơ, vừa cảm thấy bế tắc trước thực trạng xã hội, luôn vùng vẫy tự giải thoát. Và trong thơ văn, nó đã bùng lên thành cảm hứng mãnh liệt muốn thoát li thực tại. Muốn làm thằng Cuội là bài thơ nằm trong mạch cảm hứng thoát li đó của Tản Đà, cùng với những bài Trời nắng, Tống biệt, Hầu trời (thơ)… và những Giấc mộng lớn, Giấc mộng con (mà Xuân Diệu gọi là “du kí”)… Xuất hiện trong tập Khối tình con năm 1916, có thề nói Muốn làm thằng Cuội là bài mở đầu cho lối thơ phóng túng, đầy ý tưởng lãng mạn cua Tản Đà. Chúng ta thử hình dung lại không khí văn đàn những năm 20 đầu thế kỉ này, khi những áng văn xuôi quốc ngữ còn chập chững, chưa xa lắm đối với văn biền ngẫu, khi những giọng thơ nghiêng trang, mực thức kiểu thơ Đường còn phổ biến và trên báo chí đầy rẫy các truyện cổ diễn Nôm, thì một giọng thơ phóng túng như Tản Đà không thể không khiến cho người đọc ngỡ ngàng: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi! Trần thế em nay chán nửa rồi… Vẫn là lối thơ cũ: Thất ngôn bát cú Đường luật, thi liệu cổ: tràng, nhưng cách sử dụng câu chữ tài tình của thi nhân đã làm hồn thơ biến đổi, mới mẻ hẳn. Đối diện với mặt trăng – nguồn cảm hứng của muôn đời thi sĩ, có lẽ chỉ duy nhất Tản Đà là Muốn làm thằng Cuội! Cái ý tưởng vô cùng lãng mạn – bay lên cung trăng lại được diễn tả thành một ước muốn có phần ngộ nghĩnh: Muốn làm thằng Cuội. Cái khác đời, cái ngông của Tản Đà là ở đó. Phải chăng thi nhân quá ngán sự đời, muốn mượn danh thằng Cuội để tha hồ nói láo cho vui? Nhưng trong bài thơ, ý định bông lơn cứ hòa lẫn với tâm trạng chán chường thực tại, làm cho giọng thơ có một vẻ rất đặc biệt: buồn da diết mà cứ tưng tửng như không! Hóa thân vào chủ thể trữ tình của bài thơ, thi nhân giãi bày nguyện vọng của mình: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi! Trần thế em nay chán nửa rồi Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Tự cô chí kim, có lẽ Tản Đà mới có giọng suồng sã, thân mật “chị chị em em" với Hằng Nga như vậy. Nhà thơ cố tình hiểu chệch ý nghĩa giống cái trong từ Chị Hằng mà dân gian thường gọi thành ý nghĩa ngôi thứ trong cách xưng hô, biến nàng trăng xa vời thành bà chị thân thiết của mình và lấy đó làm đối tượng để… tâm sự. Những lời nói cửa miệng: buồn lắm chị ơi! Em chán nửa rồi. Ai ngồi đó chửa? Chị nhắc lên chơi… đưa vào thơ một cách nhuần nhuyễn khiến những câu thơ Đường luật mất hẳn vẻ trang trọng, trở thành lời bộc lộ tâm tình hồn nhiên, dân dã. Thi nhân đã làm sống dậy những truyền thuyết thơ mộng trong dân gian về Hằng Nga – cung Quảng, chú cuội – cây đa… nhưng lại muốn xóa nhòa khoảng cách cõi tiên và cõi tục: Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Chỉ một từ nhắc rất dân dã mà người thơ như trở thành bé bỏng, thành một chú Cuội không chỉ ngồi gốc cây đa mà còn muốn vắt vẻo cành đa để cận kề người đẹp cõi tiên. Đối với chàng thi sĩ đa tình, mộng và thực đã hòa làm một. Chàng có thể nỉ non với chị Hằng, than vãn về nỗi buồn trần thế, rủ rê người đẹp bầu bạn với mình để vui thú cùng mây gió. Có bầu có bạn can chi tủi, Cùng gió, cùng mây thế mới vui. Hóa ra câu tuyên ngôn rất “vị nghệ thuật” của Xuân Diệu thời thơ mới: Là thi sĩ nghĩa là ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây đã được Tán Đà thi sĩ thực hành từ 20 năm trước! Nhà thơ nói với chị Hằng, nói cùng ai đó, mà cũng dường như tự nói với mình: chán trần thế thì lên tiên, lên tiên làm bạn với tiên, vui như thế can chi tủi! Và như thế tăng sức thuyết phục, bài thơ chốt lại bằng một viễn cảnh vô cùng thú vị: Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám, Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Thi nhân đang sống trong một ảo, sống hết mình nên cảnh mộng mà người vẽ ra cứ hồn hậu như đời thực. Ở đây, ta cảm giác có sự đảo lộn tình thế. Hình như không phải nhà thơ là người được chị Hằng thương xót cho lên thượng giới nữa, mà chính Hằng Nga đã bị chàng thi sĩ rất ngông này kéo tuột từ trên cung Quảng xuống với những thú vui trần thế: có bầu có bạn, tựa nhau… cười. Và người đọc cũng không thể không mỉm cười khi hình dung cảnh tượng: Cứ mỗi đêm rằm tháng tám, chờ lúc tất cả bàn dân thiên hạ ngẩng đầu ngắm trăng mà ao ước, chàng thi sĩ Tản Đà lại má sát má, vai kề vai với nàng trăng nheo mắt cả cười nhìn xuống cõi nhân gian bé tí. Sau này, cảm hứng về chị Hằng, chú Cuội còn đẩy trí tưởng tượng của Tản Đà đi xa hơn nữa. Trong tập du kí Giấc mộng con, Tản Đà kể chuyện lên thượng giới gặp Đông Phương Sóc, được ông này cho biết về thân thế của mình như sau: Nguyên xưa ông ở trên này là một vị Khuê tinh, Thượng đế có lòng yêu lắm. Một khi ông dám làm thơ liệng sang cung Quảng Hàn, bị thằng Cuội bắt được đem trình Thượng đế. Ngài giận mới đày ông xuống hạ giới. Ông đã bị xuống hạ giới mà lại còn làm thơ, làm bài hát nói láo, như vẫn còn bờm xơm với Hằng Nga, làm cho Thượng đế càng giận, tăng thêm cái hạn đày ông hai mươi năm nữa… Nói về Giấc mộng con để thấy rằng Muốn làm thằng Cuội chỉ là một bài thơ nhỏ mở đầu cho hàng loạt tác phẩm theo mạch cảm hứng thoát li thực tại của Tản Đà. Trong hoàn cảnh phức tạp của xã hội lúc bấy giờ, ý tưởng thoát lên tiên, trốn vào thơ hay vào mộng chưa phải sự bế tắc của xã hội. Muốn làm thằng Cuội là một phản ứng đáng được ghi nhận của Tản Đà. Hơn nữa, bài thơ hé mở cho ta thấy tâm hồn đa cảm, lãng mạn và ngòi bút phóng túng của nhà thơ. Cái tài của thi nhân ở chỗ dùng ngay những câu dung dị như lời nói cửa của thi nhân ở chỗ dùng ngay vào những ý tưởng độc đáo, biến chúng thành những câu đầy chất thơ. Có thể nói, tư tưởng mãnh liệt tự nó đã phá vỡ cái vỏ khuôn mẫu, trói buộc để tìm lấy cách thể hiện thích hợp. Muốn làm thằng Cuội nảy sinh từ trong quy luật đó. Ngay ở trong bài thơ nhỏ này của Tản Đà, ta có thể thấy mầm mống của sự đổi mới dòng “thơ cũ”, báo hiệu cho thời kì Thơ mới về sau mà Tản Đà được coi là người mở đường không ai thay thế nổi. Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 2 Sau hơn mười năm đầu thế kỉ XX bước vào thời kì hiện đại hoá với những áng văn chương yêu nước nổi tiếng của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,… nền văn học nước ta bước vào giai đoạn chuyển biến cực kì sôi động. Từ những năm 20 trở đi, trên văn đàn xuất hiện các nhà văn mạnh dạn đổi mới cả nội dung lẫn hình thức văn chương. Họ kết hợp những vẻ đẹp của truyền thống với yêu cầu cách tân của thời đại, sáng tác ra những tác phẩm thơ văn đặc sắc mang hơi thở của một lớp người giàu khát vọng, yêu nước, yêu đời, nhưng bế tắc,… Một trong những người mở đầu cho dòng văn chương này là thi sĩ Tản Đà. Tản Đà đã sáng tác nhiều tác phẩm mà chỉ đọc tên, chúng ta cũng thấy rõ tính độc đáo, đầy mộng mơ, lãng mạn: Khối tình con I, II, III, Giấc mộng lớn, Giấc mộng con,… Trong tập thơ Khối tình con có bài thơ Muốn làm thằng Cuội được nhiều người coi là độc dáo nhất. Quả đúng như vậy. Qua nhan đề tác phẩm và ít phút đọc – hiểu ban đầu, chúng ta đã cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Đây là một ước muốn khác đời, kì quặc, hay dãy là một giấc mơ kì thú, ngông nghênh, lãng mạn? Muốn làm thằng Cuội tức là muốn bay lên cung trăng, muốn thoát li cuộc đời trần giới để sống với trăng sao, tiên cảnh ư? Tại sao nhà thơ lại có ước muốn ấy? Ước muốn ấy có ý nghĩa gì?… Biết bao câu hỏi thú vị hấp dẫn, lôi cuốn chúng ta. Cũng là thơ thất ngôn bát cú theo luật thơ Đường, cũng viết bằng chữ Nôm, nhưng so với nhiều bài thơ Nôm thời kì vãn học trung đại và hai bài thơ ra đời trước đó ít năm của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, nhưng hồn thơ, giọng điệu và ngôn từ của Muốn làm thằng Cuội có nhiều nét khác hẳn. Bài thơ mang giọng điệu nhẹ nhàng, thanh thoát pha chút tình tứ hóm hỉnh, có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn, thoát li. Hai câu thơ đầu (vào đề) là lời thở than buồn và chán của một thi sĩ, một con người trần thế: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi! Trần thế em nay chán nửa rồi, Nét độc đáo dễ thấy là hai đại từ nhân xưng "chị" và "em" nghe thật duyên dáng. Nhân hoá vầng trăng, rồi nữ hoá trăng, gọi bằng cái tên Hằng (theo cách nói của nhiều thi sĩ xưa – Hằng Nga – ả Hằng), kèm theo đại từ "chị", xưng mình là "em", nhà thơ tạo ra một quan hệ bất ngờ, thân mật mà dân dã, đúng quan hệ để tâm sự sẻ chia nỗi niềm. Nỗi niềm của nhà thơ bộc bạch trực tiếp bằng hai từ biểu cảm buồn và chán. Buồn trong đêm thu là tâm trạng quen thuộc của các vãn nhân nghệ sĩ xưa nay. Bởi vì, mùa thu về, dẫn theo hơi thu se lạnh, gió thu nhè nhẹ hiu hiu, cây cỏ mùa thu héo úa, đợi ngày tàn lụi,… Biết bao thi sĩ dân tộc từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du, từ Hồ Xuân Hương đến Bà Huyện Thanh Quan, rồi Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… đã từng thấm nỗi buồn của mùa thu để rồi làm đầm ướt những dòng thơ. Là một thi sĩ tài danh, nhạy cảm, trước mùa thu, hẳn Tản Đà đã thấm cái hồn thu đất trời, cỏ cây tàn tạ và lây những dòng buồn của văn chương, của các thi sĩ. Đấy là nỗi buồn lãng mạn, nhè nhẹ, bâng khuâng, như vô cớ mà có duyên. Còn tâm trạng "chán nửa rồi" thì không còn là lãng mạn vô cớ kiểu nghệ sĩ nữa. Đó là nỗi buồn chán đẫm chất thế sự của một tâm hồn từng âu lo cho nước cho dân trong cảnh lầm than nô lệ. Đêm thu… buồn, cộng Trần thế… chán, cảnh đất trời thiên nhiên cộng với cảnh đời tối tăm đau khổ đã xui giục nhà thơ cất tiếng thở than, để tìm người chia sẻ. Có lẽ chưa tìm dược ai xứng với mình, nên dành ngẩng mặt than với mây trời, với trăng sao. Trong vòm trời đêm mênh mông kia, có lẽ chí mặt trăng dáng làm tri kỉ. Bởi vì trăng sáng ngời, tròn trịa, phúc hậu, vô tư, vô ngôn mà đầy gợi cảm. Dưới đôi mắt, đúng ra là qua trái tim nhạy cảm đa tình của mình, thi sĩ Tản Đà đã thấy ở vầng trăng hình ảnh một mĩ nhân có thể kết bạn tâm giao. Nhà thơ gọi trăng là "chị" – "chị Hằng", tôn xưng người đối thoại là "chị", nhận mình là "em" thật khéo, khéo trong ứng xử (nếu "chị Hằng" là có thật) và khéo trong dẫn dát ý thơ. Hiện lên sau hai câu thơ cấu trúc kiểu lời gọi, tiếng than là một ước nguyện chân thành, tha thiết khiến người nghe, người được cậy nhờ không thể chối từ và người đọc thơ cũng không thể dừng lại. Đến bốn câu thực và luận, lời ước nguyện, cầu xin trở thành một giấc mơ độc đáo: Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Có bầu, có bạn can chi tủi, Cùng gió, cùng mây thế mới vui. Nếu xét về luật bố cục và đối xứng Đường thi thì bốn câu trên đã phạm luật, không đúng nội dung của hai câu thực (tả thực) và hai câu luận (suy luận, mở rộng), từng cặp câu cũng chưa thật đối nhau trong ngôn từ và ý nghĩa. Song đọc lên, ta vẫn thấy ngôn ngữ trôi chảy, ý tứ khoáng đạt, hồn thơ phát triển tự nhiên, gắn bó hài hoà với hai câu mở đề, Đó là những dòng cách tân Đường luật để ý tình được tung phá, "cái tôi" thi sĩ được bay bổng, tự nhiên. Bốn câu thơ cất lên những tiếng nói ước nguyện, những dự cảm thật độc đáo. Câu thứ nhất thăm dò "Cung quế đã ai ngồi đó chửa?". Câu thứ hai, không đợi trả lời, liền đé đạt, cầu xin mạnh dạn "Cành đa xin chị nhắc lên chơi". Những hình ảnh "cung quế", "cành đa", "ai ngồi đó" gợi biết bao chuyện huyền thoại vể "cung Quáng Hàn" (mặt trăng), về "cây đa, chú Cuội" mà nhiều người Việt Nam đều biết. Đó đâu phải một nơi chốn của con người mà là những địa chỉ siêu nhiên, những con người siêu nhân chí có trong tưởng tượng, trong những giấc mơ. Phải chăng, khi cất lên những tiếng thơ đó, thi sĩ Tản Đà đang ru hồn mình vào trong một giấc mơ! Ta có cảm giác ông đang bé lại, nhỏ nhắn, tí hon như nhân vật chú Cuội ngày xưa bám vào "cành đa" bay lên, bay lcn, lên đến tận cung trăng, rồi từ từ hạ xuống, ngồi dưới gốc đa, bên cạnh chú Cuội. Sau đó là một cảnh tượng, một bức tranh kì thú: Có bầu, có bạn can chi tủi, Cùng gió, cùng mây thế mới vui. Nhà thơ đã đến đích, được gặp chị Hằng, chú Cuội, được kết bạn với gió, mây. Hai cụm từ "can chi tủi" và "thế mới vui" thể hiện rõ tâm trạng thoả thuê, quên hết nỗi buồn khổ ở trần gian để tìm nguồn vui nơi tiên giới. Âm điệu của ngôn từ như ngân lên pha chút hóm hỉnh, cười dùa, ngông nghcnh mà rất tình tứ. Có thể nói, tâm hồn lãng mạn của thi nhân đã tìm được một địa chí lí tưởng dể thoát li. Lên tới mặt trăng, ẩn mình trong mây bay, gió cuốn tức là Tản Đà đã hoàn toàn xa lánh được cuộc đời "buồn chán", xa lánh "cõi trần nhem nhuốc". Nhưng ước nguyện của Tản Đà không chí hoàn toàn là trốn chạy, xa lánh. Đó chính là những giấc mơ, những khát vọng chân chính của một con người luôn gắn bó với cuộc dời, luôn mong muốn cuộc đời nói chung, đời mình nói riêng có niềm vui, có hạnh phúc, được gặp những bạn bè nhân hậu, chân tình. Nhà thơ từng than thở: Chung quanh những đá cùng cây, Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm. và đã từng ước mơ: Kiếp sau xin chớ làm người, Lùm đôi chim nhạn tung trời mà hay. Với ước nguyện Muốn làm thằng Cuội, cái khát vọng chính đáng kia bắt gặp một giấc mộng của hồn thơ đa tình, trở thành một cách nói có phần ngông nghênh, ngạo đời, lãng mạn. Chán đời, buồn thu, giờ đây được sánh vai bầu bạn với người đẹp Hằng Nga, được vui chơi thoả thích với mây gió, còn gì thú hơn và làm sao còn cô đơn, sầu tủi được! Cảm hứng lãng mạn của Tản Đà mang đậm dấu ấn thời đại và đi xa hơn người xưa là ở chỗ đó. Dấu ấn thời đại và tầm xa trong hồn thơ Tản Đà được đẩy thêm một bậc, bất ngờ là ở hai câu kết bài thơ: Rồi cứ mồi năm rằm tháng tám, Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Đêm trung thu, trăng sáng, người người ngẩng dầu chiêm ngưỡng trăng sao, báu trời, thì nhà thơ lại đang ngồi tít mãi trên cung trăng tựa vai người đẹp Hằng Nga nhìn xuống, ngắm nghía trần gian, rồi… cười. Vì sao nhà thơ cười? Có thể vì đã đạt được ước mơ, khát vọng thoát li, xa lánh cõi đời trần tục, nên thoả mãn, cười vui. Cũng có thể vì được đứng ớ vị trí tầm cao, đứng trên mọi thói đời nhỏ bé, thấp hèn, nên nhà thơ nhìn rõ những điểu xấu xa, bẩn thỉu, đáng cười, đáng khinh của cõi trần chật hẹp nhỏ nhoi. Cũng có thể đầy là cái cười tự trào, tự giễu mình… chơi ngông, hơn đời, khác đời. Một chữ cười mà mở ra hai ba nghĩa, thật thú vị. Phải chăng hai câu thơ kết, nhất là từ cuối cùng của bài thơ ("cười") là đỉnh cao của hồn thơ lãng mạn, phong thái phóng khoáng, ngông nghênh mà rất duyên dáng, đa tình của Tản Đà. Tóm lại, bài Muốn làm thằng Cuội là tâm sự của một con người bất hoà sâu sắc với xã hội tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng, vui cùng mây gió. Đó là một giấc mơ kì thú, ngông nghênh, lãng mạn. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở vẻ đẹp của giấc mơ ấy được thể hiện ở những từ ngữ, những hình ảnh đậm chất dân tộc, ở những tìm tòi đổi mới thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật của Tản Đà. Nhờ những đổi mới trong hồn thơ, tìm tòi trong nghệ thuật, thi sĩ Tản Đà đã góp phần mở ra một giai đoạn cách tân sôi động, hào hứng cho lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam, đúng như nhà nghiên cứu Hoài Thanh nhận xét : "Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát li ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo… Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kì đương sắp sửa…". Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 3 Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã thể hiện rất rõ cá tính ấy của ông. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này. Ngay từ nhan đề của bài thơ đã cho thấy một giọng điệu suồng sã, như là đã giải tỏa được một nhu cầu nói thật, thẳng thắn của nhà thơ và cũng lại cho thấy cái ngông nghênh, bất đắc chí: muốn ở đây như một nhu cầu bức xúc, chẳng cần giấu giếm, vòng vo. Nhưng muốn cái gì? Muốn làm cuội thì đích thực là muốn thoát lên trên rồi. ước vọng lên trên thơ mộng thế mà nói tựa như là muốn ăn, muốn uống, muốn ngủ… thật là thành thực! Và, nếu muốn thoát tục, lên trên thì thiếu gì những hình mẫu tiên để ước sao cứ phải là thằng Cuội? Thằng chứ không phải chú – cũng là một kiểu nói ngông. Thế thì chính là thi sĩ đa tình này muốn lên cung trăng rồi! Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi, Trần thế em nay chán nửa rồi! Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thàng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành. Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết. Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội . Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn đẽ được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên. Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: "Đời đáng trách biết thôi là đủ – Sự chán đời xin nhủ lại tri âm", "Gió gió mưa mưa đã chán phèo – Sự đời nghĩ đến lại buồn teo"… Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán. Không khí tù hãm, u uất của một dân tộc bị mất nước bao trùm hết thảy, đè nặng tâm trí con người, nhất lại là những con người nhạy cảm như thi nhân. Tâm trạng buồn chán là tâm trạng của thời đại. Có trăm ngàn vẻ buồn khác nhau song đều thấy điểm chung là sự bế tắc trước thực tại cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc. Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và thế là thi sĩ tìm lối thoát bằng cách thoát li khỏi cuộc đời, sống trong một thế giới khác, thế giới mộng mơ, thần tiên. Thi nhân gọi trăng là chị, xưng với trăng là em thì vừa là muốn thân tình, gần gũi để giãi bày, vừa là chơi ngông. Bốn câu thơ tiếp càng thể hiện cái ngông của Tản Đà: Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơi Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra buồn chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, đen tối như thế. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị. Nấu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ buồn mà chị cũng bớt cô đơn. Tính từ đây mà cũng ngang tàng đấy! Xin chị đừng từ chối nhé, bởi vì em có lí lẽ đây này: Có bầu có bạn, cùng tri kỷ Cùng gió cùng mây, thế mới vui. Cái lí của thi nhân thật là thuyết phục. Song trong sự thuyết phục để thoát li, xa lánh trần thế ấy chúng ta thấy một thực trạng buồn vắng, cô đơn của tâm hồn thi sĩ. Vốn đa tình đa cảm nên thi nhân luôn luôn có khát vọng được người tri kỉ, mà cõi trần thì "Chung quanh những đá cùng cây; Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm". Cái vui của thi nhân là cái vui được tâm giao, tâm đồng. Gió, mây thơ mộng được không nếu chẳng có bầu có bạn". Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Và cái cách ở đây là ngông. Chưa hết, thi nhân còn vẽ ra viễn cảnh: Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám Tựa nhau trông xuống thế gian cười Lãng mạn hết mức, tưởng tượng ra cảnh "tựa nhau" cùng chị Hằng thì quả là cái ngông đã đến đỉnh điểm. Tác giả hạ chữ cười ở cuối bài thật đắt. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia. Cười thách thức. Cười ngông. Bài thơ tuân thủ khuôn mẫu của một bài thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Nhưng nguồn cảm xúc tự nhiên, không chừng bay bổng đã tự tìm đến những lời thơ tựa như lời nói hàng ngày: "buồn lắm chị Hằng ơi", "em nay chán nửa rồi", "đã ai ngồi đây chưa", "xin chị nhắc lên chơi", "thế mới vui", "tựa nhau trông xuống thế gian cười"; xưng hô khẩu ngữ (chị – em) tự nhiên, không đẽo gọt cầu kì và ngữ điệu biểu hiện đa dạng (ơi, rồi, đó chửa, xin, thế mới). Lên tiên, thoát tục là thi đề quen thuộc trong thơ cổ, ở đây cái không mới ấy đã được làm mới bằng giọng điệu, bằng lời thơ. Cái ngông của Tản Đà trong bài thơ này là một hình thức ứng xử vốn nằm trong cốt cách của nhà nho tài tử trong thơ truyền thống. Song, như chúng ta đã thấy, cái ngông ấy lại là thái độ của Tản Đà đối với xã hội ta những năm đầu thế kỉ XX, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái mơ mộng thành ra cái ngông thì quả là đậm chất riêng của Tản Đà. Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 4 Bài thơ viết theo thể Đuờng luật thất ngôn bát cú. Niêm luật đầy đủ, đôi ý. Đối thanh chặt chẽ và cân đối. Nhưng ngay từ câu đầu, bằng lời lẽ tự nhiên, nhà thơ bộc lộ tâm sự trong lời than thở “buồn lắm”! Nhưng phải đọc cả hai câu đầu mới thấy cái buồn của nhà thơ là vì lẽ gì? Than thở với ai? Và ở thời điểm nào? Ta hãy đọc câu 1 và 2: Đêm thu buồn lắm Hằng ơi! Trần thế em nay chán nửa rồi. Thì ra vào một đêm thu, có trăng sáng, nhà thơ bị nỗi buồn nơi trần thế xâu xé, nên ngẩng lên phàn nàn với chị Hằng! Như thế đã “buồn” lại “chán” nữa, nhưng tìm hiểu một sô" ý trong hai câu thơ này sẽ thấy chẳng riêng của Tản Đà. Trước hết là lí do của cái buồn. Phải chăng trong cuộc đời này chí hướng của ông không thể thực hiện? Cái “trần thế” mà nhà thơ đang sống nó ngột ngạt, nặng trĩu xuống bởi các thanh bằng “chị Hằng ơi, trần thế em nay”. Nhưng dù buồn chán, nhà thơ vẫn dùng cách xưng hô ngọt xớt “chị Hằng ơi”, thành ra giọng điệu thơ vừa ngọt ngào vừa thân thiết, xoá đi cái khoảng cách vời vợi giữa trái đất và vầng trăng. Nhưng sao không nói “chán lắm rồi” mù chỉ mới “chán nửa rồi”, một cách nói hình tượng có vẻ ỡm ờ, nhưng không sàm sỡ! vầng trăng từ xưa đến nay vốn là nguồn mạch vô tận của thơ ca. Nhưng hôm nay thì “vầng trăng” không còn để ngắm, để xúc cảm, mà để cho thi sĩ làm bạn xin giúp đỡ cho ông thoát khỏi cái “trần thế” đã chán một “nửa rồi”. Tiếp đến câu 3 và 4 vẫn là nỗi niềm tâm sự, nhưng nói rõ nguyện vọng: Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Đây là lời ướm hỏi “có ai” trên ấy hay chưa, rồi mới xin bám vào cây đa để lên chơi! Câu 4 và 5: Ta thấy thi sĩ đi từng bước, lúc đầu chỉ xin lên chơi với ý nghĩa: Có bầu có bạn can chi tủi Cùng gió cùng mây thể mới vui. Có nghĩa là trong cảm tưởng, nhà thơ hình dung thấy “chị Hằng” cũng đang cần có nguồn vui, cần “có bầu có bạn”! Câu 7 và 8: Tiến thêm một bước nữa, nhà thơ muốn lên cung trăng và ở lại đó suốt đời chứ không phải chỉ lên chơi, vì hai câu kết đã nói rõ: Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám, Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Đây là tiếng cười, nhưng cười cái gì khi trông xuống “thế gian”? Cười cái bọn bon chen ở trần thế nơi ông đã sống những ngày đi về với những giấc mộng mà trong thực tế thì rất vất vả, gian truân. Hai câu thơ cuối không còn khoảng cách “chị” và “em” nữa, mà hầu như nhà thơ đã “bá vai” chị Hằng cười sảng khoái hả hê! Nhiều bài thơ của Tản Đà có cái ngông! Trong bài thơ này cái ngông cũng thể hiện ở nhiều câu. Trước hết là cái ngông muôn làm thằng Cuội. Hình tượng thằng Cuội trong dân gian được xem như một con người xấu (nói dối như Cuội) thế mà nhà thơ lại không có cái điều đáng chê trách đó, vì muốn lên cung trăng! Cái ngông thứ hai là lúc đầu ông xưng hô “chị, em” cười với chị Hằng, nhưng sau đó lại lả lơi muốn kết thành “bầu, bạn”. Thật là khó hiểu hai chữ “bầu bạn”! Cái ngông thứ ba là lúc đầu ông chỉ muốn lên chơi, sau dần chuyển thành ý định ở lâu dài nơi cung quảng để mỗi năm đến rằm tháng tám “tựa nhau” trông xuống thế gian mà cười! “Tựa nhau” quả là một tư thế nam nữ có vẻ quá thần mật (nêu không muôn nói là suồng sã). Cái ngông cuối cùng là tiếng cười ngạo mạn, coi như dưới con mắt mình toàn chuyện nực cười. Muốn làm thằng Cuội còn có ý nghĩa sâu xa khác là chán ghét cái xã hội hiện thời, mơ ước một cõi đời “Bồng Lai ngày tháng thanh nhàn”, nơi con người không còn vướng bận, lo lắng, bon chen nữa! Tuy vậy bài thơ không để lại một cảm giác nặng nề, bi quan mà gợi cho lòng ta một nỗi buồn man mác, trong sáng… Đó cũng là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Thơ văn Tản Đà là cái gạch nối giữa cổ điển và hiện đại, nổi bật trên thi đàn hợp pháp hồi đầu thế kỉ. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội rút ra từ tập thơ Giấc mộng con in năm 1926. Tuy mới chỉ là thể hiện của một khát vọng lãng mạn đầu tiên, nhưng đây là một hồn thơ phóng khoáng, khơi nguồn cho những sáng tạo của phong trào Thơ mới như ông Hoài Thanh đã nhận định. Cái hay của bài thơ là sức tưởng tượng dồi dào, táo bạo vừa phóng túng nhưng lại rất duyên dáng, tế nhị. Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 5 Bài thơ có sức hấp dẫn do lời thơ tự nhiên, giản dị, có nhiều hình ảnh bắt nguồn từ trong các tác phẩm dân gian hoặc các điển tích thông dụng, do tình thơ buồn chán mà chân thành. Hai câu đề đã diễn tả tâm trạng của nhà thơ trước cảnh đời: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi! Trần thế em nay chán nữa rồi. Đã “buồn”, đã “chán”, lại gặp cảnh “đêm thu”, tâm trạng ấy dường như nhân lên gấp bội. Nhà thơ buồn chán vì chí hướng của mình không thực hiện được hay vì cuộc đời nghèo khổ, túng quẫn. Câu thơ cứ buồn trĩu xuống bằng những thanh bằng liên tiếp. Nhà thơ không chỉ chán một cảnh đời đang sống mà chán cả trần thế. Có lẽ vì thế mới nảy sinh cái ý “muốn làm thằng Cuội” muốn bỏ quách trần gian để lên ở trên cung quế với chị Hằng. Tản Đà chán đời nhưng vẫn không quên đời, Lên với chị Hằng, ông vẫn tìm cách hướng về đời: Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Đây là cái cười gì? Cười tình, cười sảng khoái, hả hê hay cười mỉa mai, khinh thị? Có lẽ phải hiểu đây là cái cách biểu lộ thái độ khinh bạc với đời. Vì sao ông lại chọn ngày rằm tháng tám chứ không phải ngày khác để biểu thị sự khinh bạc đó? Chắc vì ông muốn nhân lên nhiều lần thái độ bất cần của mình với đời. Tóm lại, tâm sự của Tản Đà là tâm sự kẻ buồn chán cuộc sống muốn tìm một nơi ẩn náu. Ông muốn tìm đến với thiên nhiên (ở đây là cung quế và chị Hằng), ẩn mình trong thiên nhiên để giễu cợt lại đời bằng sự kiêu bạc của mình. Qua thơ Tản Đà ta còn thấy cái “ngông” thể hiện khá rõ: Trước tiên, ngay đề bài đã lóe lên một cái gì không bình thường. Ai cũng biết thằng Cuội trong văn học dân gian, trong ấn tượng của người Việt Nam gắn liền với cái thói nói dối (cho nên mới có câu: “Nói dối như Cuội”). Thế mà ở đây, Tản Đà lại “Muốn làm thằng Cuội”, cái ý muốn ấy thật khác thường, thật coi thường tất cả. Nó là một điều ngông. Nhà thơ gọi Hằng Nga là chị, xưng em ngọt xớt. Song trong bốn câu thơ sau, ông lại có phần lả lơi với chị Hằng: Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơi Có bầu, có bạn, can chi tủi Cùng gió, cùng mây, thế mới vui. Câu “Cành đa, xin chị nhấc lên chơi” vừa nói cách lên cung trăng lạ đời của ông, vừa có ý vị cười cợt của Xuân Hương. Chất đùa cợt lúc ẩn lúc hiện trong những câu thơ này khiến bài thơ lấy lại thế cân bằng, không lao sâu vào nỗi buồn chán giãi bày trong hai câu thơ mở đầu của bài. Trong cách xưng hô, trò chuyện của ông với chị Hằng, có ẩn chứa chút hơi ngông. Ởhai câu cuối, tư thế nhà thơ và chị Hằng cùng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” cũng là tư thế khác thường với quan niệm nam nữ thời ông đang sống. Nó cũng là cử chỉ ngông nghênh của ông dưới con mắt các nhà nho đương thời. Vì sao Tản Đà lại có cái ngông, lại thể hiện cái ngông đó trong thơ mình? Có lẽ đây là một cách phản ứng lại với cuộc sống. Nó gắn liền với cá tính phóng túng của nhà thơ. Nó tạo cho thơ ông có một giọng điệu khác thường. Bài thơ hấp dẫn người đọc trước tiên do lời thơ giản dị, tự nhiên. Có câu như một tiếng than, có câu lại như một lời hỏi. Câu nào cũng không thấy dấu vết đẽo gọt của bàn tay thơ nhưng câu nào cũng điêu luyện. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Văn mẫu lớp 8Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmchất thơ trong muốn làm thằng cuội Có thể bạn quan tâm?Phân tích bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) của Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về hoa sen – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về ca dao Việt nam – Văn mẫu lớp 8Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Văn mẫu lớp 8Giải thích câu nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng. …” – Văn mẫu lớp 8Phân tích đoạn trích Hai cây phong – Văn mẫu lớp 8Giải thích câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách” – Văn mẫu lớp 8Phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Văn mẫu lớp 8
Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 1
Trên văn đàn Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu nổi lên như một hiện tượng đặc biệt, làm kinh ngạc và xôn xao dư luận. Là người của hai thể kỉ (theo cách nói của Hoài Thanh), ở tiên sinh vừa có lớp dấu ấn của nhà nho thế hệ cuối, vừa thoát thai một con người tự do dân chủ thời hiện đại. Cái tư chất phóng túng và gia đình của nhà nho tài tử là mảnh đất thích hợp cho “cái tôi” cá nhân lãng mạn tự do nảy nở. “Cái tôi” đó ở Tản Đà, vừa bị trói buộc bởi chính những tư tưởng phong kiến của nhà thơ, vừa cảm thấy bế tắc trước thực trạng xã hội, luôn vùng vẫy tự giải thoát. Và trong thơ văn, nó đã bùng lên thành cảm hứng mãnh liệt muốn thoát li thực tại.
Muốn làm thằng Cuội là bài thơ nằm trong mạch cảm hứng thoát li đó của Tản Đà, cùng với những bài Trời nắng, Tống biệt, Hầu trời (thơ)… và những Giấc mộng lớn, Giấc mộng con (mà Xuân Diệu gọi là “du kí”)… Xuất hiện trong tập Khối tình con năm 1916, có thề nói Muốn làm thằng Cuội là bài mở đầu cho lối thơ phóng túng, đầy ý tưởng lãng mạn cua Tản Đà.
Chúng ta thử hình dung lại không khí văn đàn những năm 20 đầu thế kỉ này, khi những áng văn xuôi quốc ngữ còn chập chững, chưa xa lắm đối với văn biền ngẫu, khi những giọng thơ nghiêng trang, mực thức kiểu thơ Đường còn phổ biến và trên báo chí đầy rẫy các truyện cổ diễn Nôm, thì một giọng thơ phóng túng như Tản Đà không thể không khiến cho người đọc ngỡ ngàng:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi…
Vẫn là lối thơ cũ: Thất ngôn bát cú Đường luật, thi liệu cổ: tràng, nhưng cách sử dụng câu chữ tài tình của thi nhân đã làm hồn thơ biến đổi, mới mẻ hẳn. Đối diện với mặt trăng – nguồn cảm hứng của muôn đời thi sĩ, có lẽ chỉ duy nhất Tản Đà là Muốn làm thằng Cuội! Cái ý tưởng vô cùng lãng mạn – bay lên cung trăng lại được diễn tả thành một ước muốn có phần ngộ nghĩnh: Muốn làm thằng Cuội. Cái khác đời, cái ngông của Tản Đà là ở đó. Phải chăng thi nhân quá ngán sự đời, muốn mượn danh thằng Cuội để tha hồ nói láo cho vui? Nhưng trong bài thơ, ý định bông lơn cứ hòa lẫn với tâm trạng chán chường thực tại, làm cho giọng thơ có một vẻ rất đặc biệt: buồn da diết mà cứ tưng tửng như không!
Hóa thân vào chủ thể trữ tình của bài thơ, thi nhân giãi bày nguyện vọng của mình:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Tự cô chí kim, có lẽ Tản Đà mới có giọng suồng sã, thân mật “chị chị em em" với Hằng Nga như vậy. Nhà thơ cố tình hiểu chệch ý nghĩa giống cái trong từ Chị Hằng mà dân gian thường gọi thành ý nghĩa ngôi thứ trong cách xưng hô, biến nàng trăng xa vời thành bà chị thân thiết của mình và lấy đó làm đối tượng để… tâm sự. Những lời nói cửa miệng: buồn lắm chị ơi! Em chán nửa rồi. Ai ngồi đó chửa? Chị nhắc lên chơi… đưa vào thơ một cách nhuần nhuyễn khiến những câu thơ Đường luật mất hẳn vẻ trang trọng, trở thành lời bộc lộ tâm tình hồn nhiên, dân dã. Thi nhân đã làm sống dậy những truyền thuyết thơ mộng trong dân gian về Hằng Nga – cung Quảng, chú cuội – cây đa… nhưng lại muốn xóa nhòa khoảng cách cõi tiên và cõi tục:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Chỉ một từ nhắc rất dân dã mà người thơ như trở thành bé bỏng, thành một chú Cuội không chỉ ngồi gốc cây đa mà còn muốn vắt vẻo cành đa để cận kề người đẹp cõi tiên. Đối với chàng thi sĩ đa tình, mộng và thực đã hòa làm một. Chàng có thể nỉ non với chị Hằng, than vãn về nỗi buồn trần thế, rủ rê người đẹp bầu bạn với mình để vui thú cùng mây gió.
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.
Hóa ra câu tuyên ngôn rất “vị nghệ thuật” của Xuân Diệu thời thơ mới: Là thi sĩ nghĩa là ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây đã được Tán Đà thi sĩ thực hành từ 20 năm trước! Nhà thơ nói với chị Hằng, nói cùng ai đó, mà cũng dường như tự nói với mình: chán trần thế thì lên tiên, lên tiên làm bạn với tiên, vui như thế can chi tủi! Và như thế tăng sức thuyết phục, bài thơ chốt lại bằng một viễn cảnh vô cùng thú vị:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Thi nhân đang sống trong một ảo, sống hết mình nên cảnh mộng mà người vẽ ra cứ hồn hậu như đời thực. Ở đây, ta cảm giác có sự đảo lộn tình thế. Hình như không phải nhà thơ là người được chị Hằng thương xót cho lên thượng giới nữa, mà chính Hằng Nga đã bị chàng thi sĩ rất ngông này kéo tuột từ trên cung Quảng xuống với những thú vui trần thế: có bầu có bạn, tựa nhau… cười. Và người đọc cũng không thể không mỉm cười khi hình dung cảnh tượng: Cứ mỗi đêm rằm tháng tám, chờ lúc tất cả bàn dân thiên hạ ngẩng đầu ngắm trăng mà ao ước, chàng thi sĩ Tản Đà lại má sát má, vai kề vai với nàng trăng nheo mắt cả cười nhìn xuống cõi nhân gian bé tí.
Sau này, cảm hứng về chị Hằng, chú Cuội còn đẩy trí tưởng tượng của Tản Đà đi xa hơn nữa. Trong tập du kí Giấc mộng con, Tản Đà kể chuyện lên thượng giới gặp Đông Phương Sóc, được ông này cho biết về thân thế của mình như sau: Nguyên xưa ông ở trên này là một vị Khuê tinh, Thượng đế có lòng yêu lắm. Một khi ông dám làm thơ liệng sang cung Quảng Hàn, bị thằng Cuội bắt được đem trình Thượng đế. Ngài giận mới đày ông xuống hạ giới. Ông đã bị xuống hạ giới mà lại còn làm thơ, làm bài hát nói láo, như vẫn còn bờm xơm với Hằng Nga, làm cho Thượng đế càng giận, tăng thêm cái hạn đày ông hai mươi năm nữa…
Nói về Giấc mộng con để thấy rằng Muốn làm thằng Cuội chỉ là một bài thơ nhỏ mở đầu cho hàng loạt tác phẩm theo mạch cảm hứng thoát li thực tại của Tản Đà. Trong hoàn cảnh phức tạp của xã hội lúc bấy giờ, ý tưởng thoát lên tiên, trốn vào thơ hay vào mộng chưa phải sự bế tắc của xã hội. Muốn làm thằng Cuội là một phản ứng đáng được ghi nhận của Tản Đà. Hơn nữa, bài thơ hé mở cho ta thấy tâm hồn đa cảm, lãng mạn và ngòi bút phóng túng của nhà thơ. Cái tài của thi nhân ở chỗ dùng ngay những câu dung dị như lời nói cửa của thi nhân ở chỗ dùng ngay vào những ý tưởng độc đáo, biến chúng thành những câu đầy chất thơ.
Có thể nói, tư tưởng mãnh liệt tự nó đã phá vỡ cái vỏ khuôn mẫu, trói buộc để tìm lấy cách thể hiện thích hợp. Muốn làm thằng Cuội nảy sinh từ trong quy luật đó. Ngay ở trong bài thơ nhỏ này của Tản Đà, ta có thể thấy mầm mống của sự đổi mới dòng “thơ cũ”, báo hiệu cho thời kì Thơ mới về sau mà Tản Đà được coi là người mở đường không ai thay thế nổi.
Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 2
Sau hơn mười năm đầu thế kỉ XX bước vào thời kì hiện đại hoá với những áng văn chương yêu nước nổi tiếng của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,… nền văn học nước ta bước vào giai đoạn chuyển biến cực kì sôi động. Từ những năm 20 trở đi, trên văn đàn xuất hiện các nhà văn mạnh dạn đổi mới cả nội dung lẫn hình thức văn chương. Họ kết hợp những vẻ đẹp của truyền thống với yêu cầu cách tân của thời đại, sáng tác ra những tác phẩm thơ văn đặc sắc mang hơi thở của một lớp người giàu khát vọng, yêu nước, yêu đời, nhưng bế tắc,… Một trong những người mở đầu cho dòng văn chương này là thi sĩ Tản Đà. Tản Đà đã sáng tác nhiều tác phẩm mà chỉ đọc tên, chúng ta cũng thấy rõ tính độc đáo, đầy mộng mơ, lãng mạn: Khối tình con I, II, III, Giấc mộng lớn, Giấc mộng con,… Trong tập thơ Khối tình con có bài thơ Muốn làm thằng Cuội được nhiều người coi là độc dáo nhất. Quả đúng như vậy. Qua nhan đề tác phẩm và ít phút đọc – hiểu ban đầu, chúng ta đã cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Đây là một ước muốn khác đời, kì quặc, hay dãy là một giấc mơ kì thú, ngông nghênh, lãng mạn? Muốn làm thằng Cuội tức là muốn bay lên cung trăng, muốn thoát li cuộc đời trần giới để sống với trăng sao, tiên cảnh ư? Tại sao nhà thơ lại có ước muốn ấy? Ước muốn ấy có ý nghĩa gì?… Biết bao câu hỏi thú vị hấp dẫn, lôi cuốn chúng ta.
Cũng là thơ thất ngôn bát cú theo luật thơ Đường, cũng viết bằng chữ Nôm, nhưng so với nhiều bài thơ Nôm thời kì vãn học trung đại và hai bài thơ ra đời trước đó ít năm của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, nhưng hồn thơ, giọng điệu và ngôn từ của Muốn làm thằng Cuội có nhiều nét khác hẳn. Bài thơ mang giọng điệu nhẹ nhàng, thanh thoát pha chút tình tứ hóm hỉnh, có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn, thoát li. Hai câu thơ đầu (vào đề) là lời thở than buồn và chán của một thi sĩ, một con người trần thế:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Nét độc đáo dễ thấy là hai đại từ nhân xưng "chị" và "em" nghe thật duyên dáng. Nhân hoá vầng trăng, rồi nữ hoá trăng, gọi bằng cái tên Hằng (theo cách nói của nhiều thi sĩ xưa – Hằng Nga – ả Hằng), kèm theo đại từ "chị", xưng mình là "em", nhà thơ tạo ra một quan hệ bất ngờ, thân mật mà dân dã, đúng quan hệ để tâm sự sẻ chia nỗi niềm. Nỗi niềm của nhà thơ bộc bạch trực tiếp bằng hai từ biểu cảm buồn và chán. Buồn trong đêm thu là tâm trạng quen thuộc của các vãn nhân nghệ sĩ xưa nay. Bởi vì, mùa thu về, dẫn theo hơi thu se lạnh, gió thu nhè nhẹ hiu hiu, cây cỏ mùa thu héo úa, đợi ngày tàn lụi,… Biết bao thi sĩ dân tộc từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du, từ Hồ Xuân Hương đến Bà Huyện Thanh Quan, rồi Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… đã từng thấm nỗi buồn của mùa thu để rồi làm đầm ướt những dòng thơ. Là một thi sĩ tài danh, nhạy cảm, trước mùa thu, hẳn Tản Đà đã thấm cái hồn thu đất trời, cỏ cây tàn tạ và lây những dòng buồn của văn chương, của các thi sĩ. Đấy là nỗi buồn lãng mạn, nhè nhẹ, bâng khuâng, như vô cớ mà có duyên. Còn tâm trạng "chán nửa rồi" thì không còn là lãng mạn vô cớ kiểu nghệ sĩ nữa. Đó là nỗi buồn chán đẫm chất thế sự của một tâm hồn từng âu lo cho nước cho dân trong cảnh lầm than nô lệ. Đêm thu… buồn, cộng Trần thế… chán, cảnh đất trời thiên nhiên cộng với cảnh đời tối tăm đau khổ đã xui giục nhà thơ cất tiếng thở than, để tìm người chia sẻ. Có lẽ chưa tìm dược ai xứng với mình, nên dành ngẩng mặt than với mây trời, với trăng sao. Trong vòm trời đêm mênh mông kia, có lẽ chí mặt trăng dáng làm tri kỉ. Bởi vì trăng sáng ngời, tròn trịa, phúc hậu, vô tư, vô ngôn mà đầy gợi cảm. Dưới đôi mắt, đúng ra là qua trái tim nhạy cảm đa tình của mình, thi sĩ Tản Đà đã thấy ở vầng trăng hình ảnh một mĩ nhân có thể kết bạn tâm giao. Nhà thơ gọi trăng là "chị" – "chị Hằng", tôn xưng người đối thoại là "chị", nhận mình là "em" thật khéo, khéo trong ứng xử (nếu "chị Hằng" là có thật) và khéo trong dẫn dát ý thơ. Hiện lên sau hai câu thơ cấu trúc kiểu lời gọi, tiếng than là một ước nguyện chân thành, tha thiết khiến người nghe, người được cậy nhờ không thể chối từ và người đọc thơ cũng không thể dừng lại.
Đến bốn câu thực và luận, lời ước nguyện, cầu xin trở thành một giấc mơ độc đáo:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.
Nếu xét về luật bố cục và đối xứng Đường thi thì bốn câu trên đã phạm luật, không đúng nội dung của hai câu thực (tả thực) và hai câu luận (suy luận, mở rộng), từng cặp câu cũng chưa thật đối nhau trong ngôn từ và ý nghĩa. Song đọc lên, ta vẫn thấy ngôn ngữ trôi chảy, ý tứ khoáng đạt, hồn thơ phát triển tự nhiên, gắn bó hài hoà với hai câu mở đề, Đó là những dòng cách tân Đường luật để ý tình được tung phá, "cái tôi" thi sĩ được bay bổng, tự nhiên. Bốn câu thơ cất lên những tiếng nói ước nguyện, những dự cảm thật độc đáo. Câu thứ nhất thăm dò "Cung quế đã ai ngồi đó chửa?". Câu thứ hai, không đợi trả lời, liền đé đạt, cầu xin mạnh dạn "Cành đa xin chị nhắc lên chơi". Những hình ảnh "cung quế", "cành đa", "ai ngồi đó" gợi biết bao chuyện huyền thoại vể "cung Quáng Hàn" (mặt trăng), về "cây đa, chú Cuội" mà nhiều người Việt Nam đều biết. Đó đâu phải một nơi chốn của con người mà là những địa chỉ siêu nhiên, những con người siêu nhân chí có trong tưởng tượng, trong những giấc mơ. Phải chăng, khi cất lên những tiếng thơ đó, thi sĩ Tản Đà đang ru hồn mình vào trong một giấc mơ! Ta có cảm giác ông đang bé lại, nhỏ nhắn, tí hon như nhân vật chú Cuội ngày xưa bám vào "cành đa" bay lên, bay lcn, lên đến tận cung trăng, rồi từ từ hạ xuống, ngồi dưới gốc đa, bên cạnh chú Cuội. Sau đó là một cảnh tượng, một bức tranh kì thú:
Có bầu, có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.
Nhà thơ đã đến đích, được gặp chị Hằng, chú Cuội, được kết bạn với gió, mây. Hai cụm từ "can chi tủi" và "thế mới vui" thể hiện rõ tâm trạng thoả thuê, quên hết nỗi buồn khổ ở trần gian để tìm nguồn vui nơi tiên giới. Âm điệu của ngôn từ như ngân lên pha chút hóm hỉnh, cười dùa, ngông nghcnh mà rất tình tứ. Có thể nói, tâm hồn lãng mạn của thi nhân đã tìm được một địa chí lí tưởng dể thoát li. Lên tới mặt trăng, ẩn mình trong mây bay, gió cuốn tức là Tản Đà đã hoàn toàn xa lánh được cuộc đời "buồn chán", xa lánh "cõi trần nhem nhuốc". Nhưng ước nguyện của Tản Đà không chí hoàn toàn là trốn chạy, xa lánh. Đó chính là những giấc mơ, những khát vọng chân chính của một con người luôn gắn bó với cuộc dời, luôn mong muốn cuộc đời nói chung, đời mình nói riêng có niềm vui, có hạnh phúc, được gặp những bạn bè nhân hậu, chân tình. Nhà thơ từng than thở:
Chung quanh những đá cùng cây,
Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm.
và đã từng ước mơ:
Kiếp sau xin chớ làm người,
Lùm đôi chim nhạn tung trời mà hay.
Với ước nguyện Muốn làm thằng Cuội, cái khát vọng chính đáng kia bắt gặp một giấc mộng của hồn thơ đa tình, trở thành một cách nói có phần ngông nghênh, ngạo đời, lãng mạn. Chán đời, buồn thu, giờ đây được sánh vai bầu bạn với người đẹp Hằng Nga, được vui chơi thoả thích với mây gió, còn gì thú hơn và làm sao còn cô đơn, sầu tủi được! Cảm hứng lãng mạn của Tản Đà mang đậm dấu ấn thời đại và đi xa hơn người xưa là ở chỗ đó. Dấu ấn thời đại và tầm xa trong hồn thơ Tản Đà được đẩy thêm một bậc, bất ngờ là ở hai câu kết bài thơ:
Rồi cứ mồi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Đêm trung thu, trăng sáng, người người ngẩng dầu chiêm ngưỡng trăng sao, báu trời, thì nhà thơ lại đang ngồi tít mãi trên cung trăng tựa vai người đẹp Hằng Nga nhìn xuống, ngắm nghía trần gian, rồi… cười. Vì sao nhà thơ cười? Có thể vì đã đạt được ước mơ, khát vọng thoát li, xa lánh cõi đời trần tục, nên thoả mãn, cười vui. Cũng có thể vì được đứng ớ vị trí tầm cao, đứng trên mọi thói đời nhỏ bé, thấp hèn, nên nhà thơ nhìn rõ những điểu xấu xa, bẩn thỉu, đáng cười, đáng khinh của cõi trần chật hẹp nhỏ nhoi. Cũng có thể đầy là cái cười tự trào, tự giễu mình… chơi ngông, hơn đời, khác đời. Một chữ cười mà mở ra hai ba nghĩa, thật thú vị. Phải chăng hai câu thơ kết, nhất là từ cuối cùng của bài thơ ("cười") là đỉnh cao của hồn thơ lãng mạn, phong thái phóng khoáng, ngông nghênh mà rất duyên dáng, đa tình của Tản Đà.
Tóm lại, bài Muốn làm thằng Cuội là tâm sự của một con người bất hoà sâu sắc với xã hội tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng, vui cùng mây gió. Đó là một giấc mơ kì thú, ngông nghênh, lãng mạn. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở vẻ đẹp của giấc mơ ấy được thể hiện ở những từ ngữ, những hình ảnh đậm chất dân tộc, ở những tìm tòi đổi mới thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật của Tản Đà. Nhờ những đổi mới trong hồn thơ, tìm tòi trong nghệ thuật, thi sĩ Tản Đà đã góp phần mở ra một giai đoạn cách tân sôi động, hào hứng cho lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam, đúng như nhà nghiên cứu Hoài Thanh nhận xét : "Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát li ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo… Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kì đương sắp sửa…".
Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội – Bài số 3
Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã thể hiện rất rõ cá tính ấy của ông.
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.
Ngay từ nhan đề của bài thơ đã cho thấy một giọng điệu suồng sã, như là đã giải tỏa được một nhu cầu nói thật, thẳng thắn của nhà thơ và cũng lại cho thấy cái ngông nghênh, bất đắc chí: muốn ở đây như một nhu cầu bức xúc, chẳng cần giấu giếm, vòng vo. Nhưng muốn cái gì? Muốn làm cuội thì đích thực là muốn thoát lên trên rồi. ước vọng lên trên thơ mộng thế mà nói tựa như là muốn ăn, muốn uống, muốn ngủ… thật là thành thực!
Và, nếu muốn thoát tục, lên trên thì thiếu gì những hình mẫu tiên để ước sao cứ phải là thằng Cuội? Thằng chứ không phải chú – cũng là một kiểu nói ngông.
Thế thì chính là thi sĩ đa tình này muốn lên cung trăng rồi!
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi!
Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thàng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành. Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết. Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội . Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn đẽ được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên. Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: "Đời đáng trách biết thôi là đủ – Sự chán đời xin nhủ lại tri âm", "Gió gió mưa mưa đã chán phèo – Sự đời nghĩ đến lại buồn teo"… Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán. Không khí tù hãm, u uất củ