29/01/2018, 21:23

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Văn mẫu lớp 8

Nội dung bài viết1 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 1 2 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 2 3 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 3 4 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 4 5 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 5 Phân tích ...

Nội dung bài viết1 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 1 2 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 2 3 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 3 4 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 4 5 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 5 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 1 Sau khi gửi cho Toàn quyền Pháp một bức thư dài gần 12 trang (1906) đả kích chính sách cai trị của thực dân, chỉ trích sự tham nhũng và bất lực của quan lại Nam triều, đòi chính phủ bảo hộ phải cải cách guồng máy chính trị, thanh trừng ‘tệ lậu’ – Nhân việc phản kháng thuế ở Quảng Nam năm 1908, cụ bị bắt về tội ‘xúi dân làm loạn’ – bị toà án Nam triều kết án trảm quyết – nhưng nhờ Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, cụ được giảm án và bị đày đi Côn Đảo. Bài thơ ‘Đập đá ở Côn Lôn’ cụ viết trong lúc bị lưu đày và phải đi đập đá. Tác giả đã mượn điển tích bà Nữ Oa, em gái vua Phục Hy rèn đá ngũ sắc để vá trời, nói lên sứ mạng giải phóng dân tộc, một việc làm quá sức mình. Ta thử phân tích bài thơ trên để tìm hiểu chí hướng của tác giả: ‘Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn’ Thân dù bị lưu đày, cụ chẳng phải hạng tù tầm thường mà là người quân tử đứng nơi trung chính trong thiên hạ (sách Mạnh Tử nói: Lập thiên hạ chí tử chính vị). Non nước Côn Lôn còn tượng trưng cho chí hiên ngang của bậc anh hùng giữa vùng núi cao, bể rộng: ‘Lừng lẫy làm cho lở núi non’ Đất anh hùng bổn phận mình phải ra tay xẻ núi lấp sông. Cụ cho việc ‘Khai sơn, phá thạch’ của kẻ làm trai đứng trong vũ hụ là một việc làm chứng tỏ chí khí của mình (chữ lở có nghĩa là: phá thạch). ‘Xách búa đánh tan năm bảy đống‘. Dù gặp những trở ngại, chông gai cũng quyết vượt qua, với ý chí quả quyết tiến đến thành công: ‘Ra tay đập bể mấy trăm hòn‘. ‘Đập đá‘ đã chứng tỏ được hành động mạnh bạo của cụ trong việc san bằng những trở ngại, để tiến hành những công việc. Những danh từ cụ thể ‘năm bảy đống’, ‘mấy trăm hòn’ đã tượng trưng một cách rõ rệt những trở lực: ‘Tháng ngày bao quản thân sành sỏi’. Năm, tháng trôi qua, gian khổ, đem thân ra để đền nợ nước, cứu giúp đồng bào, cụ vẫn xem thường. Thân thể dù phải tiêu hao, vẫn rắn chắc như mảnh sành và hòn sỏi qua thử thách của thời gian: ‘Mưa nắng chi sờn dạ sắt son‘ Trải bao sương tuyết, dày dạn với nắng mưa, cụ vẫn bền lòng, chắc dạ. Chí khí anh hùng càng toả rạng. ‘Thất bại là mẹ của thành công’, cụ quyết mưu chí kiên nhẫn để đợi thời cơ: ‘Những kẻ vá trời khi lỡ bước‘ ‘Đội đá vá trời’ là một việc làm quá với sức người, dù có thất bại cũng là sự thường. Người anh hùng nuôi chí lớn, trước sự thất bại, cụ chỉ xem đó là một phút lỡ đường: ‘Gian nan nào sá sự con con…‘ Tranh đấu vì dân, vì nước, cuộc đời dù có phải ra sao cũng không quản ngại, đối với việc đày đoạ thân thể cực nhọc về thể xác trong việc đập đá cụ có xem ra gì đâu. Việc cứu dân cứu nước kia mới đáng kể. Công việc đập đá là một hình phạt nặng nhọc của tù nhân ở Côn Đảo đã được cụ lồng vào một khung cảnh hùng vĩ và sinh động. Dưới ngòi bút của thi nhân, việc đập đá tầm thường đã được thi vị hoá, từ địa vị một tù nhân khổ sai, cụ nghiễm nhiên là một bậc anh hùng đem tài sức ra ‘khai sơn, phá thạch’, ‘đập đá vá trời’ Việc đập đá biến thành một công việc vô cùng to tát, cao quý: Cứu nước, cứu dân. Bài thơ trên thuộc thể thất ngôn bát cú, theo Đường luật, gieo vần lưng, những chữ cùng vần là: non, hòn, son, con. Về bút pháp, bài ‘Đập đá ở Côn Lôn’ có một sắc thái sinh động, lời văn rất hùng hồn, cương quyết. Những tiếng ‘đánh tan’, ‘đập bể’ cho ta thấy chí khí hào hùng và hiên ngang của cụ. Những trở ngại được tượng trưng bằng ‘năm bảy đống’, ‘mấy trảm hòn’ rất cụ thể. Những tính từ ‘sành sỏi’ ‘sắt son’ nói về đức tính của kẻ anh hùng, nhưng vẫn liên kết với ý trên là hòn đá, cho ta thấy dù trong cảnh khổ cụ vẫn bền lòng. Về phép đối ngẫu, hai câu thực trong bài thơ trên đối rất chỉnh về lời. Trong câu luận phần đối chỉnh nhất là ‘thân sành sỏi’ ‘dạ sắt son’ – Xuất sắc nhất là trong 8 câu thơ, tác giả không để câu nào lọt ra ngoài ý đập đá, văn tứ do đó rất có hệ thống – vần gieo rất già dặn, ‘non’ với ‘hòn’ với ‘con’, tuy chữ dùng cùng một vần nhưng đọc lên ta thấy những âm điệu trong bài thơ rất uyển chuyển. Qua bài thơ ‘Đập đá ở Côn Lôn’, chí hướng của cụ Phan càng tỏ rõ hơn trong việc tranh đấu để giải phóng quê hương, đòi lại chủ quyền cho Tổ quốc. Trong cảnh đoạ đầy, tù tội, tấm lòng sắt đá không hề lay chuyển. Con đường đã vạch sấn, dù cho chông gai, nguy hiểm, cụ vẫn vượt qua: 'Xách búa đánh tan năm bảy đống Ra tay đập bể mấy trăm hòn’. Tài ‘khai sơn phá thạch’, chí khí anh hùng tuy bị dồn ép vào khoảng đất Côn Lôn, nhưng cụ đã thức tỉnh được một số người đang đắm mình trong vòng cương toả, mải chạy theo công danh, phú quý, quên cả nước non. Cảnh gông cùm, xiềng xích là cơ hội để cho cụ tĩnh tâm mài lưỡi gươm chí khí, nung nâu thêm tấm lòng ái quốc làm sáng tỏ tài chọc trời khuấy nước: ‘Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn Lừng lẫy làm cho lở núi non’… Vì tội yêu nước, cụ bị giam cầm, hành hạ đủ điều, làm tù nhân khổ sai, đập đá. Cụ cho đó là một thử thách mà người anh hùng phải chịu trong cơn quốc biến để trải mật phơi gan cùng tuế nguyệt: ‘Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng chi sờn dạ sắt son‘. Chí hướng đã định, sự nghiệp cách mạng dù phải tạm bế tắc trong chốn lao tù, chưa phải là bước đường cùng. Lòng tin tưởng vô biên ở ngày mai huy hoàng của đất nước gợi cho cụ một niềm hứng khởi, cụ quên hẳn cảnh gian nan hiện tại. Kẻ ‘vá trời’ ‘lấp biển’ trong cơn lỡ bước, bị lưu đầy thường: ‘Những kẻ vá trời nay lỡ bước, Gian nan nào sá sự con con’. Trước bạo lực của cường quyền, trước những sự khủng bố tinh thần của thực dân dưới mọi hình thức, ta thấy cụ Phan không nao núng. Chí khí luôn luôn hướng về việc cứu dân, cứu nước không vì tư lợi cá nhân, cụ đã gây được một uy tín lớn lao với dân quốc. Do đó, chí hướng của cụ là chí hướng của một nhà cách mạng chân chính. Dù nay đã thành người thiên cổ, cụ Phan Châu Trinh đã lưu lại danh thơm muôn thuở. Gian nan chẳng kể, thân thế không màng, với một bầu nhiệt huyết, cụ tranh đấu để đưa Tổ quốc đến vinh quang. Nhắc đến người xưa, ngâm lại vần thơ cũ, ta cảm thấy anh linh cụ như còn phảng phất đâu đây để vui mừng xem hậu thế tiến mạnh trên đường phục hưng xứ sở. Để kết luận, ta mượn những vần thơ của cụ Sào Nam đã tưởng niệm nhà cách mạng quá cố của dân tộc. ‘Chết như Hưng Đạo hồn thành thánh, Chết tựa Trưng Vương phách hoá thần. Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết, Chết mà vì nước, chết vì dân'. Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 2 Tương tự như bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu, bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Bài thơ đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong chốn tù đày. Nhan đề bài thơ gợi lên cảnh lao động khổ sai của tác giả và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp bắt giam và đày đọa ở Côn Đảo. Sau sự kiện chông thuế ở Trung Kì, năm 1908, Phan Châu Trinh và một số chiến sĩ bị thực dân Pháp bắt giam và đày ra Côn Đảo với án khổ sai chung thân. Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non. Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Bốn câu thơ đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc đứng giữa đất Côn Lôn, bị tù đày khổ sai là một thách thức nhưng không phải là thấp hèn mà là lừng lẫy, không những thế còn lừng lẫy làm cho lở núi non. Hai từ đứng giữa biểu thị một tư thế hiên ngang, bất khuất trước quân thù. Câu thơ thứ hai thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh đày đọa của quân thù. Các động từ đánh tan, đập bể vừa tả thực sức mạnh đập đá, vừa thể hiện một quyết tâm, một ý chí căm thù giặc. Đó là quyết tâm phá tan cảnh ngục tù, lật đổ ách thống trị của bọn thực dân tàn bạo. Câu thứ ba và thứ tư đối nhau làm cho lời thơ thêm mạnh mẽ, các số từ trong câu đã tạo nên vẻ đa nghĩa cho bài thơ: Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Hai câu năm và sáu đối nhau rất chỉnh. Tác giả lấy thời gian bị giam cầm (tháng ngày) đối với gian truân, thử thách (mưa nắng), lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần sắt thép (dạ sắt son). Nghệ thuật đối làm hiện lên hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp. Thân sành sỏi và dạ sắt son là hai hình ảnh ẩn dụ thể hiện một cách hàm súc và hình tượng phẩm chất cao quý của tác giả: Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng càng bền dạ sắt son. Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con! Các từ bao quản và chi sờn biểu thị một thái độ chấp nhận đương đầu vứi khó khăn thử thách, thái độ thách thức với cảnh ngục tù của quân thù. Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đồ đại sự (vá trời) mà không thành (lỡ bước). Hình ảnh những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang đã được khắc họa một cách thú vị. Chuyện tù đày được xem là con con, không đáng kể. Hai câu cuối toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của người chí sĩ yêu nước: Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con! Đập đá ở Côn Lòn là bài thơ tiêu biểu cho thơ ca viết trong ngục tù của các chiến sĩ yêu nước đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng; ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị, vừa cổ kính sang trọng. Tác giả đã lấy thơ để giãi bày cái tâm, cái chí của mình. Sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với sự nghiệp cứu nước, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày. Đó chính là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện qua bài thơ Đập đá ở Côn Lôn. Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 3 Phan Châu Trinh (1872-1926) là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập niên đầu thế kỉ XX. Ông còn để lại nhiều thơ văn thấm đượm tinh thần dân chủ và chứa chan tình yêu nước. Bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính hàm nghĩa sâu sắc: "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non. Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng chi sờn dạ sắt son. Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con". Nhan đề bài thơ là "Đập đá ở Côn Lôn”, nói về cảnh lao động khổ sai của nhà thơ và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp đày đọa tại nhà tù Côn Đảo. Năm 1908, sau vụ chống sưu thuế nổ ra ở Trung Kì, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giam và đày ra Côn Đảo với cái án khổ sai chung thân. 1. Bốn câu đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc "đứng giữa đất Côn Lôn", bị tù đày khổ sai là một thách thức nặng nề nhưng chẳng hề nao núng, vản "lừng lẫy làm cho lở núi non". Hai từ "đứng giữa" biểu thị một tư thế hiên ngang, một tâm thế bất khuất trước uy vũ quân thù. Câu thơ thứ hai, nhất là cụm từ "làm cho lở núi non" thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh ngộ bị quân thù đày đọa. Các vị ngữ: "đánh tan" và "đập bể" vừa tả thực sức mạnh đập đá "năm bảy đống" và "mấy trăm hòn", đồng thời ngụ ý một quyết tâm, một ý chí căm thù phá tan chốn ngục tù, lật đổ ách thống trị thực dân tàn bạo. Phép đối, cách dùng số từ, hàm súc, đa nghĩa làm nên giá trị nghệ thuật ở phần thực bài thơ: "Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn" 2. Hai câu 5, 6 đối nhau rất chỉnh. Lấy thời gian bị cầm tù (thúng ngày) đối với gian truân thử thách (mưa nắng) lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần cứng cỏi trung kiên (dạ sắt son). Tất cả đã làm hiện lên hình ảnh một chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp. 'Thân sành sỏi" và "dạ sắt son" là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên một cách hàm súc và hình tượng phấm chất cách mạng của nhà thơ: 'Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng chi sờn dạ sắt son" Các từ ngữ: "bao quản" và "chi sờn" biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận, một quyết tâm dám thách thức với bạo lực quân thù. Tinh thần ấy, ta bắt gặp nhiều trong "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh hơn 30 năm sau: "Kiên trì và nhẫn nại, Không chịu lùi một phân; Vật chất tuy đau khổ, Không nao núng ti-nh thần" (Bốn tháng rồi) 3. Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đổ đại sự (vá trời) mà khổng thành (lỡ bước). Đó là những anh hùng thất thế mà vản hiên ngang, coi chuyện tù đày, gian nan chỉ là "việc con con" không đáng kể, không đáng nói. Câu kết toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của nhà chiến sĩ: "Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con." "Đập đá ở Côn Lỏn" tiêu biểu cho thơ ca viết trong nhà tù thực dân của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng. Ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị vừa cổ kính trang trọng. Người xưa thường lấy thơ để dãi bày cái tâm, để nói lên cái chí. Sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với dân tộc, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày, đó là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện trong bài thơ "Đập đá ở Côn Lỏn" này. Cúi tâm, cái chí của nhà cách mạng tiền bối Phan Châu Trinh là bài học lớn cho chúng ta ngưỡng mộ và noi theo. Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 4 Những năm đầu thế kỉ XX, cùng với Phan Bội Châu, tên tuổi Phan Châu Trinh trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, đồng bào cả nước đều ngưỡng mộ ông. Hình ảnh Phan Tây Hồ, nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, khảng khái sống mãi với non sông, đất nước và trong tâm tưởng của nhân dân Việt Nam. Đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn ta càng hiểu thêm phẩm chất cách mạng sáng ngời của Cụ: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non. Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng chi sờn dụ sắt son. Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con! Năm 1908 Phan Châu Trinh bị bắt, triều đình Huế đã khép tội cầm đầu phong trào chống thuế ở Trung Kì và đày đi Côn Lôn. Côn Lôn! Cái địa danh gợi lên trong trí tưởng tượng của những người Việt Nam một sự chết chóc, rùng rợn. Giữa bốn bề biển cả mênh mông, cái “địa ngục trần gian” này là nơi giam cầm, đoạ đày đã man những người yêu nước và đã có biết bao người con ưu tú của dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây. Bị đày đến địa ngục, Phan tự xác định: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn Trong tư thế “đứng” ấy của nhà chí sĩ cách mạng vừa biểu thị một thái độ ngang tàng bất khuất vừa chủ động tự tin – Giữa trời biển bao la, trước cảnh ngục là tàn bạo của kẻ thù, dáng đứng của Phan thật vững vàng như một tượng đài hiên ngang. Ông không còn là một người tù bị đi đày nữa mà là một con người của tự do. Chí “làm trai” của người quân tử có phen được bộc lộ và thử thách. Đúng là một thử thách rất khắc nghiệt, người tù ngày ngày phải lao động khổ sai. Việc đập đá rất cực nhọc đối với Phan, một nhà nho chân yếu tay mềm chỉ quen với bút nghiên, đèn sách không quen với công việc nặng nhọc. Bị cực hình về thể xác nhưng tinh thần vẫn vững vàng: Lừng lẫy làm cho lở núi non. Đây không còn là chuyện người tù đập đá nữa mà còn bao hàm một ý nghĩ rộng lớn về chí khí hào hùng lẫm liệt của kẻ “làm trai” có chí lớn quyết xoay chuyển lại thời cuộc, nước non. Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. “Xách búa”, “ra tay” thể hiện tư thế chủ động; “đánh tan”, “đập bể” động từ chỉ hành động dứt khoát, mạnh mẽ, khoáng đạt. Nhà chí sĩ đang hình dung như dồn tất cả nghị lực và lòng căm thù vào cánh tay để “đập bể”, “đánh tan” cái dinh luỹ của chế độ thực dân phong kiến thối nát. Ba năm trời đằng đẵng Phan làm thân tù tội, chịu đựng biết bao đoạ đày “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù, nghìn năm ở ngoài). Nhưng thời gian (tháng ngày), gian nan (mưa nắng) cũng là hoàn cảnh để rèn luyện khí tiết người cách mạng. Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng chi sờn dạ sắt son. “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, nhà tù đế quốc là trường hợp để tôi rèn thử thách. Phan Bội Châu trong nhà ngục Quảng Đông “vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu”, Hồ Chí Minh trong nhà lao Tưởng Giới Thạch vẫn Tự khuyên mình Nghĩ mình trong bước gian truân Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng. (Nhật kí trong tù) Những thử thách khốc liệt của lao lù làm cho Phan Châu Trinh thêm rắn rỏi, dạn dày, lòng dạ càng thêm sáng ngời “sắt son” một niềm tin mãnh liệt ở sự nghiệp cứu dấn, cứu nước. Bài thơ kết thúc bằng một lời khẳng định mạnh mẽ đầy tự tin: Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con! Phan tự ví mình là kẻ “vá trời”, lấp biển, mưu đồ sự nghiệp lớn lao. Người anh hùng có chí lớn, tin ở tài năng và nghị lực của mình nhưng chẳng may bị sa cơ, “lỡ bước”! Bị “lỡ bước” trên con đường tranh đấu đầy chông gai hiểm nạn là lẽ tất yếu, thường tình đối với ông. Người cách mạng sẵn sàng chấp nhận tù đày, xiềng gông kể cả việc phải hi sinh tính mạng. Nói chuyện tù tội, chết chóc mà lời thơ cứ tự nhiên, nhẹ nhàng: Gian nan chi kể việc con con! Ông xem đó chỉ là việc “con con”, không đáng kể, thái độ tư thế của nhà chí sĩ đĩnh đạc, ung dung lạ thường, ở đây ta lại bắt gặp sự đồng điệu rất lí thú trong tư thế của hai chí sĩ họ Phan: Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu. (Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu) Kẻ thù dùng bạo lực, cực hình đày đọa để tiêu diệt lòng yêu nước, nhưng chúng đã lầm, sức mạnh tinh thần của những người yêu nước vô địch. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn có giọng điệu hào hùng, sảng khoái của con người coi thường gian nguy, xem khinh kẻ địch. Đó là tư thế của những người chiến thắng, “đứng trên đầu thù”. Phan Châu Trinh nhà yêu nước vĩ đại, người chiến sĩ bất khuất hiên ngang đã đi vào lịch sử của dân tộc. Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 5 Phan Châu Trinh là một trong những chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn làm trong thời gian ông bị đày ở đảo Côn Lôn thể hiện khí phách quật cường, một bản lĩnh ngang tầm với dũng sĩ thần thoại. Nhà tù thực dân Côn Đảo là một địa ngục trần gian. Bọn thực dân dùng nơi này để đày đọa những con người yêu nước ưu tú hòng làm nhụt chí khí đấu tranh của họ. Trong đó, đập đá là một trong những công việc cực nhọc mà người đi đày phải làm. Phan Chu Trinh cũng ở trong số tù khổ sai ấy. Nhưng giữa nắng gió biển khơi khắc nghiệt, người tù Phan Chu Trinh đã dựng lên cả một tượng đài bằng thơ thể hiện một vẻ đẹp lẫm liệt, phong thái cứng cỏi ngang tàng của người anh hùng cứu nước. Bốn câu thơ đầu tác giả miêu tả cảnh tượng đập đá của người tù và cũng bằng những hình ảnh ấy mà khắc họa dáng vóc phi thường của người anh hùng đấng nam nhi: "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn" Câu mở đầu, tác giả phác ra bối cảnh không gian, gợi mở âm hưởng hùng tráng bằng tư thế hiên ngang, sừng sững của phận "làm trai" đầu đội trời, chân đạp đất kiêu hùng. Dân gian từng có câu: "Làm trai cho đáng nên trai". Nguyễn Công Trứ thì viết: "Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông; Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể". Phan Bội Châu cũng đề cao chí hướng làm trai: " Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời"… Điều đó cho thấy quan niệm về chí trai, làm trai có mạch nguồn trong quan niệm nhân sinh truyền thông. Trong câu thơ của Phan Chu Trinh quan niệm ấy được khẳng định trong một bối cảnh cụ thể: "… đứng giữa đất Côn Lôn" là "đứng giữa" biển – trời – đất, thật kiêu hãnh, đường hoàng, đúng là tư thế của người làm chủ giang sơn. Ba câu thơ tiếp theo, qua những hình ảnh chân thực diễn tả công việc nặng nhọc (khai thác đá) tác giả đã khắc họa thành những hình ảnh biểu trưng cho tầm vóc sức mạnh dời non lấp bể, kinh thiên động địa của nhân vật trữ tình. Những hành động mạnh mẽ cho phép ta hình dung ra hình ảnh người dũng sĩ với sức vóc thần kỳ đang xung trận: "xách búa", "ra tay"; và "lừng lẫy" những chiến công "lở núi non", "đánh tan năm bảy đống", “đập bể mấy trăm hòn". Những từ ngữ cực tả sức mạnh dũng mãnh đã làm nổi bật hình tượng con người trong tư thế ngạo nghễ, lớn ngang tầm vũ trụ. Giữa không gian biển trời bao la sừng sững một tượng đài kết bằng những hình khối phi thường. Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng: Tháng ngày bao quản thông sành sỏi, Mưa nắng càng bền dạ sắt son. Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con! "Thân sành sỏi", "dạ sắt son" sẽ bền bỉ trụ lại được cùng "tháng ngày", mưa nắng". Thế đối lập ở câu 5-6 thể hiện sự kiên tâm, vững trí của nhà cách mạng dù trong bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng thủy chung, son sắt "mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen" (Nguyễn Trãi) kia cũng là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất đã được khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vững vàng đến “trơ gan cùng tuế nguyệt", đến ngạo nghễ đã là đạo sống, phẩm cách của người chiến sĩ chẳng tiếc thân mình cho sự nghiệp chung. Phan Chu Trinh xuất thân nho học, ở những vần thơ này ta thấy bản lĩnh của nhà nho đã hòa thấm thuần thục với tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng. Trong bối cảnh đầy những gian nan, thử thách hồi đầu thế kỷ XX người chiến sĩ dám dấn thân vì giang sơn xã tắc cũng phải là những con người bất chấp hy sinh, nguy khó, biết quên thân mình. Có khi còn phải biết gồng mình lên, chiến thắng hoàn cảnh bằng ý chí. Cảm hứng lãng mạn hào hùng tiếp tục được đẩy lên đỉnh điểm ở hai câu thơ kết với hình ảnh thơ mang đậm chất sử thi. Hai chữ "vá trời" lấy từ tích Nữ Oa vá trời. Tầm vóc, sức mạnh ở đây đã được thi vị hóa đến mức thần kỳ, giống như bà Nữ Oa trong truyền thuyết đội đá vá trời. Hình ảnh "những kẻ vá trời" vừa thực vừa bay bổng, khoa trương. Thực ở mức liên hệ với hình ảnh những người tù lao động khổ sai đập đá, làm lở núi non đã được miêu tả ở 4 câu thơ đầu. Bay bổng, khoa trương ở lối ví với nhân vật trong thần tích. Hai câu thơ cuối này gợi tả sự đối lập giữa cái lớn lao, kỳ vĩ (vá trời) với thực tế gian nan chỉ là "việc con con". Sự đối lập ấy là kết quả của một ý chí sắt đá, niềm tin lớn vào sự nghiệp chính nghĩa, kẻ vá trời bằng sức mạnh đội đá vá trời có thể đè bẹp mọi trở ngại gian nan. Thực tế thì những khó khăn tác giả đang phải đương đầu không "con con" chút nào nhưng chỉ có bằng cách ấy, bằng ý chí quật cường tích tụ từ nguồn mạch dân tộc người chiến sĩ mới có thể tiếp tục được con đường dằng dặc chông gai trước mắt. Đó cũng là một cuộc chiến thắng chính mình. Đập đá ở Côn Lôn và Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông là hai bài thơ của hai nhà nho yêu nước tiêu biểu trong phong trào cách mạng những năm đầu thế kỷ XX. Qua đó chúng ta nhận ra cái mạch chảy dào dạt của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Rồi đây cái mạch nguồn ấy lại bừng lên thành những đợt sóng mãnh liệt và thể hiện trong văn học kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Văn mẫu lớp 8Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Giải thích và chứng minh câu tục ngữ “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về lễ hội – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về món bánh xèo – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về cây lúa – Văn mẫu lớp 8“Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang không hay không, dân tộc …” – Văn mẫu lớp 8Giải thích câu nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng. …” – Văn mẫu lớp 8Phân tích bài Bài toán dân số – Văn mẫu lớp 8Giải thích và chứng minh câu ca dao “Nhiễu điều phủ lấy giá gương …” – Văn mẫu lớp 8

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 1

Sau khi gửi cho Toàn quyền Pháp một bức thư dài gần 12 trang (1906) đả kích chính sách cai trị của thực dân, chỉ trích sự tham nhũng và bất lực của quan lại Nam triều, đòi chính phủ bảo hộ phải cải cách guồng máy chính trị, thanh trừng ‘tệ lậu’ – Nhân việc phản kháng thuế ở Quảng Nam năm 1908, cụ bị bắt về tội ‘xúi dân làm loạn’ – bị toà án Nam triều kết án trảm quyết – nhưng nhờ Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, cụ được giảm án và bị đày đi Côn Đảo. Bài thơ ‘Đập đá ở Côn Lôn’ cụ viết trong lúc bị lưu đày và phải đi đập đá.

Tác giả đã mượn điển tích bà Nữ Oa, em gái vua Phục Hy rèn đá ngũ sắc để vá trời, nói lên sứ mạng giải phóng dân tộc, một việc làm quá sức mình.

Ta thử phân tích bài thơ trên để tìm hiểu chí hướng của tác giả:

‘Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn’

Thân dù bị lưu đày, cụ chẳng phải hạng tù tầm thường mà là người quân tử đứng nơi trung chính trong thiên hạ (sách Mạnh Tử nói: Lập thiên hạ chí tử chính vị). Non nước Côn Lôn còn tượng trưng cho chí hiên ngang của bậc anh hùng giữa vùng núi cao, bể rộng:

‘Lừng lẫy làm cho lở núi non’

Đất anh hùng bổn phận mình phải ra tay xẻ núi lấp sông. Cụ cho việc ‘Khai sơn, phá thạch’ của kẻ làm trai đứng trong vũ hụ là một việc làm chứng tỏ chí khí của mình (chữ lở có nghĩa là: phá thạch).

‘Xách búa đánh tan năm bảy đống‘.

Dù gặp những trở ngại, chông gai cũng quyết vượt qua, với ý chí quả quyết tiến đến thành công:

‘Ra tay đập bể mấy trăm hòn‘.

‘Đập đá‘ đã chứng tỏ được hành động mạnh bạo của cụ trong việc san bằng những trở ngại, để tiến hành những công việc. Những danh từ cụ thể ‘năm bảy đống’, ‘mấy trăm hòn’ đã tượng trưng một cách rõ rệt những trở lực:

‘Tháng ngày bao quản thân sành sỏi’.

Năm, tháng trôi qua, gian khổ, đem thân ra để đền nợ nước, cứu giúp đồng bào, cụ vẫn xem thường. Thân thể dù phải tiêu hao, vẫn rắn chắc như mảnh sành và hòn sỏi qua thử thách của thời gian:

‘Mưa nắng chi sờn dạ sắt son‘

Trải bao sương tuyết, dày dạn với nắng mưa, cụ vẫn bền lòng, chắc dạ. Chí khí anh hùng càng toả rạng. ‘Thất bại là mẹ của thành công’, cụ quyết mưu chí kiên nhẫn để đợi thời cơ:

‘Những kẻ vá trời khi lỡ bước‘

‘Đội đá vá trời’ là một việc làm quá với sức người, dù có thất bại cũng là sự thường. Người anh hùng nuôi chí lớn, trước sự thất bại, cụ chỉ xem đó là một phút lỡ đường:

‘Gian nan nào sá sự con con…‘

Tranh đấu vì dân, vì nước, cuộc đời dù có phải ra sao cũng không quản ngại, đối với việc đày đoạ thân thể cực nhọc về thể xác trong việc đập đá cụ có xem ra gì đâu. Việc cứu dân cứu nước kia mới đáng kể.

Công việc đập đá là một hình phạt nặng nhọc của tù nhân ở Côn Đảo đã được cụ lồng vào một khung cảnh hùng vĩ và sinh động. Dưới ngòi bút của thi nhân, việc đập đá tầm thường đã được thi vị hoá, từ địa vị một tù nhân khổ sai, cụ nghiễm nhiên là một bậc anh hùng đem tài sức ra ‘khai sơn, phá thạch’, ‘đập đá vá trời’ Việc đập đá biến thành một công việc vô cùng to tát, cao quý: Cứu nước, cứu dân.

Bài thơ trên thuộc thể thất ngôn bát cú, theo Đường luật, gieo vần lưng, những chữ cùng vần là: non, hòn, son, con.

Về bút pháp, bài ‘Đập đá ở Côn Lôn’ có một sắc thái sinh động, lời văn rất hùng hồn, cương quyết. Những tiếng ‘đánh tan’, ‘đập bể’ cho ta thấy chí khí hào hùng và hiên ngang của cụ. Những trở ngại được tượng trưng bằng ‘năm bảy đống’, ‘mấy trảm hòn’ rất cụ thể. Những tính từ ‘sành sỏi’ ‘sắt son’ nói về đức tính của kẻ anh hùng, nhưng vẫn liên kết với ý trên là hòn đá, cho ta thấy dù trong cảnh khổ cụ vẫn bền lòng.

Về phép đối ngẫu, hai câu thực trong bài thơ trên đối rất chỉnh về lời. Trong câu luận phần đối chỉnh nhất là ‘thân sành sỏi’ ‘dạ sắt son’ – Xuất sắc nhất là trong 8 câu thơ, tác giả không để câu nào lọt ra ngoài ý đập đá, văn tứ do đó rất có hệ thống – vần gieo rất già dặn, ‘non’ với ‘hòn’ với ‘con’, tuy chữ dùng cùng một vần nhưng đọc lên ta thấy những âm điệu trong bài thơ rất uyển chuyển.

Qua bài thơ ‘Đập đá ở Côn Lôn’, chí hướng của cụ Phan càng tỏ rõ hơn trong  việc tranh đấu để giải phóng quê hương, đòi lại chủ quyền cho Tổ quốc. Trong cảnh đoạ đầy, tù tội, tấm lòng sắt đá không hề lay chuyển. Con đường đã vạch sấn, dù cho chông gai, nguy hiểm, cụ vẫn vượt qua:

'Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn’.

Tài ‘khai sơn phá thạch’, chí khí anh hùng tuy bị dồn ép vào khoảng đất Côn Lôn, nhưng cụ đã thức tỉnh được một số người đang đắm mình trong vòng cương toả, mải chạy theo công danh, phú quý, quên cả nước non. Cảnh gông cùm, xiềng xích là cơ hội để cho cụ tĩnh tâm mài lưỡi gươm chí khí, nung nâu thêm tấm lòng ái quốc làm sáng tỏ tài chọc trời khuấy nước:

‘Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn Lừng lẫy làm cho lở núi non’…

Vì tội yêu nước, cụ bị giam cầm, hành hạ đủ điều, làm tù nhân khổ sai, đập đá. Cụ cho đó là một thử thách mà người anh hùng phải chịu trong cơn quốc biến để trải mật phơi gan cùng tuế nguyệt:

‘Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son‘.

Chí hướng đã định, sự nghiệp cách mạng dù phải tạm bế tắc trong chốn lao tù, chưa phải là bước đường cùng. Lòng tin tưởng vô biên ở ngày mai huy hoàng của đất nước gợi cho cụ một niềm hứng khởi, cụ quên hẳn cảnh gian nan hiện tại. Kẻ ‘vá trời’ ‘lấp biển’ trong cơn lỡ bước, bị lưu đầy thường:

‘Những kẻ vá trời nay lỡ bước,

Gian nan nào sá sự con con’.

Trước bạo lực của cường quyền, trước những sự khủng bố tinh thần của thực dân dưới mọi hình thức, ta thấy cụ Phan không nao núng. Chí khí luôn luôn hướng về việc cứu dân, cứu nước không vì tư lợi cá nhân, cụ đã gây được một uy tín lớn lao với dân quốc. Do đó, chí hướng của cụ là chí hướng của một nhà cách mạng chân chính.

Dù nay đã thành người thiên cổ, cụ Phan Châu Trinh đã lưu lại danh thơm muôn thuở. Gian nan chẳng kể, thân thế không màng, với một bầu nhiệt huyết, cụ tranh đấu để đưa Tổ quốc đến vinh quang. Nhắc đến người xưa, ngâm lại vần thơ cũ, ta cảm thấy anh linh cụ như còn phảng phất đâu đây để vui mừng xem hậu thế tiến mạnh trên đường phục hưng xứ sở. Để kết luận, ta mượn những vần thơ của cụ Sào Nam đã tưởng niệm nhà cách mạng quá cố của dân tộc.

‘Chết như Hưng Đạo hồn thành thánh,

Chết tựa Trưng Vương phách hoá thần.

Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,

Chết mà vì nước, chết vì dân'.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 2

Tương tự như bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu, bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Bài thơ đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong chốn tù đày.

Nhan đề bài thơ gợi lên cảnh lao động khổ sai của tác giả và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp bắt giam và đày đọa ở Côn Đảo. Sau sự kiện chông thuế ở Trung Kì, năm 1908, Phan Châu Trinh và một số chiến sĩ bị thực dân Pháp bắt giam và đày ra Côn Đảo với án khổ sai chung thân.

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Bốn câu thơ đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc đứng giữa đất Côn Lôn, bị tù đày khổ sai là một thách thức nhưng không phải là thấp hèn mà là lừng lẫy, không những thế còn lừng lẫy làm cho lở núi non.

Hai từ đứng giữa biểu thị một tư thế hiên ngang, bất khuất trước quân thù. Câu thơ thứ hai thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh đày đọa của quân thù. Các động từ đánh tan, đập bể vừa tả thực sức mạnh đập đá, vừa thể hiện một quyết tâm, một ý chí căm thù giặc. Đó là quyết tâm phá tan cảnh ngục tù, lật đổ ách thống trị của bọn thực dân tàn bạo. Câu thứ ba và thứ tư đối nhau làm cho lời thơ thêm mạnh mẽ, các số từ trong câu đã tạo nên vẻ đa nghĩa cho bài thơ:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Hai câu năm và sáu đối nhau rất chỉnh. Tác giả lấy thời gian bị giam cầm (tháng ngày) đối với gian truân, thử thách (mưa nắng), lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần sắt thép (dạ sắt son). Nghệ thuật đối làm hiện lên hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp.

Thân sành sỏi và dạ sắt son là hai hình ảnh ẩn dụ thể hiện một cách hàm súc và hình tượng phẩm chất cao quý của tác giả:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!

Các từ bao quản và chi sờn biểu thị một thái độ chấp nhận đương đầu vứi khó khăn thử thách, thái độ thách thức với cảnh ngục tù của quân thù. Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đồ đại sự (vá trời) mà không thành (lỡ bước). Hình ảnh những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang đã được khắc họa một cách thú vị. Chuyện tù đày được xem là con con, không đáng kể. Hai câu cuối toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của người chí sĩ yêu nước:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước, 
Gian nan chi kể việc con con!

Đập đá ở Côn Lòn là bài thơ tiêu biểu cho thơ ca viết trong ngục tù của các chiến sĩ yêu nước đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng; ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị, vừa cổ kính sang trọng. Tác giả đã lấy thơ để giãi bày cái tâm, cái chí của mình. Sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với sự nghiệp cứu nước, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày. Đó chính là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện qua bài thơ Đập đá ở Côn Lôn.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 3

Phan Châu Trinh (1872-1926) là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập niên đầu thế kỉ XX. Ông còn để lại nhiều thơ văn thấm đượm tinh thần dân chủ và chứa chan tình yêu nước. Bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính hàm nghĩa sâu sắc:

"Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con".

Nhan đề bài thơ là "Đập đá ở Côn Lôn”, nói về cảnh lao động khổ sai của nhà thơ và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp đày đọa tại nhà tù Côn Đảo. Năm 1908, sau vụ chống sưu thuế nổ ra ở Trung Kì, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giam và đày ra Côn Đảo với cái án khổ sai chung thân.

1. Bốn câu đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc "đứng giữa đất Côn Lôn", bị tù đày khổ sai là một thách thức nặng nề nhưng chẳng hề nao núng, vản "lừng lẫy làm cho lở núi non". Hai từ "đứng giữa" biểu thị một tư thế hiên ngang, một tâm thế bất khuất trước uy vũ quân thù. Câu thơ thứ hai, nhất là cụm từ "làm cho lở núi non" thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh ngộ bị quân thù đày đọa.

Các vị ngữ: "đánh tan" và "đập bể" vừa tả thực sức mạnh đập đá "năm bảy đống" và "mấy trăm hòn", đồng thời ngụ ý một quyết tâm, một ý chí căm thù phá tan chốn ngục tù, lật đổ ách thống trị thực dân tàn bạo. Phép đối, cách dùng số từ, hàm súc, đa nghĩa làm nên giá trị nghệ thuật ở phần thực bài thơ:

"Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn"

2. Hai câu 5, 6 đối nhau rất chỉnh. Lấy thời gian bị cầm tù (thúng ngày) đối với gian truân thử thách (mưa nắng) lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần cứng cỏi trung kiên (dạ sắt son). Tất cả đã làm hiện lên hình ảnh một chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp. 'Thân sành sỏi" và "dạ sắt son" là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên một cách hàm súc và hình tượng phấm chất cách mạng của nhà thơ:

'Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son"

Các từ ngữ: "bao quản" và "chi sờn" biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận, một quyết tâm dám thách thức với bạo lực quân thù. Tinh thần ấy, ta bắt gặp nhiều trong "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh hơn 30 năm sau:

"Kiên trì và nhẫn nại,

Không chịu lùi một phân;

Vật chất tuy đau khổ,

Không nao núng ti-nh thần"

(Bốn tháng rồi)

3. Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đổ đại sự (vá trời) mà khổng thành (lỡ bước). Đó là những anh hùng thất thế mà vản hiên ngang, coi chuyện tù đày, gian nan chỉ là "việc con con" không đáng kể, không đáng nói. Câu kết toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của nhà chiến sĩ:

"Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con."

"Đập đá ở Côn Lỏn" tiêu biểu cho thơ ca viết trong nhà tù thực dân của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng.

Ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị vừa cổ kính trang trọng. Người xưa thường lấy thơ để dãi bày cái tâm, để nói lên cái chí. Sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với dân tộc, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày, đó là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện trong bài thơ "Đập đá ở Côn Lỏn" này. Cúi tâm, cái chí của nhà cách mạng tiền bối Phan Châu Trinh là bài học lớn cho chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 4

Những năm đầu thế kỉ XX, cùng với Phan Bội Châu, tên tuổi Phan Châu Trinh trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, đồng bào cả nước đều ngưỡng mộ ông. Hình ảnh Phan Tây Hồ, nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, khảng khái sống mãi với non sông, đất nước và trong tâm tưởng của nhân dân Việt Nam. Đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn ta càng hiểu thêm phẩm chất cách mạng sáng ngời của Cụ:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dụ sắt son.

Những kẻ vá trời khi  lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Năm 1908 Phan Châu Trinh bị bắt, triều đình Huế đã khép tội cầm đầu phong trào chống thuế ở Trung Kì và đày đi Côn Lôn. Côn Lôn! Cái địa danh gợi lên trong trí tưởng tượng của những người Việt Nam một sự chết chóc, rùng rợn. Giữa bốn bề biển cả mênh mông, cái “địa ngục trần gian” này là nơi giam cầm, đoạ đày đã man những người yêu nước và đã có biết bao người con ưu tú của dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây. Bị đày đến địa ngục, Phan tự xác định:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

Trong tư thế “đứng” ấy của nhà chí sĩ cách mạng vừa biểu thị một thái độ ngang tàng bất khuất vừa chủ động tự tin – Giữa trời biển bao la, trước cảnh ngục là tàn bạo của kẻ thù, dáng đứng của Phan thật vững vàng như một tượng đài hiên ngang. Ông không còn là một người tù bị đi đày nữa mà là một con người của tự do. Chí “làm trai” của người quân tử có phen được bộc lộ và thử thách.

Đúng là một thử thách rất khắc nghiệt, người tù ngày ngày phải lao động khổ sai. Việc đập đá rất cực nhọc đối với Phan, một nhà nho chân yếu tay mềm chỉ quen với bút nghiên, đèn sách không quen với công việc nặng nhọc. Bị cực hình về thể xác nhưng tinh thần vẫn vững vàng:

Lừng  lẫy làm cho lở núi non.

Đây không còn là chuyện người tù đập đá nữa mà còn bao hàm một ý nghĩ rộng lớn về chí khí hào hùng lẫm liệt của kẻ “làm trai” có chí lớn quyết xoay chuyển lại thời cuộc, nước non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

“Xách búa”, “ra tay” thể hiện tư thế chủ động; “đánh tan”, “đập bể” động từ chỉ hành động dứt khoát, mạnh mẽ, khoáng đạt. Nhà chí sĩ đang hình dung như dồn tất cả nghị lực và lòng căm thù vào cánh tay để “đập bể”, “đánh tan” cái dinh luỹ của chế độ thực dân phong kiến thối nát.

Ba năm trời đằng đẵng Phan làm thân tù tội, chịu đựng biết bao đoạ đày “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù, nghìn năm ở ngoài). Nhưng thời gian (tháng ngày), gian nan (mưa nắng) cũng là hoàn cảnh để rèn luyện khí tiết người cách mạng.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.

“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, nhà tù đế quốc là trường hợp để tôi rèn thử thách. Phan Bội Châu trong nhà ngục Quảng Đông “vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu”, Hồ Chí Minh trong nhà lao Tưởng Giới Thạch vẫn Tự khuyên mình

Nghĩ mình trong bước gian truân

Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

(Nhật kí trong tù)

Những thử thách khốc liệt của lao lù làm cho Phan Châu Trinh thêm rắn rỏi, dạn dày, lòng dạ càng thêm sáng ngời “sắt son” một niềm tin mãnh liệt ở sự nghiệp cứu dấn, cứu nước.

Bài thơ kết thúc bằng một lời khẳng định mạnh mẽ đầy tự tin:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Phan tự ví mình là kẻ “vá trời”, lấp biển, mưu đồ sự nghiệp lớn lao. Người anh hùng có chí lớn, tin ở tài năng và nghị lực của mình nhưng chẳng may bị sa cơ, “lỡ bước”! Bị “lỡ bước” trên con đường tranh đấu đầy chông gai hiểm nạn là lẽ tất yếu, thường tình đối với ông. Người cách mạng sẵn sàng chấp nhận tù đày, xiềng gông kể cả việc phải hi sinh tính mạng. Nói chuyện tù tội, chết chóc mà lời thơ cứ tự nhiên, nhẹ nhàng:

Gian nan chi kể việc con con!

Ông xem đó chỉ là việc “con con”, không đáng kể, thái độ tư  thế của nhà chí sĩ đĩnh đạc, ung dung lạ thường, ở đây ta lại bắt gặp sự đồng điệu rất lí thú trong tư thế của hai chí sĩ họ Phan:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu.

(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu)

Kẻ thù dùng bạo lực, cực hình đày đọa để tiêu diệt lòng yêu nước, nhưng chúng đã lầm, sức mạnh tinh thần của những người yêu nước vô địch.

Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn có giọng điệu hào hùng, sảng khoái của con người coi thường gian nguy, xem khinh kẻ địch. Đó là tư thế của những người chiến thắng, “đứng trên đầu thù”. Phan Châu Trinh nhà yêu nước vĩ đại, người chiến sĩ bất khuất hiên ngang đã đi vào lịch sử của dân tộc.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – Bài số 5

Phan Châu Trinh là một trong những chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn làm trong thời gian ông bị đày ở đảo Côn Lôn thể hiện khí phách quật cường, một bản lĩnh ngang tầm với dũng sĩ thần thoại.

Nhà tù thực dân Côn Đảo là một địa ngục trần gian. Bọn thực dân dùng nơi này để đày đọa những con người yêu nước ưu tú hòng làm nhụt chí khí đấu tranh của họ. Trong đó, đập đá là một trong những công việc cực nhọc mà người đi đày phải làm. Phan Chu Trinh cũng ở trong số tù khổ sai ấy. Nhưng giữa nắng gió biển khơi khắc nghiệt, người tù Phan Chu Trinh đã dựng lên cả một tượng đài bằng thơ thể hiện một vẻ đẹp lẫm liệt, phong thái cứng cỏi ngang tàng của người anh hùng cứu nước. Bốn câu thơ đầu tác giả miêu tả cảnh tượng đập đá của người tù và cũng bằng những hình ảnh ấy mà khắc họa dáng vóc phi thường của người anh hùng đấng nam nhi: "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn"

Câu mở đầu, tác giả phác ra bối cảnh không gian, gợi mở âm hưởng hùng tráng bằng tư thế hiên ngang, sừng sững của phận "làm trai" đầu đội trời, chân đạp đất kiêu hùng. Dân gian từng có câu: "Làm trai cho đáng nên trai". Nguyễn Công Trứ thì viết: "Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông; Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể". Phan Bội Châu cũng đề cao chí hướng làm trai: " Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời"… Điều đó cho thấy quan niệm về chí trai, làm trai có mạch nguồn trong quan niệm nhân sinh truyền thông. Trong câu thơ của Phan Chu Trinh quan niệm ấy được khẳng định trong một bối cảnh cụ thể: "… đứng giữa đất Côn Lôn" là "đứng giữa" biển – trời – đất, thật kiêu hãnh, đường hoàng, đúng là tư thế của người làm chủ giang sơn. Ba câu thơ tiếp theo, qua những hình ảnh chân thực diễn tả công việc nặng nhọc (khai thác đá) tác giả đã khắc họa thành những hình ảnh biểu trưng cho tầm vóc sức mạnh dời non lấp bể, kinh thiên động địa của nhân vật trữ tình. Những hành động mạnh mẽ cho phép ta hình dung ra hình ảnh người dũng sĩ với sức vóc thần kỳ đang xung trận: "xách búa", "ra tay"; và "lừng lẫy" những chiến công "lở núi non", "đánh tan năm bảy đống", “đập bể mấy trăm hòn". Những từ ngữ cực tả sức mạnh dũng mãnh đã làm nổi bật hình tượng con người trong tư thế ngạo nghễ, lớn ngang tầm vũ trụ. Giữa không gian biển trời bao la sừng sững một tượng đài kết bằng những hình khối phi thường.

Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng:

Tháng ngày bao quản thông sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

"Thân sành sỏi", "dạ sắt son" sẽ bền bỉ trụ lại được cùng "tháng ngày", mưa nắng". Thế đối lập ở câu 5-6 thể hiện sự kiên tâm, vững trí của nhà cách mạng dù trong bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng thủy chung, son sắt "mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen" (Nguyễn Trãi) kia cũng là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất đã được khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vững vàng đến “trơ gan cùng tuế nguyệt", đến ngạo nghễ đã là đạo sống, phẩm cách của người chiến sĩ chẳng tiếc thân mình cho sự nghiệp chung. Phan Chu Trinh xuất thân nho học, ở những vần thơ này ta thấy

0