Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Văn mẫu lớp 8
Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 4 Phân tích đoạn ...
Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 4 Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 1 Đoạn kịch “Ông Giuốc – đanh mặc lễ phục” là một trong số năm hồi của vở kịch “Trưởng giả học làm sang” của tác giả Mô- li- e, một nhà soạn kịch nổi tiếng người Pháp. Mô – li – e nổi tiếng với rất nhiều vở hài kịch như: Lão hà tiện, người bệnh tưởng…Trong đó, “trưởng giả học làm sang” là tác phẩm tiêu biểu của ông, được nhiều độc giả trên thế giới yêu thích, đón nhận. Đoạn trích “Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục” xoay quanh câu chuyện của ông Giuốc – đanh với bộ lễ phục, cùng với sự ảo tưởng đến hài hước, đó là mặc lên những bộ quần áo cao quý thì có thể trở thành những người quyền quý, sang trọng. Ông Giuốc- đanh là một người đàn ông chạc bốn mươi tuổi, gia đình thuộc hàng khá giả. Tuy nhiên, ông ta lại là sự dốt nát lại ôm giấc mộng muốn làm sang, muốn trở thành những quý tộc sang trọng, có thể bước chân vào thế giới thượng lưu. Để thực hiện giấc mộng hoang đường của mình, cách thức ông ta thực hiện cũng thật hài hước, ông ta thuê về những người thầy dạy kiếm đạo, âm nhạc, triết lí…và để cho giống nhất thì ông tat hay đổi cả cách ăn mặc thường ngày của mình. Trích đoạn “Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục” kể lại câu chuyện giữa ông Giuôc – đanh và người thợ may, những tình huống được Mô- li- e xây dựng trong đoạn trích khiến cho người đọc “Dở khóc, dở cười”. Mở đầu đoạn trích, là hình ảnh của ông Giuốc- đanh đang rất nôn nóng mong chờ sự xuất hiện của ông thợ may: “A! Bác đã tới đấy à? Tôi sắp phát khùng lên vì bác đây”. Sự nôn nóng của ông Giuốc- đanh khiến cho người đọc liên tưởng đến một sự việc trọng đại lắm, vì vậy mới có thể khiến cho một người đàn ông đã trưởng thành mong ngóng đến vậy, nhưng khi biết được mục đích của ông Giuốc- đanh thì người đọc lại không khỏi bật cười. Ông ta đứng ngồi không yên chỉ vì một chiếc bít tất không vừa chân: “Đôi bít tất lụa bác gửi đến cho tôi chật quá, tôi khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được và đứt mất hai mắt rồi”. Trước sự lí sự cùn của tên thợ may rằng tất chật nó dãn ra là vừa thì ông Giuốc- đanh cũng đối đáp lại ngay: “Phải, nếu như tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật”. Ta có thể thấy, lúc bắt đầu trích đoạn, ông Giuốc – đanh có hơi ngây ngốc nhưng hoàn toàn tỉnh táo, ông nhận thức được đôi bít tất không vừa chân mình, khi xỏ vào làm đứt hai mắt, hay đôi giày cũng không vừa, nó làm cho chân ông “đau ghê gớm”. Sự lí lẽ, chối bay chối biến của tên thợ may ông cũng nhìn ra và còn vạch trần sự gian dối ấy: “Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ?”. Vì sao cần nói đến sự tỉnh táo lúc này? Bởi càng đi sâu vào các tình tiết của trích đoạn này, ta sẽ càng nhận thấy ông Giuốc- đanh càng bị mất đi sự tỉnh táo, khả năng phán xét cũng hoàn toàn dựa trên lời nói, lời khẳng định của tên thợ may. Cụ thể là ở ngay cuộc đối thoại sau, khi bàn về bộ trang phục mà ông Giuốc – đanh đặc biệt đặt may, thì dù vẫn còn chút tỉnh táo còn sót lại, nhưng trước những lời lẽ ngon ngọt của tên thợ may thì ông lại xuôi theo một cách mù quáng. Đang trong tâm trạng hừng hực vì những món đồ không vừa ý mình, khi nhắc đến bộ trang phục, nhất là lúc nghe tên thợ may giới thiệu một cách đầy khoe khoang thì sự khí thế ban đầu đã giảm đi phân nửa: “Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ trang phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác. Tôi thách các thợ giỏi nhất mà làm nổi đấy”. Ta cũng phải thấy ở đây sự khôn khéo, lươn lẹo của tên thợ may. Khi nghe ông Giuốc- đanh vạch mặt sự bất tài nhưng lại gian dối của mình thì hắn ta đã rất khéo léo đưa câu chuyện sang một đề tài khác. Biết rằng ông Giuốc- đanh đặc biệt kì vọng vào bộ trang phục này nên hắn ta nhấn mạnh những từ nhấn mạnh “Tôi thách các thợ giỏi nhất mà làm nổi đấy”. Với cái lí lẽ như vậy ông Giuốc- đanh ảo tưởng rằng đó sẽ là bộ trang phục đẹp nhất, độc đáo nhất mà không có một vị quý tộc sang trọng nào có được. Những tình huống hài hước từ đây bắt đầu được bộc lộ, sự hào hứng, chủ động ban đầu của ông Giuốc- đanh đã trở thành bị động, mọi việc đều diễn ra theo sự dẫn dắt của tên thợ may. Khi ông Giuốc- đanh thắc mắc rằng sao những bông hoa lại may ngược, tên thợ may đã đưa ra lí lẽ “Mọi người quý phái đều mặc như thế cả”. Có lẽ từ quý phái đã tác động quá lớn đến ông Giuốc- đanh bởi kể từ đây, ông không còn nhận thức được đúng sai, những lời nói thật hay giả dối nữa, ông một mực tin tưởng vào những lời nói dối trắng trợn của tên thợ may. Khi được lời khẳng định chắc chắn của tên thợ may rằng mọi quý tộc đều mặc như thế này, thì ông Giuốc- đanh đã khẳng định ăn theo ngay: “Thế thì bộ áo này may được đấy”. Cái hài hước ở đây là ai cũng biết hoa ngược là may sai nhưng không biết là do tên thợ may quá lươn lẹo hay do ông Giuốc- đanh quá ngây ngốc mà ông ta lại dễ bị lừa và tin vào những điều vô lí như vậy. Có lẽ ông ta đã bị giấc mộng quý tộc mà cho mờ mắt, mất hết khả năng phán đoán, nhận thức mọi việc. Ông ta ngây ngốc đến độ, khi tên thợ may giả vờ thử lòng ông khi muốn may lại cho ông thì ông ta lại vội vàng từ chối: “ Tôi bảo mà. Bác may thế này được rồi…”. Sự u mê, ngây ngốc vì giấc mộng quý tộc, sự sang trọng được đẩy đến đỉnh điểm khi nghe những lời nịnh nọt trắng trợn của tên thợ may. Khi được gọi là ông lớn thì vui sướng đến độ thưởng ngay tiền cho hắn: “ Ông lớn ư? Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bò bo kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là ông lớn”. Nắm bắt được tâm lí học đòi làm sang của ông Giuốc – đanh, tên thợ may được đà lấn tới, liên tiếp gọi ông ta là cụ lớn, đức ông. Sự nịnh bợ, tang bốc hết sức lố bịch, nhưng ông Giuốc – đanh không nhận thức được điều đó vì đang sống trong những ảo tưởng của mình. Như vậy, trích đoạn “Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục” đã cho người đọc được cười những tràng cười thích thú. Ông Giuốc – đanh hiện lên với hình ảnh của một người ngây ngô, mù quáng vì danh hiệu quý tộc, hành động học làm sang của ông ta thật hài hước, suy nghĩ của ông ta cũng thật giản đơn. Bên cạnh hình ảnh ngây ngốc của ông Giuốc – đanh là một con người khéo léo, có phần lươn lẹo của tên thợ may, hắn ta biết ông Giuốc- đanh cần gì, muốn gì để tang bốc, nịnh bợ. Sự kết hợp của hai kiểu người này đã tạo ra sức hấp dẫn cho vở hài kịch này. Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 2 Mô-li-e được coi là nhà viết kịch có nhiều tác phẩm đạt đến mức kinh điển của thế giới. Vở kịch "Trưởng giả học làm sang" là một tác phẩm nổi tiếng của ông, trong đó trích đoạn "Ông Giuôc-đanh mặc lễ phục" là một trích đoạn tiêu biểu. Lớp kịch này được chia làm hai cảnh, dấu hiệu nhận biết trên văn bản là đoạn chỉ dẫn sân khấu "Bốn tay thợ phụ bước vào…". Cả hai cảnh này đều diễn ra trong không gian phòng khách nhà ông Giuốc-đanh – nhân vật chính. Không khí kịch càng về sau càng sôi động, cho đến cuối cảnh sau thì không khí hài kịch thực sự náo nhiệt. Trên văn bản, ta thấy ở cảnh trước gồm những lời thoại của hai nhân vật: ông Giuốc-đanh và bác phó may; cảnh sau là những lời đối thoại của ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ. Cảnh trước, trên sân khấu xuất hiện bốn nhân vật (ông Giuốc-đanh và một gia nhân, bác phó may và tay thợ phụ mang bộ lễ phục). Cảnh sau, xuất hiện thêm bốn tay thợ phụ nữa. Cảnh trước, ông Giuốc-đanh và bác phó may đối thoại với nhau. Cảnh sau, ông Giuốc-đanh nói với một tay thợ phụ "mang lễ phục”, xuất hiện từ cảnh trước nhưng xung quanh ông là cả bốn tay thợ phụ đến sau đang xúm vào để giúp ông thử lễ phục mới nên như là nói với cả bọn. Thêm nữa, cảnh trước cử chỉ, động tác của các nhân vật ít hơn (chỉ là những cử chỉ, động tác kèm theo đối thoại của hai nhân vật), đến đoạn sau các thợ phụ nhộn nhịp cởi quần áo cũ, mặc lễ phục mới cho ông Giuôc-đanh… Thêm nữa, khi ông Giuốc-đanh mặc lễ phục còn có cả nhảy múa và âm nhạc! Ở cảnh đầu của lớp kịch, tính cách của Giuốc-đanh thể hiện trong đối thoại với bác phó may. Nào là chuyện đôi bít tất, chuyện bộ tóc giả, lông đính mũ song chủ yếu là chuyện xoay quanh bộ lễ phục mới, với những bông hoa ngược! Làm sao mà biết được là do bác phó may đốt, do sơ suất hay cố ý may thành những bông hoa ngược? Chỉ biết rằng chính ông Giuôc-đanh phát hiện ra sự cố này. Khổ một cái, cái bác phó may với tay nghề khó hiểu này lại bảo rằng người quý tộc người ta vẫn mặc vậy. Mà ông Giuốc-đanh thì đang học đòi làm sang. Thế là ông hoàn toàn bị khuất phục bởi sự láu cá của bác phó may. Kịch tính được đẩy lên khi bác phó may liên tiếp ra đòn: "Nếu ngài muốn thì tôi sẽ xin may hoa xuôi lại thôi mà", "xin ngài cứ việc bảo". Sợ cơ hội làm sang sẽ tuột mất, ông Giuốc-đanh cứ chối đây đẩy: "Không, không", "tôi đã bảo không mà". Rồi lại chính ông Giuô'c-đanh phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải của mình. Song bác phó may đã nắm chắc điểm yếu của đối phương, chỉ cần bác lảng sang chuyện thử bộ lễ phục mới là ông Giuốc- đanh chẳng còn để ý đến chuyện ăn bớt vải nữa. Chẳng thế mà bác phó may lại quá tự tin khi mặc đúng cái áo may bằng vải ăn bớt của ông Giuốc-đanh đến nhà ông Giuốc-đanh. Sang cảnh sau của lớp kịch, tính cách trưởng giả học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh tiếp tục được bộc lộ. Lần này đến lượt tay thợ phụ lợi dụng ông ta. Nếu anh này cứ gọi ông Giuốc-đanh như thông thường (ông hoặc ngài) thì đã không có chuyện gì xảy ra (và chắc cũng không được tiền uống rượu). Đằng này lại xưng tôn là "ông lớn", lại đúng vào lúc ông đang mặc lễ phục và say sưa với cảm giác trở thành quý phái. Thế là y được thưởng vì tiếng "ông lớn" sang trọng ấy. Tay thợ phụ ranh ma này nắm thóp được ông Giuốc-đanh thì liên tiếp tung ra những câu nịnh hót để moi tiền. Và y đã rất thành công. Những tiếng "cụ lớn", rồi "đức ông" đều đem lại cho y tiền thưởng. Không phải ông Giuốc-đanh không nghĩ gì đến túi tiền của mình (Nó như thế là phải chăng, nếu không ta không mất tong cả tiền cho nó thôi) mà là tại vì cái mộng quý phái còn lớn hơn cả sự tiếc tiền! Như vậy cũng đủ thấy tính cách học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh mạnh đến mức nào. Sự chênh lệch, mất cân xứng giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và bên ngoài là nguyên tác cơ bản để nhà văn tạo ra cái hài. Ở lớp kịch này cũng vậy, Mô-li-e đã xây dựng một nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng, bất hoà giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn và cái sang trọng học đòi ở nhân vật ông Giuốc-đanh, với hàng loạt các tình tiết gây cười: bộ lễ phục với những bông hoa ngược, tiền thưởng cho những tiếng tôn xưng quý phái hão, vẻ vênh vác rởm hợm của ông Giuốc-đanh khi mặc lễ phục cũng như khi được tôn xưng… qua đó nhà văn chế giễu thói học đòi làm sang vẫn thường thấy trong xã hội. Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 3 Đây là trích đoạn trong vở hài kịch nổi tiếng của Mô-li-e, Trưởng giả học làm sang (lớp 5, hồi II). Nói đến kịch phải nói đến xung đột kịch. Nhưng đi vào hài kịch thì cái mà người xem chú ý nhất lại là nghệ thuật gây cười. Trong những tình huống nhất định, nhân vật chính của hài kịch xuất hiện đem đến cho người xem những nụ cười sảng khoái. Đạt đến mức ấy, vở kịch đã thành công. 1. Cảnh thứ nhất: ông Giuốc-đanh và bác phó may. Đối thoại đầu tiên của hai nhân vật xung quanh chuyện bít tất với đôi giày. Ở đây, ông Giuốc-đanh là người có lí, bởi cả hai thứ ông ta đều đi chật. Còn vì sao ông ta phải "khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được" (đối với tất) hay nó "làm tôi đau chân ghê gớm" (đối với đôi giày) chẳng qua là ở thói láu cá ăn bớt tiền của bác phó may (số nhỏ thì thường ít tiền hơn số đo lớn hơn), cũng như ở đoạn sau: may một bộ lễ phục cho khách mà bác ta cố tình gạn đủ một cái áo cho mình. Biết tỏng những mẹo vặt ấy, ông Giuốc-đanh dồn bác ta vào thế chân tường. Ăn vụng bị bắt quả tang, bác phó may là người đuối lí. Người xem hoàn toàn đồng cảm với ông Giuốc-đanh vì lúc này trí óc ông còn tỉnh táo. Vì tỉnh táo nên lí luận sắc sảo. Chẳng hạn khi bác phó may chống chế về đôi tất không xỏ vừa chân "Rồi nó dãn ra thì lại rộng quá ấy chứ", ông Giuốc-đanh đốp vào mặt bác ngay "Phải, nếu tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật". Còn với đôi giày đi chật, bác phó may không chịu, cho đó chí là tưởng tượng ("Ngài cứ tưởng tượng ra thế"), ông Giuốc-đanh có lẽ phải của ông: "Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ!" Cái đúng ở ông Giuốc-đanh có được là nhờ vào thực tế, lấy thực tế (là đôi chân của mình) làm thước đo, vì vậy mà phân biệt được phải trái rạch ròi. Khi không còn chỗ dựa ấy, hoặc lấy tưởng tượng làm chỗ dựa cho mình, ví như hình mẫu một nhà quý tộc trong cách ăn mặc ra sao, ông ta không còn sáng suốt nữa. Bị mù quáng và mê hoặc, ông Giuốc-đanh chỉ còn là một thứ hình nộm, một thứ con rối do người khác điều khiển giật dây. Nghệ thuật gây cười bắt đầu từ đó. Câu giới thiệu về bộ lễ phục vừa may xong của bác phó may đối với ông Giuốc-đanh như một phép thử, thử xem ông ta đã mê muội đến đâu: "Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ lễ phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác…". Nhưng, sự khoác lác của bác phó may không hoàn toàn làm cho ông Giuốc-đanh bị hoa mắt. Ông ta lại có lí luận của ông ta: "Thế này là thế nào ? Bác may hoa ngược mất rồi!" Lần này, ông ta vẫn có lí vì người thợ may nào chẳng phân biệt được cái điều sơ đẳng ấy. Nhưng cái lí của ông ta (Giuốc-đanh) chỉ có đến như thế, rồi thôi. Câu chống chế của bác phó may làm cho lão nửa tin nửa ngờ: "Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả". Câu thứ nhất, lão chắc không tin, nhưng đến câu thứ hai thì lão đã có phần tin, vì tin mà lão chì cần hỏi lại bác phó may tinh khôn bằng một giọng của kẻ đáng thương đuối lí: "Những người quý phái mặc áo hoa ngược ư?". Với người xem, luận điệu của bác phó may rõ ràng là lừa bịp (lễ phục không may màu đen, lại còn may hoa ngược), còn với ông Giuốc-đanh, ông thay đổi rất nhanh như người vồ được của. Vồ được của rồi, ông hí hửng, ông ôm giữ khư khư. Lại một phép thử nữa xem cá cắn câu đến mức độ nào khi bác phó may nói rằng hoa ngược có thể đổi thành hoa xuôi (?) thì ông Giuốc-đanh chối đây đẩy: "Không, không" và lảng sang chuyện khác: "Bác cho rằng tôi mặc áo này có vừa vặn không?". Sự đắc ý của ông Giuốc-đanh đã lên đến tột độ khi có được bộ lễ phục đúng mốt quý tộc. Điều đó làm cho lão lờ đi những chuyện vặt vãnh, rãu ria. Bộ tóc giả và lông đính mũ, lão chỉ hỏi lấy lệ, qua loa, cũng như biết bác phó may ăn bớt vải một cách tham lam, trắng trợn (dám mặc áo bằng vải của mình trước mặt mình), lão cũng chỉ. phàn nàn đôi chút mà thôi ("Đành là đẹp, nhưng đáng lẽ đừng gạn vào áo của tôi mới phải"). Xung đột kịch, diễn biến kịch không căng thảng (như bi kịch chẳng hạn) nhưng qua nhân vật hài (ông Giuốc-đanh), tác giả đã giúp ta hình dung: thói học đòi, bắt chước đã biến đổi con người sâu sắc biết chừng nào. Sự sáng suốt bỗng trở lên mù quáng. Đúng mà hoá thành sai và ngược lại. Rối tinh lên và lộn tùng phèo không còn biết đâu là chân lí nữa. 2. Cảnh thứ hai: ông Giuốc-đanh và những tay thợ phụ. Nếu ở cảnh thứ nhất, sự lừa bịp đã thành công vì cái sự học đòi biến con người (ông Giuốc-đanh) thành một thứ mồi ngon của nó thì ở cảnh thứ hai, sự tâng bốc đã thắng lợi vì những danh tiếng hão huyền mà con người thường ước mơ, khao khát. Đầu tiên, nghe chú thợ phụ xin tiền uống rượu, ông Giuốc-đanh giật mình, giật mình không phải vì sợ (sợ mất tiền, cái sợ cố hữu của những người giàu keo kiệt) mà vì sung sướng, mở mày mở mặt: lần đầu tiên, ông ta được gọi là ông lớn. Một cách gọi chưa quen nên chưa dám tin không biết mình có phải nghe nhầm hay không? Ông ta phải hỏi lại cho chắc chắn. Khi biết đích xác là như thế qua lời nhắc lại của chú thợ phụ, nhất là khi tin vào lập luận của chính ồng ta ("Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là ông lớn"), sự trả giá của ông Giuốc-đanh thật là hào phóng ("Đây, ta thưởng vể tiếng ông lớn đây này!"). Thói láu cá ranh ma – thực chất là từ lòng tham của tay thợ phụ có cái mũi rất tinh. Nó đánh hơi được con mồi béo bở: kẻ thích tâng bốc có cả một túi tiển. Túi tiền ấy giúp cho chú thợ phụ tinh khôn leo thang từng nấc một, biết kiềm chế, cứ từ từ, không đi đâu mà vội. Hãy cứ để cho người có túi tiền kia có thời gian tận hưởng niềm vui. Vì cứ có niềm vui của lão là tiền sẽ được xì ra. Lão không tiếc tiền vì lão cần danh vọng hơn, dù sự tôn vinh ấy có là giả tạo đi chăng nữa. Cứ thế, danh vọng hão nhưng tiền lại là có thật. Những chú thợ phụ chỉ cần có thế, cứ tha hồ đem đến cho lão những niềm vui. Song, nhân vật chính ở cảnh này không phải là các chú thợ phụ, dù họ có đến bốn năm người và dù họ có mưu ma chước quỷ đến đâu. Nhân vật ông Giuốc-đanh mới là đối tượng mồi chài của họ, là nạn nhân mà cứ tưởng mình là ông lớn, mới là nhân vật trung tâm. Nhân vật ấy hiện trên sân khấu như cứ bằng xương thịt hẳn hoi vì ông ta là một người có tính cách: lòng hám danh kể cả cái danh nếu chỉ cần tỉnh táo một chút thôi sẽ biết là giả dối. Lão Giuốc-đanh còn tỉnh táo làm sao được trước vòng hào quang đường mật? Hệ thống đại từ nhân xưng: ông lớn, cụ lớn, đức ông thường dùng với những nhà quý tộc đã được lạm phát ở đây, với người xem nó dùng để lừa người, lừa những kẻ trưởng giả như ông Giuốc-đanh ngu dốt hám danh. Ấy là còn chưa kê đến trình tự từ thấp đến cao của nó. Dù có là quý tộc hẳn hoi đi nữa thì làm sao có sự thăng cấp liên tục và chỉ trong phút chốc thế kia? Thế mà ông Giuốc-đanh có lần nào không vui, lần nào cũng như mở cờ trong bụng, và không lần nào giống lần nào. Hai lần trước ông ta say, say trước những từ ngữ đại ngôn hoa mĩ. Niềm vui của nhân vật lớn bé tuy có khác nhau, nhưng là niềm vui trọn vẹn, ông ta thoả mãn và có thể ngủ yên trong vòng tay của giấc mơ hạnh phúc tràn đầy. Nhưng đến lần thứ ba, ông ta có phần hồi tỉnh. Sự sáng suốt trở lại chăng? Quả thật là có thế. Nhưng dù có thế, có tự dặn mình đừng quên cái túi tiền mỗi lúc một vơi đi với những lần tôn vinh, xưng gọi ("Của đáng tội, nếu nó tôn ta lên bậc tướng công thì nó sẽ được cả túi tiền mất"), nhưng đâm lao phải theo lao, vả lại tội gì mà kìm nén niềm sung sướng mà đâu phải lúc nào cũng có? Tóm lại, tình huống kịch và diễn biến kịch dù chỉ qua hai cảnh diễn nhưng rất sinh động, luôn luôn phát triển. Từ đó mà nhân vật kịch được khắc hoạ tài tình. Nổi bật lên một tính cách rất đáng bị phê phán: thói học đòi làm sang của hạng người trưởng giả. Tính cách ấy biến con người thành một thứ trò hể mà chính con người – hể kia không tự biết. Dĩ nhiên, nhân vật của Mô-li-e chỉ là sản phẩm của một thời (thế kỉ XVII), của một nền văn chương (văn chương Pháp). Nhưng là một hình tượng nghệ thuật được xây dựng rất thành công như thế, cho đến ngày hôm nay, nó vẫn là một cảnh báo. Con người sẽ không còn là con người nếu bị nhiễm dộc về tinh thần. Sự biến chất, sự thoái hoá sẽ diễn ra như một thứ nguy cơ không thể nào tránh được. Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 4 Mô-li-e là một nhà biên kịch lớn của Châu Âu thế kỉ XVII và là người sáng lập ra nền hài kịch cổ điển Pháp. Ông phản ánh những vấn đề xã hội, phê phán thứ văn hóa cầu kì của quý tộc, những lề sống giả dối, hèn hạ của bọn quý tộc lớn nhỏ. Bên cạnh đó là sự chế giễu những đầu óc hẹp hòi, gia trưởng, bảo thủ không chịu tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của khoa học. Vở kịch “ Trưởng giả học làm sang” là một tác phẩm nổi tiếng, mang tính hiện thực sâu sắc. Mô-li-e đã xây dựng lên một nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng, bất hòa giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn và cái sang trọng ở nhân vật ông Giuốc-đanh. Đoạn trích “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” đã miêu tả sinh động điều đó. “Trưởng giả học làm sang” là một vở hài kịch năm hồi, có xen màn ca múa phụ họa nên gọi là vũ khúc hài kịch. Đoạn trích “Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục” là lớp kịch kết thúc hồi II. Nhân vật trung tâm của vở kịch là ông Giuốc- đanh, tuổi ngoài bốn mươi, con một nhà buôn giàu có. Tuy dốt nát thô kệch, nhưng ông muốn học đòi làm sang. Nhiều kẻ lợi dụng tính cách đó, săn đón, nịnh hót ông để moi tiền. Cảnh Giuốc-đanh mặc lễ phục là một biểu hiện của thói học đòi lối ăn mặc sang trọng của quý tộc. Lão ta đã bị bọn thợ may lợi dụng. Tác giả đã khắc họa sinh động, tài tình, làm nổi bật tính cách lố lăng của một gã trọc phú thừa tiền rửng mỡ. Chân dung hài hước của Giuốc-đanh đã gây ra những trận cười sảng khoái cho khán giả. Màn kịch là sự châm biếm, đả kích và phê phán mạnh mẽ của Mô-li-e đối với giai cấp tư sản đương thời. Màn kịch được chia làm hai cảnh. Cảnh thứ nhất là sự xuất hiện của ông Giuốc-đanh và bác phó may diễn ra tại một phòng trà. “A! Bác đã tới đấy à? Tôi sắp phát khùng lên vì bác đây”. Đó là lời reo lên vừa vui mừng vừa trách móc của ông Giuốc-đanh khi bác thợ may xuất hiện. Với thái độ ấy chắc hẳn ông Giuốc-đanh đã hào hứng biết nhường nào để thấy bộ lễ phục mình đặt may- bộ lễ phục ấy chính là niềm quan tâm của ông, có nó mọi người sẽ biết ông là người giàu có, là quý tộc. Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục trong tác phẩm Trưởng giả học làm sang của Mô-li-e Ông Giuốc-đanh ngờ nghệch bị phụ may lừa gạt. Những thứ ông mua chỉ toàn đồ dởm, nào là chiếc bít tất chật, “mới xỏ chân vào được và đã đứt mất hai mắt rồi”, hay đôi giày không vừa chân khiến ông đau chân ghê gớm.Tình huống gây cười cũng bắt đầu từ đấy. Bác phó may khéo léo qua mặt, lấp liếm, để tránh những trách móc, bác phó may đã chuyển chủ đề về bộ lễ phục. Ông Giuốc-đanh phát hiện ngay hoa bị may ngược: ”Bác may hoa ngược mất rồi”. Mặc dù ông rất nóng lòng xem sản phẩm của phó may nhưng ông vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra lỗi. Bác phó may đáp ngay lại rằng: “nào ngài có bảo là ngài muốn may xuôi hoa”. Ông Giuốc-đanh giận lắm nhưng khi nghe bác phó may nói là quý tộc đều mặc như thế thì ông lại thôi, bởi cốt sao ông mặc giống với quý tộc là được. Chỉ cần như thế, bác phó may không cần phải may lại mà còn được khen là” bộ này may được đấy”. Rồi khi ông hỏi áo có vừa vặn không, bộ tóc giả và lông đính mũ có được chững chạc không? Kèm đó là câu trả lời đầy sự nịnh nọt của phó may: ”còn phải hỏi, tôi đố họa sĩ nào lấy bút mà vẽ hầu ngài bộ áo vừa khít hơn được” rồi tiếp nữa “chững chạc tuốt”, những lời ấy như rót mật vào tai, càng khiến ông Giuốc-đanh đắc ý tột độ. Ông Giuốc-đanh phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải. Nhưng ông chỉ trách móc nhẹ nhàng: “đành là đẹp nhưng đáng lẽ đừng gạn vào áo của tôi mới phải”. Trước sự phát hiện ấy, bác phó may không lý luận, biện hộ mà lờ đi chuyển sang việc thử áo. Với sự khôn ngoan ấy,bác phó may khiến ông Giuốc-đanh không còn giận, tiếc xém nữa mà hào hứng mặc bộ lễ phục từ lâu. Một lần nữa, ông lại mù quáng trước những sai phạm về bộ trang phục và để bác phó may qua mặt. Không chỉ bị lừa bịp, lão trưởng giả ấy lộ chân tướng là một kẻ lố bịch như một con rối khi phó may đem bốn tay thợ phụ để hầu ông mặc lễ phục theo thể thức, mặc theo nhịp điệu, theo cách mặc của cho các nhà quý phái. Khung cảnh trở lên nhộn nhịp hơn, thú vị hơn, một màn biểu diễn gây tiếng cười lớn cho khán giả về màn thay đồ lố lăng theo nhịp điệu của dàn nhạc. Phải chăng thói học đòi của một tay trọc phú đã biến ông trở thành một kẻ ngờ nghệch, đầy sự lố bịch, như một thằng hề không hơn không kém. Nếu như cảnh thứ nhất là sự tránh né thành công những sai sót của bác phó may thì cảnh thứ hai trở lên hấp dẫn, náo nhịp hơn với sự nịnh lọt của đám thợ phụ, bởi đánh trúng tâm lý mà đám thợ phụ đã được một khoản tiền hời hĩnh. Khi mặc xong bộ lễ phục, có lẽ tay thợ phụ buộc miệng hoặc cố tình gọi ngay ông là “ông lớn”. Khiến cho ông ngỡ mình ăn mặc theo lối quí phái đã trở thành bề trên, sang trọng vô cùng. Ông sung sướng với cách mà thợ phụ gọi lập tức thưởng tiền cho hai tiếng ông lớn ấy. Kiếm tiền trở nên thật dễ dàng, đám thợ phụ dường như đã nắm thóp được lão, họ biến ông thành gã khờ khạo, tiếng “cụ lớn” thốt lên để cảm ơn khiến ông thích thú gấp nhiều lần: “ồ ồ, cụ lớn, không phải là một tiếng tầm thường” và tiền được ông vung ra thưởng một cách không đáng tiếc. Ông luôn nghĩ đến túi tiền của mình nhưng đến khi đám thợ phụ nâng ông lên tận tầng mây với hai tiếng “ đức ông” chắc nhẩm”đến mất tong cả tiền cho nó thôi” nhưng ông vẫn sẵn sàng thưởng tiền cho tên thợ phụ và có lẽ cả túi tiền cũng đáng nếu đám thợ phụ tôn ông lên bậc tướng công. Cảnh đám thợ phụ tôn ông trưởng giả từ ông lớn lên cụ lớn rồi đức ông làm cao trào kịch được đẩy lên, mang đến những tiếng cười lớn cho khán giả. Mô-li-e đã làm cho màn kịch đậm sự trào phóng, nổ tung những tiếng cười châm biếm thói lố bịch, háo danh, ưa nịnh, thích được tâng bốc của bọn quý tộc phong kiến lỗi thời. Mô-li-e đã xây dựng thành công nhân vật hết sức sinh động, khắc họa tài tình tính cách lố lăng của một tay trưởng giả học đòi làm sang mang đến tiếng cười sảng khoái cho khán giả. Đồng thời, qua nhân vật ông Giuốc-đanh là sự phê phán, châm biếm những kẻ hoang tưởng về mình, ham thích những thứ không thể và không nên có. Trải qua nhiều thế kỉ, nhưng sức phê phán hiện thực của vở kịch để lại vẫn còn giá trị đến bây giờ. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Văn mẫu lớp 8Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Phân tích tác phẩm Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000 – Văn mẫu lớp 8Phân tích bài thơ Ông đồ – Văn mẫu lớp 8Suy nghĩ về câu nói “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. …” – Văn mẫu lớp 8Phân tích đoạn trích Hai cây phong – Văn mẫu lớp 8Nỗi khổ đau của kiếp lầm than qua các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX – Văn mẫu lớp 8Nhà văn Nguyễn Bá Học có nói “Đường đi khó không phải vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Em hiểu câu danh ngôn này như thế nào? – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về cây bút – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về cái cặp sách – Văn mẫu lớp 8
Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 1
Đoạn kịch “Ông Giuốc – đanh mặc lễ phục” là một trong số năm hồi của vở kịch “Trưởng giả học làm sang” của tác giả Mô- li- e, một nhà soạn kịch nổi tiếng người Pháp. Mô – li – e nổi tiếng với rất nhiều vở hài kịch như: Lão hà tiện, người bệnh tưởng…Trong đó, “trưởng giả học làm sang” là tác phẩm tiêu biểu của ông, được nhiều độc giả trên thế giới yêu thích, đón nhận. Đoạn trích “Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục” xoay quanh câu chuyện của ông Giuốc – đanh với bộ lễ phục, cùng với sự ảo tưởng đến hài hước, đó là mặc lên những bộ quần áo cao quý thì có thể trở thành những người quyền quý, sang trọng.
Ông Giuốc- đanh là một người đàn ông chạc bốn mươi tuổi, gia đình thuộc hàng khá giả. Tuy nhiên, ông ta lại là sự dốt nát lại ôm giấc mộng muốn làm sang, muốn trở thành những quý tộc sang trọng, có thể bước chân vào thế giới thượng lưu. Để thực hiện giấc mộng hoang đường của mình, cách thức ông ta thực hiện cũng thật hài hước, ông ta thuê về những người thầy dạy kiếm đạo, âm nhạc, triết lí…và để cho giống nhất thì ông tat hay đổi cả cách ăn mặc thường ngày của mình. Trích đoạn “Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục” kể lại câu chuyện giữa ông Giuôc – đanh và người thợ may, những tình huống được Mô- li- e xây dựng trong đoạn trích khiến cho người đọc “Dở khóc, dở cười”.
Mở đầu đoạn trích, là hình ảnh của ông Giuốc- đanh đang rất nôn nóng mong chờ sự xuất hiện của ông thợ may: “A! Bác đã tới đấy à? Tôi sắp phát khùng lên vì bác đây”. Sự nôn nóng của ông Giuốc- đanh khiến cho người đọc liên tưởng đến một sự việc trọng đại lắm, vì vậy mới có thể khiến cho một người đàn ông đã trưởng thành mong ngóng đến vậy, nhưng khi biết được mục đích của ông Giuốc- đanh thì người đọc lại không khỏi bật cười. Ông ta đứng ngồi không yên chỉ vì một chiếc bít tất không vừa chân: “Đôi bít tất lụa bác gửi đến cho tôi chật quá, tôi khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được và đứt mất hai mắt rồi”. Trước sự lí sự cùn của tên thợ may rằng tất chật nó dãn ra là vừa thì ông Giuốc- đanh cũng đối đáp lại ngay: “Phải, nếu như tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật”.
Ta có thể thấy, lúc bắt đầu trích đoạn, ông Giuốc – đanh có hơi ngây ngốc nhưng hoàn toàn tỉnh táo, ông nhận thức được đôi bít tất không vừa chân mình, khi xỏ vào làm đứt hai mắt, hay đôi giày cũng không vừa, nó làm cho chân ông “đau ghê gớm”. Sự lí lẽ, chối bay chối biến của tên thợ may ông cũng nhìn ra và còn vạch trần sự gian dối ấy: “Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ?”. Vì sao cần nói đến sự tỉnh táo lúc này? Bởi càng đi sâu vào các tình tiết của trích đoạn này, ta sẽ càng nhận thấy ông Giuốc- đanh càng bị mất đi sự tỉnh táo, khả năng phán xét cũng hoàn toàn dựa trên lời nói, lời khẳng định của tên thợ may. Cụ thể là ở ngay cuộc đối thoại sau, khi bàn về bộ trang phục mà ông Giuốc – đanh đặc biệt đặt may, thì dù vẫn còn chút tỉnh táo còn sót lại, nhưng trước những lời lẽ ngon ngọt của tên thợ may thì ông lại xuôi theo một cách mù quáng.
Đang trong tâm trạng hừng hực vì những món đồ không vừa ý mình, khi nhắc đến bộ trang phục, nhất là lúc nghe tên thợ may giới thiệu một cách đầy khoe khoang thì sự khí thế ban đầu đã giảm đi phân nửa: “Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ trang phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác. Tôi thách các thợ giỏi nhất mà làm nổi đấy”. Ta cũng phải thấy ở đây sự khôn khéo, lươn lẹo của tên thợ may. Khi nghe ông Giuốc- đanh vạch mặt sự bất tài nhưng lại gian dối của mình thì hắn ta đã rất khéo léo đưa câu chuyện sang một đề tài khác. Biết rằng ông Giuốc- đanh đặc biệt kì vọng vào bộ trang phục này nên hắn ta nhấn mạnh những từ nhấn mạnh “Tôi thách các thợ giỏi nhất mà làm nổi đấy”. Với cái lí lẽ như vậy ông Giuốc- đanh ảo tưởng rằng đó sẽ là bộ trang phục đẹp nhất, độc đáo nhất mà không có một vị quý tộc sang trọng nào có được.
Những tình huống hài hước từ đây bắt đầu được bộc lộ, sự hào hứng, chủ động ban đầu của ông Giuốc- đanh đã trở thành bị động, mọi việc đều diễn ra theo sự dẫn dắt của tên thợ may. Khi ông Giuốc- đanh thắc mắc rằng sao những bông hoa lại may ngược, tên thợ may đã đưa ra lí lẽ “Mọi người quý phái đều mặc như thế cả”. Có lẽ từ quý phái đã tác động quá lớn đến ông Giuốc- đanh bởi kể từ đây, ông không còn nhận thức được đúng sai, những lời nói thật hay giả dối nữa, ông một mực tin tưởng vào những lời nói dối trắng trợn của tên thợ may. Khi được lời khẳng định chắc chắn của tên thợ may rằng mọi quý tộc đều mặc như thế này, thì ông Giuốc- đanh đã khẳng định ăn theo ngay: “Thế thì bộ áo này may được đấy”.
Cái hài hước ở đây là ai cũng biết hoa ngược là may sai nhưng không biết là do tên thợ may quá lươn lẹo hay do ông Giuốc- đanh quá ngây ngốc mà ông ta lại dễ bị lừa và tin vào những điều vô lí như vậy. Có lẽ ông ta đã bị giấc mộng quý tộc mà cho mờ mắt, mất hết khả năng phán đoán, nhận thức mọi việc. Ông ta ngây ngốc đến độ, khi tên thợ may giả vờ thử lòng ông khi muốn may lại cho ông thì ông ta lại vội vàng từ chối: “ Tôi bảo mà. Bác may thế này được rồi…”. Sự u mê, ngây ngốc vì giấc mộng quý tộc, sự sang trọng được đẩy đến đỉnh điểm khi nghe những lời nịnh nọt trắng trợn của tên thợ may. Khi được gọi là ông lớn thì vui sướng đến độ thưởng ngay tiền cho hắn: “ Ông lớn ư? Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bò bo kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là ông lớn”. Nắm bắt được tâm lí học đòi làm sang của ông Giuốc – đanh, tên thợ may được đà lấn tới, liên tiếp gọi ông ta là cụ lớn, đức ông. Sự nịnh bợ, tang bốc hết sức lố bịch, nhưng ông Giuốc – đanh không nhận thức được điều đó vì đang sống trong những ảo tưởng của mình.
Như vậy, trích đoạn “Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục” đã cho người đọc được cười những tràng cười thích thú. Ông Giuốc – đanh hiện lên với hình ảnh của một người ngây ngô, mù quáng vì danh hiệu quý tộc, hành động học làm sang của ông ta thật hài hước, suy nghĩ của ông ta cũng thật giản đơn. Bên cạnh hình ảnh ngây ngốc của ông Giuốc – đanh là một con người khéo léo, có phần lươn lẹo của tên thợ may, hắn ta biết ông Giuốc- đanh cần gì, muốn gì để tang bốc, nịnh bợ. Sự kết hợp của hai kiểu người này đã tạo ra sức hấp dẫn cho vở hài kịch này.
Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 2
Mô-li-e được coi là nhà viết kịch có nhiều tác phẩm đạt đến mức kinh điển của thế giới. Vở kịch "Trưởng giả học làm sang" là một tác phẩm nổi tiếng của ông, trong đó trích đoạn "Ông Giuôc-đanh mặc lễ phục" là một trích đoạn tiêu biểu.
Lớp kịch này được chia làm hai cảnh, dấu hiệu nhận biết trên văn bản là đoạn chỉ dẫn sân khấu "Bốn tay thợ phụ bước vào…". Cả hai cảnh này đều diễn ra trong không gian phòng khách nhà ông Giuốc-đanh – nhân vật chính. Không khí kịch càng về sau càng sôi động, cho đến cuối cảnh sau thì không khí hài kịch thực sự náo nhiệt. Trên văn bản, ta thấy ở cảnh trước gồm những lời thoại của hai nhân vật: ông Giuốc-đanh và bác phó may; cảnh sau là những lời đối thoại của ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ. Cảnh trước, trên sân khấu xuất hiện bốn nhân vật (ông Giuốc-đanh và một gia nhân, bác phó may và tay thợ phụ mang bộ lễ phục). Cảnh sau, xuất hiện thêm bốn tay thợ phụ nữa. Cảnh trước, ông Giuốc-đanh và bác phó may đối thoại với nhau. Cảnh sau, ông Giuốc-đanh nói với một tay thợ phụ "mang lễ phục”, xuất hiện từ cảnh trước nhưng xung quanh ông là cả bốn tay thợ phụ đến sau đang xúm vào để giúp ông thử lễ phục mới nên như là nói với cả bọn. Thêm nữa, cảnh trước cử chỉ, động tác của các nhân vật ít hơn (chỉ là những cử chỉ, động tác kèm theo đối thoại của hai nhân vật), đến đoạn sau các thợ phụ nhộn nhịp cởi quần áo cũ, mặc lễ phục mới cho ông Giuôc-đanh… Thêm nữa, khi ông Giuốc-đanh mặc lễ phục còn có cả nhảy múa và âm nhạc!
Ở cảnh đầu của lớp kịch, tính cách của Giuốc-đanh thể hiện trong đối thoại với bác phó may. Nào là chuyện đôi bít tất, chuyện bộ tóc giả, lông đính mũ song chủ yếu là chuyện xoay quanh bộ lễ phục mới, với những bông hoa ngược! Làm sao mà biết được là do bác phó may đốt, do sơ suất hay cố ý may thành những bông hoa ngược? Chỉ biết rằng chính ông Giuôc-đanh phát hiện ra sự cố này. Khổ một cái, cái bác phó may với tay nghề khó hiểu này lại bảo rằng người quý tộc người ta vẫn mặc vậy. Mà ông Giuốc-đanh thì đang học đòi làm sang. Thế là ông hoàn toàn bị khuất phục bởi sự láu cá của bác phó may. Kịch tính được đẩy lên khi bác phó may liên tiếp ra đòn: "Nếu ngài muốn thì tôi sẽ xin may hoa xuôi lại thôi mà", "xin ngài cứ việc bảo". Sợ cơ hội làm sang sẽ tuột mất, ông Giuốc-đanh cứ chối đây đẩy: "Không, không", "tôi đã bảo không mà". Rồi lại chính ông Giuô'c-đanh phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải của mình. Song bác phó may đã nắm chắc điểm yếu của đối phương, chỉ cần bác lảng sang chuyện thử bộ lễ phục mới là ông Giuốc- đanh chẳng còn để ý đến chuyện ăn bớt vải nữa. Chẳng thế mà bác phó may lại quá tự tin khi mặc đúng cái áo may bằng vải ăn bớt của ông Giuốc-đanh đến nhà ông Giuốc-đanh.
Sang cảnh sau của lớp kịch, tính cách trưởng giả học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh tiếp tục được bộc lộ. Lần này đến lượt tay thợ phụ lợi dụng ông ta. Nếu anh này cứ gọi ông Giuốc-đanh như thông thường (ông hoặc ngài) thì đã không có chuyện gì xảy ra (và chắc cũng không được tiền uống rượu). Đằng này lại xưng tôn là "ông lớn", lại đúng vào lúc ông đang mặc lễ phục và say sưa với cảm giác trở thành quý phái. Thế là y được thưởng vì tiếng "ông lớn" sang trọng ấy. Tay thợ phụ ranh ma này nắm thóp được ông Giuốc-đanh thì liên tiếp tung ra những câu nịnh hót để moi tiền. Và y đã rất thành công. Những tiếng "cụ lớn", rồi "đức ông" đều đem lại cho y tiền thưởng. Không phải ông Giuốc-đanh không nghĩ gì đến túi tiền của mình (Nó như thế là phải chăng, nếu không ta không mất tong cả tiền cho nó thôi) mà là tại vì cái mộng quý phái còn lớn hơn cả sự tiếc tiền! Như vậy cũng đủ thấy tính cách học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh mạnh đến mức nào.
Sự chênh lệch, mất cân xứng giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và bên ngoài là nguyên tác cơ bản để nhà văn tạo ra cái hài. Ở lớp kịch này cũng vậy, Mô-li-e đã xây dựng một nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng, bất hoà giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn và cái sang trọng học đòi ở nhân vật ông Giuốc-đanh, với hàng loạt các tình tiết gây cười: bộ lễ phục với những bông hoa ngược, tiền thưởng cho những tiếng tôn xưng quý phái hão, vẻ vênh vác rởm hợm của ông Giuốc-đanh khi mặc lễ phục cũng như khi được tôn xưng… qua đó nhà văn chế giễu thói học đòi làm sang vẫn thường thấy trong xã hội.
Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 3
Đây là trích đoạn trong vở hài kịch nổi tiếng của Mô-li-e, Trưởng giả học làm sang (lớp 5, hồi II). Nói đến kịch phải nói đến xung đột kịch. Nhưng đi vào hài kịch thì cái mà người xem chú ý nhất lại là nghệ thuật gây cười. Trong những tình huống nhất định, nhân vật chính của hài kịch xuất hiện đem đến cho người xem những nụ cười sảng khoái. Đạt đến mức ấy, vở kịch đã thành công.
1. Cảnh thứ nhất: ông Giuốc-đanh và bác phó may. Đối thoại đầu tiên của hai nhân vật xung quanh chuyện bít tất với đôi giày. Ở đây, ông Giuốc-đanh là người có lí, bởi cả hai thứ ông ta đều đi chật. Còn vì sao ông ta phải "khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được" (đối với tất) hay nó "làm tôi đau chân ghê gớm" (đối với đôi giày) chẳng qua là ở thói láu cá ăn bớt tiền của bác phó may (số nhỏ thì thường ít tiền hơn số đo lớn hơn), cũng như ở đoạn sau: may một bộ lễ phục cho khách mà bác ta cố tình gạn đủ một cái áo cho mình. Biết tỏng những mẹo vặt ấy, ông Giuốc-đanh dồn bác ta vào thế chân tường. Ăn vụng bị bắt quả tang, bác phó may là người đuối lí. Người xem hoàn toàn đồng cảm với ông Giuốc-đanh vì lúc này trí óc ông còn tỉnh táo. Vì tỉnh táo nên lí luận sắc sảo. Chẳng hạn khi bác phó may chống chế về đôi tất không xỏ vừa chân "Rồi nó dãn ra thì lại rộng quá ấy chứ", ông Giuốc-đanh đốp vào mặt bác ngay "Phải, nếu tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật". Còn với đôi giày đi chật, bác phó may không chịu, cho đó chí là tưởng tượng ("Ngài cứ tưởng tượng ra thế"), ông Giuốc-đanh có lẽ phải của ông: "Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ!" Cái đúng ở ông Giuốc-đanh có được là nhờ vào thực tế, lấy thực tế (là đôi chân của mình) làm thước đo, vì vậy mà phân biệt được phải trái rạch ròi. Khi không còn chỗ dựa ấy, hoặc lấy tưởng tượng làm chỗ dựa cho mình, ví như hình mẫu một nhà quý tộc trong cách ăn mặc ra sao, ông ta không còn sáng suốt nữa. Bị mù quáng và mê hoặc, ông Giuốc-đanh chỉ còn là một thứ hình nộm, một thứ con rối do người khác điều khiển giật dây. Nghệ thuật gây cười bắt đầu từ đó. Câu giới thiệu về bộ lễ phục vừa may xong của bác phó may đối với ông Giuốc-đanh như một phép thử, thử xem ông ta đã mê muội đến đâu: "Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ lễ phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác…". Nhưng, sự khoác lác của bác phó may không hoàn toàn làm cho ông Giuốc-đanh bị hoa mắt. Ông ta lại có lí luận của ông ta: "Thế này là thế nào ? Bác may hoa ngược mất rồi!" Lần này, ông ta vẫn có lí vì người thợ may nào chẳng phân biệt được cái điều sơ đẳng ấy. Nhưng cái lí của ông ta (Giuốc-đanh) chỉ có đến như thế, rồi thôi. Câu chống chế của bác phó may làm cho lão nửa tin nửa ngờ: "Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả". Câu thứ nhất, lão chắc không tin, nhưng đến câu thứ hai thì lão đã có phần tin, vì tin mà lão chì cần hỏi lại bác phó may tinh khôn bằng một giọng của kẻ đáng thương đuối lí: "Những người quý phái mặc áo hoa ngược ư?". Với người xem, luận điệu của bác phó may rõ ràng là lừa bịp (lễ phục không may màu đen, lại còn may hoa ngược), còn với ông Giuốc-đanh, ông thay đổi rất nhanh như người vồ được của. Vồ được của rồi, ông hí hửng, ông ôm giữ khư khư. Lại một phép thử nữa xem cá cắn câu đến mức độ nào khi bác phó may nói rằng hoa ngược có thể đổi thành hoa xuôi (?) thì ông Giuốc-đanh chối đây đẩy: "Không, không" và lảng sang chuyện khác: "Bác cho rằng tôi mặc áo này có vừa vặn không?". Sự đắc ý của ông Giuốc-đanh đã lên đến tột độ khi có được bộ lễ phục đúng mốt quý tộc. Điều đó làm cho lão lờ đi những chuyện vặt vãnh, rãu ria. Bộ tóc giả và lông đính mũ, lão chỉ hỏi lấy lệ, qua loa, cũng như biết bác phó may ăn bớt vải một cách tham lam, trắng trợn (dám mặc áo bằng vải của mình trước mặt mình), lão cũng chỉ. phàn nàn đôi chút mà thôi ("Đành là đẹp, nhưng đáng lẽ đừng gạn vào áo của tôi mới phải"). Xung đột kịch, diễn biến kịch không căng thảng (như bi kịch chẳng hạn) nhưng qua nhân vật hài (ông Giuốc-đanh), tác giả đã giúp ta hình dung: thói học đòi, bắt chước đã biến đổi con người sâu sắc biết chừng nào. Sự sáng suốt bỗng trở lên mù quáng. Đúng mà hoá thành sai và ngược lại. Rối tinh lên và lộn tùng phèo không còn biết đâu là chân lí nữa.
2. Cảnh thứ hai: ông Giuốc-đanh và những tay thợ phụ. Nếu ở cảnh thứ nhất, sự lừa bịp đã thành công vì cái sự học đòi biến con người (ông Giuốc-đanh) thành một thứ mồi ngon của nó thì ở cảnh thứ hai, sự tâng bốc đã thắng lợi vì những danh tiếng hão huyền mà con người thường ước mơ, khao khát. Đầu tiên, nghe chú thợ phụ xin tiền uống rượu, ông Giuốc-đanh giật mình, giật mình không phải vì sợ (sợ mất tiền, cái sợ cố hữu của những người giàu keo kiệt) mà vì sung sướng, mở mày mở mặt: lần đầu tiên, ông ta được gọi là ông lớn. Một cách gọi chưa quen nên chưa dám tin không biết mình có phải nghe nhầm hay không? Ông ta phải hỏi lại cho chắc chắn. Khi biết đích xác là như thế qua lời nhắc lại của chú thợ phụ, nhất là khi tin vào lập luận của chính ồng ta ("Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là ông lớn"), sự trả giá của ông Giuốc-đanh thật là hào phóng ("Đây, ta thưởng vể tiếng ông lớn đây này!"). Thói láu cá ranh ma – thực chất là từ lòng tham của tay thợ phụ có cái mũi rất tinh. Nó đánh hơi được con mồi béo bở: kẻ thích tâng bốc có cả một túi tiển. Túi tiền ấy giúp cho chú thợ phụ tinh khôn leo thang từng nấc một, biết kiềm chế, cứ từ từ, không đi đâu mà vội. Hãy cứ để cho người có túi tiền kia có thời gian tận hưởng niềm vui. Vì cứ có niềm vui của lão là tiền sẽ được xì ra. Lão không tiếc tiền vì lão cần danh vọng hơn, dù sự tôn vinh ấy có là giả tạo đi chăng nữa. Cứ thế, danh vọng hão nhưng tiền lại là có thật. Những chú thợ phụ chỉ cần có thế, cứ tha hồ đem đến cho lão những niềm vui. Song, nhân vật chính ở cảnh này không phải là các chú thợ phụ, dù họ có đến bốn năm người và dù họ có mưu ma chước quỷ đến đâu. Nhân vật ông Giuốc-đanh mới là đối tượng mồi chài của họ, là nạn nhân mà cứ tưởng mình là ông lớn, mới là nhân vật trung tâm. Nhân vật ấy hiện trên sân khấu như cứ bằng xương thịt hẳn hoi vì ông ta là một người có tính cách: lòng hám danh kể cả cái danh nếu chỉ cần tỉnh táo một chút thôi sẽ biết là giả dối. Lão Giuốc-đanh còn tỉnh táo làm sao được trước vòng hào quang đường mật? Hệ thống đại từ nhân xưng: ông lớn, cụ lớn, đức ông thường dùng với những nhà quý tộc đã được lạm phát ở đây, với người xem nó dùng để lừa người, lừa những kẻ trưởng giả như ông Giuốc-đanh ngu dốt hám danh. Ấy là còn chưa kê đến trình tự từ thấp đến cao của nó. Dù có là quý tộc hẳn hoi đi nữa thì làm sao có sự thăng cấp liên tục và chỉ trong phút chốc thế kia? Thế mà ông Giuốc-đanh có lần nào không vui, lần nào cũng như mở cờ trong bụng, và không lần nào giống lần nào. Hai lần trước ông ta say, say trước những từ ngữ đại ngôn hoa mĩ. Niềm vui của nhân vật lớn bé tuy có khác nhau, nhưng là niềm vui trọn vẹn, ông ta thoả mãn và có thể ngủ yên trong vòng tay của giấc mơ hạnh phúc tràn đầy. Nhưng đến lần thứ ba, ông ta có phần hồi tỉnh. Sự sáng suốt trở lại chăng? Quả thật là có thế. Nhưng dù có thế, có tự dặn mình đừng quên cái túi tiền mỗi lúc một vơi đi với những lần tôn vinh, xưng gọi ("Của đáng tội, nếu nó tôn ta lên bậc tướng công thì nó sẽ được cả túi tiền mất"), nhưng đâm lao phải theo lao, vả lại tội gì mà kìm nén niềm sung sướng mà đâu phải lúc nào cũng có? Tóm lại, tình huống kịch và diễn biến kịch dù chỉ qua hai cảnh diễn nhưng rất sinh động, luôn luôn phát triển. Từ đó mà nhân vật kịch được khắc hoạ tài tình. Nổi bật lên một tính cách rất đáng bị phê phán: thói học đòi làm sang của hạng người trưởng giả. Tính cách ấy biến con người thành một thứ trò hể mà chính con người – hể kia không tự biết. Dĩ nhiên, nhân vật của Mô-li-e chỉ là sản phẩm của một thời (thế kỉ XVII), của một nền văn chương (văn chương Pháp). Nhưng là một hình tượng nghệ thuật được xây dựng rất thành công như thế, cho đến ngày hôm nay, nó vẫn là một cảnh báo.
Con người sẽ không còn là con người nếu bị nhiễm dộc về tinh thần. Sự biến chất, sự thoái hoá sẽ diễn ra như một thứ nguy cơ không thể nào tránh được.
Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Bài số 4
Mô-li-e là một nhà biên kịch lớn của Châu Âu thế kỉ XVII và là người sáng lập ra nền hài kịch cổ điển Pháp. Ông phản ánh những vấn đề xã hội, phê phán thứ văn hóa cầu kì của quý tộc, những lề sống giả dối, hèn hạ của bọn quý tộc lớn nhỏ. Bên cạnh đó là sự chế giễu những đầu óc hẹp hòi, gia trưởng, bảo thủ không chịu tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của khoa học. Vở kịch “ Trưởng giả học làm sang” là một tác phẩm nổi tiếng, mang tính hiện thực sâu sắc. Mô-li-e đã xây dựng lên một nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng, bất hòa giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn và cái sang trọng ở nhân vật ông Giuốc-đanh. Đoạn trích “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” đã miêu tả sinh động điều đó.
“Trưởng giả học làm sang” là một vở hài kịch năm hồi, có xen màn ca múa phụ họa nên gọi là vũ khúc hài kịch. Đoạn trích “Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục” là lớp kịch kết thúc hồi II. Nhân vật trung tâm của vở kịch là ông Giuốc- đanh, tuổi ngoài bốn mươi, con một nhà buôn giàu có. Tuy dốt nát thô kệch, nhưng ông muốn học đòi làm sang. Nhiều kẻ lợi dụng tính cách đó, săn đón, nịnh hót ông để moi tiền. Cảnh Giuốc-đanh mặc lễ phục là một biểu hiện của thói học đòi lối ăn mặc sang trọng của quý tộc. Lão ta đã bị bọn thợ may lợi dụng. Tác giả đã khắc họa sinh động, tài tình, làm nổi bật tính cách lố lăng của một gã trọc phú thừa tiền rửng mỡ. Chân dung hài hước của Giuốc-đanh đã gây ra những trận cười sảng khoái cho khán giả. Màn kịch là sự châm biếm, đả kích và phê phán mạnh mẽ của Mô-li-e đối với giai cấp tư sản đương thời.
Màn kịch được chia làm hai cảnh. Cảnh thứ nhất là sự xuất hiện của ông Giuốc-đanh và bác phó may diễn ra tại một phòng trà. “A! Bác đã tới đấy à? Tôi sắp phát khùng lên vì bác đây”. Đó là lời reo lên vừa vui mừng vừa trách móc của ông Giuốc-đanh khi bác thợ may xuất hiện. Với thái độ ấy chắc hẳn ông Giuốc-đanh đã hào hứng biết nhường nào để thấy bộ lễ phục mình đặt may- bộ lễ phục ấy chính là niềm quan tâm của ông, có nó mọi người sẽ biết ông là người giàu có, là quý tộc.
Phân tích đoạn trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục trong tác phẩm Trưởng giả học làm sang của Mô-li-e Ông Giuốc-đanh ngờ nghệch bị phụ may lừa gạt. Những thứ ông mua chỉ toàn đồ dởm, nào là chiếc bít tất chật, “mới xỏ chân vào được và đã đứt mất hai mắt rồi”, hay đôi giày không vừa chân khiến ông đau chân ghê gớm.Tình huống gây cười cũng bắt đầu từ đấy. Bác phó may khéo léo qua mặt, lấp liếm, để tránh những trách móc, bác phó may đã chuyển chủ đề về bộ lễ phục. Ông Giuốc-đanh phát hiện ngay hoa bị may ngược: ”Bác may hoa ngược mất rồi”. Mặc dù ông rất nóng lòng xem sản phẩm của phó may nhưng ông vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra lỗi. Bác phó may đáp ngay lại rằng: “nào ngài có bảo là ngài mu