Phân tích bài Đi bộ ngao du – Văn mẫu lớp 8
Nội dung bài viết1 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 1 2 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 2 3 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 3 4 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 4 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 1 Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận, dưới hình ...
Nội dung bài viết1 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 1 2 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 2 3 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 3 4 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 4 Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 1 Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận, dưới hình thức "nói chơi". Thiên phiếm luận ấy đặt trong khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết nên có nét đặc thù. Tác dụng của nó không ngoài mục đích làm cho nhân vật có được một chút thư giãn, thảnh thơi cả đầu óc và tâm hồn. Tuy chỉ là nói chơi mà không vô bổ. Đoạn văn chứng minh cho lợi ích của việc đi bộ. Ở vào thời điểm của thế kỉ XVIII, đây là một phát hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các phương tiện của ván minh (đi ngựa) hay bất cứ của các thành tựu khoa học nào (ôtô, tàu hoả, tàu thuỷ,…). Câu hỏi ở đây là cách nhà văn nói thật hay nói chơi, với người đọc cứ lởn vởn trong đầu. Cần tìm ra đáp số, phải theo dõi bài văn. Bài văn ấy lại như một cuộc đàm đạo, nghĩa là đối thoại với người nghe một cách từ tốn, hồn nhiên, không có gì nặng nề, áp đật. Mở đầu là một phát hiện bất ngờ và khái quát, rồi sau đó là những luận điểm chứng minh, mà chứng minh ấy lại nằm trong một hệ thống nói chơi nửa thực nửa đùa. Chính từ giọng điệu ấy đã tạo ra sức thuyết phục độc đáo không tìm thấy ở một tác phẩm nào trong thứ văn chương được gọi là nghiêm túc cả. Thì không đúng như thế hay sao? Thứ nhất: đi bộ ngao du là cách mà con người được giải phóng, được tự do. Từ một khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt hằng ngày mà người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Nó là một tiếng reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người tìm ra một chân lí bất ngờ mà không mấy ai quan tâm, để ý. Một chữ "ta" chủ thể, chủ thể của ý thích, chủ thể của hành động, chủ thể của bản thân mình, chẳng phụ thuộc vào ai. Đoạn văn diễn tả được cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người được "cởi trói" khỏi những ràng buộc với xung quanh. "Cái tôi" của nhà văn lúc này là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi sổ lồng. Này nhé: về ý thích, ta "ưa", ta muốn "nhiều ít thế nào thì tuỳ về hành động cũng tha hồ như thế. Nào "Ta quay sang phải, sang trái, ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay, ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh". Câu văn, rồi cả đoạn vãn say người chính là ở tư thế tự do mà con người ta có được. Nó là nhận thức, nó cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chấp cánh bởi tự do. Cái duy nhất lúc này mà người viết phụ thuộc là chính bản thân, một bản thân không gì còn vướng cản để tha hồ "hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ". Cách lập luận của đoạn văn vừa là song hành vừa là móc xích. Song hành trong cách bộc lộ một chủ thể tự do, móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp. Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý "Nếu tôi mệt…" đã lập tức có một "cái tôi" khác trả lời – trong quan hệ hô, ứng vang lên: "Nhưng Ê-min có mệt gì lắm đâu ; em to khoẻ ; và sao em có thể mệt được cơ chứ?" Sự phân thân tách mình ra làm hai con người khác kết hợp với sự hội nhập (hỏi và đáp cũng chỉ là con người ấy) đã làm nên sắc thái đa dạng, sinh động của lời văn, không rơi vào tình thế phát ngôn một chiều, đơn điệu. Nó hấp dẫn được người đọc, người nghe. Nó như một tiếng reo thầm khi nhu cầu cần giãi bày, chia sẻ. Đi bộ ngao du là cách mà con người trau dồi được tri thức một cách hồn nhiên ngoài trường lớp, ngoài sách vở thông thường. Thiên nhiên – qua cách đi bộ ngao du mà người ta tiếp cận – là một trường học lớn. Đó là cả một kho tàng. Những kiến thức về nông nghiệp, về tự nhiên như những ngọn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ mà con người khao khát. Cách học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những mô hình tượng trưng trong các phòng sưu lập của "các ngài tự nhiên học" đã đành, nó một trời một vực cả với các phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào hàng vua chúa. Bởi cái mà họ có tưởng là đủ nhưng chỉ là một nửa của sự thật mà thôi. Còn sự thật của thiên nhiên hùng vĩ phải có linh hồn của nó, nghĩa là nơi "mọi vật đều ở đúng chỗ" như Trái Đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà và sinh động, một sự sắp xếp mà không một nhà khoa học tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn. Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khoẻ. Cách trình bày luận điểm này độc đáo ở chỗ: tác giả đặt nó trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc tăng cường sức khoẻ, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, tác dụng bổ sung, một công đôi việc. Câu văn vừa như một chuyển ý vừa như nêu vấn đề: "Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khoẻ được tăng cường, tính tình trở nên vui vẻ". Câu văn tươi tắn như trạng thái cải lão hoàn đồng. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi, nay trẻ lại cùng gương mặt tươi cười đến mức chính người trong cuộc không còn nhận ra mình nữa. Đi bộ ngao du là một liều thuốc bổ, một loại tiên dược thần kì mà nào có tốn kém gì đâu? Trong việc trình bày luận điểm thứ ba này, nhà vãn không tự thể nghiệm mình trong các cuộc đi bộ ngao du mà đứng ở một góc nhìn khách quan, quan sát. Người viết so sánh hai hình thức ngao du: đi xe và đi bộ. Trong thời đại khoa học văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Nhưng rốt cuộc cái giá của thành tựu khoa học kĩ thuật vãn minh cũng chỉ có thế. Còn đi bộ (trong trường hợp ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, cơ thể hơn nhiều. Đây là hai thái cực trái ngược nhau: "Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả". Hai trạng thái ấy là sự vận động hay không vận động tạo ra, không có gì là lạ lùng khó hiểu cả. Nếu sức thuyết phục của đoạn văn ở góc độ quan sát nói trên được dễ dàng thừa nhận thì đoạn viết tiếp theo bằng một giọng điệu hân hoan, dù là chủ quan, nó cũng có rất nhiều khả năng được chia sẻ, đổng cảm. Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia thật thanh thản, cởi mở, tươi cười: "Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà! Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn". Điều kiện ăn ngủ tuy thật đơn sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không ngăn cản được những khoan khoái tự thân, ở cơ thể và tâm hồn mà cuộc đi bộ ngao du đem lại. Cuộc đời ta được nối tiếp nhau bằng những cuộc đi bộ ngao du như thế chắc sẽ trẻ mãi không già. Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường tránh cho nó biến thành giọng điệu khoa trương, ồn ào, quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ở mục đích có chừng mực của nó mà thôi. Không thể tung hô nó trong tất cả các loại hành trình: "Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ". Kết như thế là khéo, là rất thiết thực, vừa tầm. Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không kém và không hơn như thế. Thông qua một bài văn được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện ra một con người có văn hoá. Ấy là một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên. Nhưng khi gắn bài văn vào hoàn cảnh đời tư của tác giả không nên chỉ nhấn mạnh một chiểu, chẳng hạn, khi còn thơ ấu, ông thường bị chủ xưởng chửi mắng đánh đập,… nên khao khát tự do, hoặc cũng từ nhỏ vì không được học hành nên ông khao khát kiến thức. Nếu theo cái đà lập luận đó thì ông thích tăng cường thể lực vì từ bé đã bệnh tật, ốm yếu hay sao? Thêm nữa, bản thân việc đi bộ ngao du vừa có ý nghĩa khách quan của chính nó (không loại trừ một ai, ở bất cứ đẳng cấp xã hội nào) vừa có ý nghĩa chú quan đối với từng con người cụ thể. Và như thế, lấy tiêu chí chủ quan mà xem xét vấn đề rõ ràng là khiên cưỡng, không nên. Ngoài vấn đề nêu trên, cách sử dụng đại từ nhân xưng là "ta" và "tôi" chẳng qua cũng chỉ là thay đổi cách xưng hô, làm cho diễn đạt thêm phần linh hoạt, sinh động bằng việc thay đổi cách nhìn. Vẫn chỉ là một "cái tôi" khi tách ra, lúc nhập lại với người đọc, người nghe như một người tri kỉ đồng hành. Văn nghị luận mà giống với kể chuyện, gần gũi với mọi người chính là vì thế. Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 2 Ru – xô là một nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp. Ông có rất nhiều tác phẩm hay làm say mê độc giả trên toàn thế giới, một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông mà ta có thể kể tên, đó chính là tác phẩm “Ê- min hay về giáo dục”. Cuốn tiểu thuyết này có nội dung bàn về chuyện giáo dục một em bé tên là Ê- min, nhà văn đã tưởng tượng và đặt tên- từ khi mới sinh ra đời đến tuổi trưởng thành. Trong chương trình giáo dục, chúng ta cũng được học một trích đoạn của tác phẩm này là “Đi bộ ngao du”. Trong trích đoạn “Đi bộ ngao du”, nhà văn Ru- xô đã chỉ ra lợi ích của việc đi bộ, cũng như những lợi thế của việc đi bộ so với đi ngựa cũng như dùng các phương tiện khác. Trước hết, đi bộ có thể đi mọi nơi mà ta mong muốn, không phải lệ thuộc vào ai, vào phương tiện gì: “Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều hay ít thế nào là tùy”. Như vậy, việc đi bộ khiến cho ta được tự do về con người, được làm theo những ý muốn của mình, đây chính là lợi ích lớn nhất của việc đi bộ ngao du. Và đã là ngao du thì yếu tố chủ động phải được đặt lên hàng đầu, đi ngựa sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đường xá, sức khỏe của ngựa, không phải phụ thuộc vào những gã phu trạm. Đi bộ ngao du thì ta không bị phụ thuộc vào bất cứ thứ gì, bất kì cái gì, ta được tự do về con người, tự do về tâm hồn, làm toàn bộ những việc theo ý thích: “Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả các khía cạnh….”. Và quan trọng nhất là không bị lệ thuộc: “Tôi chẳng phải phụ thuộc vào những con ngựa hay những gã phu trạm. Đi bộ ngao du ta sẽ có cơ hôi khám phá những điều mới mẻ, có thể tự tìm cho mình những con đường riêng biệt, điều này rất phù hợp với những con người ưa tìm tòi, thử thách: “Tôi chẳng cần chọn những lối đi có sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua bất cứ nơi nào con người có thể đi qua; tôi xem tất cả những gì con người có thể xem….” Đi bộ ngao du có thể thỏa sức khám phá, tìm tòi, nhưng một lúc nào đó mệt thì lại có thể dùng ngựa: “Nếu do thời tiết xấu không đi bộ được và thấy chán rồi, lúc đó tôi đi ngựa” tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ của tác giả. Còn đối với nhân vật của mình, cậu bé Ê – min thì lại khác, cậu kiên cường hơn, bản lĩnh hơn rất nhiều, nếu mệt em sẽ tìm một thứ gì đó để giải trí, hoặc tìm lấy công việc để tay làm việc còn đôi chân được nghỉ ngơi. Sau khi nghỉ ngơi, đôi chân bớt mỏi mệt thì em lại có thể tiếp tục chuyến hành trình của mình: “…Ở chốn nào em cũng có thứ để giải trí. Em vào nhà một người thợ làm việc; em vận động hai cánh tay để đôi bàn chân nghỉ ngơi” Luận điểm thứ hai mà nhà văn Ru- xô nêu để minh chứng cho quan điểm đi bộ ngao du là sáng suốt, hữu ích. Đó chính là thông qua việc đi bộ thì ta có thể có cơ hội để trau dồi những vốn tri thức vốn vô hạn. Nhà văn nêu ra những dẫn chứng cụ thể, đó là những tấm gương của việc đi bộ ngao du như: Ta – lét, Pla- tông và Pi- ta- go. Họ đều là những nhà toán học, nhà triết học nổi tiếng của thế giới. Thông qua việc đi bộ, họ phát hiện ra nhiều điều lí thú, tiền đề cho những phát minh, những quan điểm vĩ đại. Đi bộ ngao du, vừa là để du ngoạn, thưởng thức cảnh sắc của tự nhiên mà thông qua vùng đất mình đi qua, ta có thể có thêm cho mình những kinh nghiệm, học hỏi thêm được nhiều thứ lí thú, có ích phù hợp với những vấn đề mà mình quan tâm. Ê- min nhờ vào việc đi bộ mà có những kiến thức sâu rộng, mang về nhiều thứ hay ho trên đường đi để về nhà làm thành một bộ sưu tập: “Nhưng phòng sưu tập của Ê- min thì phong phú hơn phòng làm việc của các vua chúa, phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều đúng chỗ của nó; nhà tự nhiên học làm công việc chăm sóc đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy…” Ngoài ra, việc đi bộ ngao du còn rất có lợi cho sức khỏe. Thông qua việc đi bộ, các cơ bắp trên cơ thể có dịp phát triển, từ đó mà sức khỏe của con người cũng có thể được cải thiện: “sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ”, hòa mình vào trong không khí của tự nhiên, con người cũng sống lạc quan hơn, tự tại hơn từ đó yêu đời và luôn vui vẻ, khác với những kẻ luôn ngồi trong xe ngựa nhưng cả ngày cáu kỉnh, không tìm được mục đích sống, cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán và vô nghĩa. Như vậy, đoạn trích “Đi bộ ngao du” của nhà văn Ru- xô đã đưa ra những luận điểm chặt chẽ, chứng minh cho những lợi ích của việc đi bộ ngao du. Những lập luận này hết sức chặt chẽ, có sức thuyết phục lại có những dẫn chứng cụ thể, sinh động trong thực tiễn, và dẫn chứng từ chính bản thân của tác giả. Thông qua đoạn trích này ta cũng thấy được Ru- xô còn là một nhà văn giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên. Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 3 Ru-xô (1712-1778) là nhà văn, nhà triết học lỗi lạc của nước Pháp trong thế kỉ XVIII. Trích đoạn “Đi bộ ngao du ” gồm có 3 đoạn văn; mỗi đoạn văn là một luận điểm: – Đi bộ ngao du rất thoải mái, chủ động và tự do. – Đi bộ ngao du rất có ích, vì quan sát, học tập được nhiều kiến thức trong thế giới tự nhiên bao la. – Đi bộ ngao du vô cùng thú vị. a – Đi bộ ngao du rất thoải mái, chủ động và tự do. Ở Pháp và Tây Âu trong thế ki XVIII đi ngựa là sang trọng, văn minh. Nhưng Ru-xô đã so sánh và khẳng định: đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa. Đi bộ ngao du rất thoải mái và chủ động: có thể đi hay dừng, có thể quay phải, quay trái, quan sát khắp nơi, xem xét tất cả tùy thích. Có thể đến với bao cảnh đẹp, cảnh lạ đó đây: một dòng sông, một khu rừng rậm, một hang động, một mỏ đá… Đến đâu ưa thích thì ta lưu lại đấy, lúc nào thấy chán thì bỏ đi. Đi bộ ngao du rất tự do, ta chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm, có thể đi theo nhũng con đường mà ta thích: Gặp thời tiết xấu thì ta đi ngựa. Chẳng hề vội vã… Ê-min to khỏe, không mỏi mệt, em tìm được nhiều thú để giải trí, để làm việc, để vận động chân tay. b – Đi bộ ngao du rất có ích. Đi bộ ngao du là để quan sát, tìm tòi, phát hiện như Ta-let, Pla-tông và Pi-ta-go, những nhà triết học, toán học vĩ đại của Hy Lạp thời cổ đại. Đi bộ ngao du là để xem xét những tài nguyên, là để biết các đặc sản nông nghiệp và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy. Là để phát triển hứng thú với tự nhiên học: xem xét một khoảnh đất mà mình đi qua, ghè một vài mẩu của lèn đá, sưu tập hoa lá, những hòn sỏi, các hóa thạch của những quả núi. Ru-xô so sánh một cách hóm hỉnh để làm nòi bật lí lẽ của mình: phòng sưu tập của “những triết gia phòng khách” thì có đủ ucác thử linh tinh” vì họ “chỉ biết gọi tên” nhưng "“chẳng có một ỷ niệm gì về tự nhiên cả'. Trái lại, phòng sưu tập của Ê-min là phòng sưu tập “cả trái đất “phong phú hơn các phòng sưu tập của vua chúa có thể so sánh với các công trình của Đô-băng-tông (1716 – 1800), nhà tự nhiên học lừng danh của nước Pháp. Qua đó, Ru-xô đã đề cao con người tự nhiên; ông chỉ rõ phải đưa con người vào trong môi trường tự nhiên để mở mang kiến thức, phát triển nhân cách. Giáo dục không được thoát li tự nhiên, nếu không sẽ trở thành viển vông, vô nghĩa. Tư tưởng ấy, quan điểm ấy rất tiến bộ, đến nay vẫn có nhiều ý nghĩa. c – Đi bộ ngao du vô cùng thú vị Đi bộ ngao du còn làm cho sức khỏe "được tăng cường”, tính khí trở nên “vui vẻ” Kẻ xa hoa sống trong tiện nghi sang trọng “ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm” thì tâm hồn bệnh hoạn: "mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ". Trái lại, Ê-min vì đi bộ nhiều nên lạc quan, yêu đời: "luôn luôn vui vẻ', khoan khoái và hài lòng với tất cà"; ăn ngon miệng hơn dù “bữa cơm đạm bạc”, ngủ ngon giấc hơn, dù “cái giường tồi tàn”. Người ta có lúc phải phóng xe trạm cho nhanh, cho được việc, nhưng muốn ngao du thì phải đi bộ. Thú vị của đi bộ ngao du là làm cho con người trở nên giản dị hơn, biết sống, yêu sống và yêu đời hơn. Cách viết của Ru-xô rất thâm trầm, giản dị. Qua các ngồi thứ: “tôi, ta, Ê- min”, ông đã làm cho giọng văn thay đổi, lúc thì tranh biện, lúc thì tâm sự. Lí lẽ, dẫn chứng ông nêu ra là sự thật hiên nhiên, là chân lí, đầy sức thuyết phục. Có lúc tác giả sử dụng so sánh một cách hóm hỉnh để khẳng định lí lẽ, quan điểm của mình. Lí lẽ, dẫn chứng và cách lập luận của Ru-xô rất mạch lạc và khúc chiết, sáng tỏ và sâu sắc khi khẳng định một chân lí: đi bộ ngao du rất thoải mái và tự do, rất bổ ích và thú vị. Ai cũng nên biết, cần biết đi bộ ngao du để mở mang kiến thức, mở rộng tầm mắt, phát triển nhân cách, thể lực, làm cho cuộc sống có sắc màu ý vị. Đọc trích đoạn “Đi bộ ngao du" của Ru-xô, hơn bao giờ ta thêm sáng tỏ: học trong tự nhiên rộng lớn, học trong cuộc sống muôn màu là một trong những cách học tích cực nhất, có giá trị nhất. Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 4 Có những nhà văn nước ngoài khiến bạn đọc Việt Nam nhớ mãi không thôi về những đoạn trích và tác phẩm của họ. Trong số tác giả đó, có nhà văn Ru- xô người Pháp. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm thợ sửa đồng hồ, mẹ mất sớm, ông chỉ được học hết năm mười hai tuổi đến năm mười bốn tuổi ông đi lang thang nhiều nơi và làm nhiều nghề. Từ những tủi nhục mà ông trải qua và sự thông minh hiếu học ông đã trở thành một nhà triết học và có những tác phẩm để đời mãi về sau. Tiêu biểu trong đó có tác phẩm Ê-min hay về giáo dục. Ê- min hay về giáo dục được viết vào năm (1762). Tác phẩm là một thiên tiểu thuyết đề cập đến một phương pháp giáo dục một con người từ khi mới sinh ra cho đến khi trưởng thành. Nhân vật của ông là Ê- min và thầy giáo của anh chính là ông. Tác phẩm này được chia làm năm quyển tương ứng với năm giai đoạn của quá trình giáo dục. Đoạn trích Đi bộ ngao du trích từ quyển năm. Đây là quyển cuối cùng trong quá trình giáo dục của Ê-min. Nhan đề đi bộ ngao du do sách giáo khoa dịch và đặt tên. Nhà văn Ru- xô đã thuyết phục người đọc ngao du là phải đi bộ bằng ba luận điểm chính. Những lập luận chặt chẽ cùng với thực tiễn sinh đọng đã giúp cho bài văn của Ru- xô trở nên hấp dẫn và có lý rất nhiều. Luận điểm thứ nhất của nhà văn là đi bộ ngao du được tự do thưởng ngoạn. Và luận điểm này được nhà văn thể hiện rõ trong đoạn văn thứ nhất. tác giả nhấn mạnh việc đi bộ ngao du sẽ là cách để chúng ta có thể thưởng ngoạn một cách tối đa nhất có thể. Chỉ từ một việc rất đơn giàn hằng ngày là đi bộ mà tác gải nâng nó lên thành một chân lý cao siêu tinh tế. Tác gải lấy kinh nghiệm của bản thân để thuyết phục mọi người. Tác giả kể như sau: “Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ. Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải ,sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay… một dòng sông…; một khu rừng rậm; một hang động…; một mỏ đá… các khoáng sản… Xem tất cả những gì con người có thể xem…; chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm. Hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ… Ta làm chủ ý thích, làm chủ hành động, làm chủ bản thân, không phụ thuộc vào ai”. Qua đó tác giả khẳng định ông là người thích đi bộ và khuyên mọi người nên đi bộ như mình. Qua đoạn văn trên tác giả muốn nhấn mạnh cái cảm giác đi bộ thoải mái như thế nào. Muốn dừng ở đâu thì dừng, muốn đi thì đi không phải phụ thuộc vào điều gì cả. Nếu như đi ngựa phải phụ thuộc thì đi bộ lại không, cứ thế mà ngắm thiên nhiên đến khi nào chán thì thôi. Vô hình chung tác giả muốn nói lên sự tự do khi đi bộ, mà đời người còn gì sướng hơn khi được tự do. Ở đoạn thứ hai tác giả tiếp tục giới thiệu về tác dụng của đi bộ. Theo tác gải thì đi bộ ngao du là cách để ta mở mangtri thúc và trau dồi kiến thức. “đi bộ ngao du là đi như Ta-lét ,Pla-tông và Pi-ta-go. Tôi khó lòng hiểu nổi một triết gia có thể quyết định ngao du cách khác mà không xem xốt những tài nguyên nơi mình giẫm chân lên và trải đất phô bày phong phú ra trước mắt”. đi bộ là nâng cao tầm hiểu biết của mình lên. Bằng những trải nghiệm thực tế cùng những điều lí thú từ thiên nhiên và con người mà ta có thể tiếp thu tri thức được. Có thể nói thiên nhiên và cuộc đời là một trường hoc lớn mà mỗi chúng ta nên cố gắng khám phá nó. Khám phá bằng cách nào chình là cách đi bộ ngao du “Ai là người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại không muốn biết các sản vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy? Ai là người có chút ít hứng thú với tự nhiên học mà lại có thể quyết định đi ngang một khoảnh đất mà không xem xét nó ,một lèn đá mà không ghè vài mẩu ,những quả núi mà không sưu tập hoa lá ,những hòn sỏi mà không tìm các hóa thạch!”. Chính vì thế kiến thức của mọi lĩnh vực trong tự nhiên giống như ngọn gió mát lành ùa vào tâm hồn và trí tuệ con người. Theo tác giả thì học hỏi từ thiên nhiên chứ sẽ tốt hơn và khác xa với những gì có trong sách vở. Thiên nhiên sống động uyển chuyển chứ không cứng nhắc như mấy mô hình trong sách vở. Thiên nhiên là sự sắp xếp tài tình của tạo hóa mà bất cứ nhà khoa học nào cũng không thể sắp xếp được. Những bộ sách của các vị vua chúa kia dẫu sang trọng nhưng cũng chỉ là một phần nhỏ của thiên nhiên mà thôi. Tất cả những thứ ấy không thể so sánh với việc đi bộ ngao du tự thưởng thức trải nghiệm được. Ru- xô thẳng thắn chê bai những sưu tập của vua chúa phong kiến bởi vì những thứ của họ chỉ nằm gọn trong căn phòng ,còn sưu tập của Ê-min là cả trái đất kia. Ở đoạn cuối tác giả nhấn mạnh tác dụng của đi bộ ngao du đối với sức khỏe và tinh thần. Như vậy có thể nói đi bộ ngao du không chỉ giúp ích về tri thức mở mang mà còn có tác dụng về tinh thần nữa. Đi bộ ngao du giúp sức khỏe tăng cường tính khí trở nên vui vẻ. Tác giả so sánh với những ngồi trong cỗ xe mà mơ màng buồn còn đi bộ ngao du luôn vui vẻ khoan khoái và hài lòng mọi người. Đi bộ ngao du giúp ta: “Chân đi, mắt nhìn, tai nghe, óc phân tích, nhận xét và trái tim cảm thụ những điều mới lạ, những cảnh đẹp gặp trên đường. Thân thể được rèn luyện, thử thách, sẽ trở nên mạnh mẽ và tâm hồn rộng mở lộng gió bốn phương. Lúc ấy, ta sẽ cảm thấy cuộc đời xung quanh hấp dẫn biết chừng nào, đáng sống biết chừng nào!”. Tác giả đã so sánh khá hay về đi bộ và đi xe để từ đó ta thấy được tác dụng của việc đi bộ. Mà những tác dụng đó được tác giả đạt làm nhiệm vụ hàng đầu. Bằng giọng văn hân hoan đầy tính chủ quan nhưng bằng những lí lẽ dẫn chứng thuyết phục Ru- xô đã thuyết phục được mọi người đồng tình. Như vậy có thể thấy đoạn trích đi bộ ngao du của Ru- xô là một đoạn trích hay và có ý nghĩa. Từ những dẫn chứng và thực tế sinh động Ru- xô đã đem đến cho chúng ta tầm quan trọng của việc đi bộ ngao du trong cuộc sống. Hay ý nghĩa sâu xa của nó chính là việc học tập. Học tập không phải cứng nhắc qua sách vở mà là tìm hiểu từ thực tế. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích bài Đi bộ ngao du – Văn mẫu lớp 8Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Giải thích và chứng minh câu nói “Hai chữ “lần lữa” đủ hại cả đời” – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về con chó – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về con mèo – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về một giống vật nuôi (Con chó) – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về món bánh xèo – Văn mẫu lớp 8Phân tích đoạn trích Nước Đại Việt ta – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về con lợn – Văn mẫu lớp 8Thuyết minh về lễ hội – Văn mẫu lớp 8
Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 1
Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận, dưới hình thức "nói chơi". Thiên phiếm luận ấy đặt trong khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết nên có nét đặc thù. Tác dụng của nó không ngoài mục đích làm cho nhân vật có được một chút thư giãn, thảnh thơi cả đầu óc và tâm hồn. Tuy chỉ là nói chơi mà không vô bổ. Đoạn văn chứng minh cho lợi ích của việc đi bộ. Ở vào thời điểm của thế kỉ XVIII, đây là một phát hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các phương tiện của ván minh (đi ngựa) hay bất cứ của các thành tựu khoa học nào (ôtô, tàu hoả, tàu thuỷ,…). Câu hỏi ở đây là cách nhà văn nói thật hay nói chơi, với người đọc cứ lởn vởn trong đầu. Cần tìm ra đáp số, phải theo dõi bài văn. Bài văn ấy lại như một cuộc đàm đạo, nghĩa là đối thoại với người nghe một cách từ tốn, hồn nhiên, không có gì nặng nề, áp đật. Mở đầu là một phát hiện bất ngờ và khái quát, rồi sau đó là những luận điểm chứng minh, mà chứng minh ấy lại nằm trong một hệ thống nói chơi nửa thực nửa đùa. Chính từ giọng điệu ấy đã tạo ra sức thuyết phục độc đáo không tìm thấy ở một tác phẩm nào trong thứ văn chương được gọi là nghiêm túc cả. Thì không đúng như thế hay sao?
Thứ nhất: đi bộ ngao du là cách mà con người được giải phóng, được tự do. Từ một khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt hằng ngày mà người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Nó là một tiếng reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người tìm ra một chân lí bất ngờ mà không mấy ai quan tâm, để ý. Một chữ "ta" chủ thể, chủ thể của ý thích, chủ thể của hành động, chủ thể của bản thân mình, chẳng phụ thuộc vào ai. Đoạn văn diễn tả được cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người được "cởi trói" khỏi những ràng buộc với xung quanh. "Cái tôi" của nhà văn lúc này là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi sổ lồng. Này nhé: về ý thích, ta "ưa", ta muốn "nhiều ít thế nào thì tuỳ về hành động cũng tha hồ như thế. Nào "Ta quay sang phải, sang trái, ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay, ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh". Câu văn, rồi cả đoạn vãn say người chính là ở tư thế tự do mà con người ta có được. Nó là nhận thức, nó cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chấp cánh bởi tự do. Cái duy nhất lúc này mà người viết phụ thuộc là chính bản thân, một bản thân không gì còn vướng cản để tha hồ "hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ". Cách lập luận của đoạn văn vừa là song hành vừa là móc xích. Song hành trong cách bộc lộ một chủ thể tự do, móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp. Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý "Nếu tôi mệt…" đã lập tức có một "cái tôi" khác trả lời – trong quan hệ hô, ứng vang lên: "Nhưng Ê-min có mệt gì lắm đâu ; em to khoẻ ; và sao em có thể mệt được cơ chứ?" Sự phân thân tách mình ra làm hai con người khác kết hợp với sự hội nhập (hỏi và đáp cũng chỉ là con người ấy) đã làm nên sắc thái đa dạng, sinh động của lời văn, không rơi vào tình thế phát ngôn một chiều, đơn điệu. Nó hấp dẫn được người đọc, người nghe. Nó như một tiếng reo thầm khi nhu cầu cần giãi bày, chia sẻ.
Đi bộ ngao du là cách mà con người trau dồi được tri thức một cách hồn nhiên ngoài trường lớp, ngoài sách vở thông thường. Thiên nhiên – qua cách đi bộ ngao du mà người ta tiếp cận – là một trường học lớn. Đó là cả một kho tàng. Những kiến thức về nông nghiệp, về tự nhiên như những ngọn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ mà con người khao khát. Cách học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những mô hình tượng trưng trong các phòng sưu lập của "các ngài tự nhiên học" đã đành, nó một trời một vực cả với các phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào hàng vua chúa. Bởi cái mà họ có tưởng là đủ nhưng chỉ là một nửa của sự thật mà thôi. Còn sự thật của thiên nhiên hùng vĩ phải có linh hồn của nó, nghĩa là nơi "mọi vật đều ở đúng chỗ" như Trái Đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà và sinh động, một sự sắp xếp mà không một nhà khoa học tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn.
Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khoẻ. Cách trình bày luận điểm này độc đáo ở chỗ: tác giả đặt nó trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc tăng cường sức khoẻ, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, tác dụng bổ sung, một công đôi việc. Câu văn vừa như một chuyển ý vừa như nêu vấn đề: "Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khoẻ được tăng cường, tính tình trở nên vui vẻ". Câu văn tươi tắn như trạng thái cải lão hoàn đồng. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi, nay trẻ lại cùng gương mặt tươi cười đến mức chính người trong cuộc không còn nhận ra mình nữa. Đi bộ ngao du là một liều thuốc bổ, một loại tiên dược thần kì mà nào có tốn kém gì đâu? Trong việc trình bày luận điểm thứ ba này, nhà vãn không tự thể nghiệm mình trong các cuộc đi bộ ngao du mà đứng ở một góc nhìn khách quan, quan sát. Người viết so sánh hai hình thức ngao du: đi xe và đi bộ. Trong thời đại khoa học văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Nhưng rốt cuộc cái giá của thành tựu khoa học kĩ thuật vãn minh cũng chỉ có thế. Còn đi bộ (trong trường hợp ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, cơ thể hơn nhiều. Đây là hai thái cực trái ngược nhau: "Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả". Hai trạng thái ấy là sự vận động hay không vận động tạo ra, không có gì là lạ lùng khó hiểu cả. Nếu sức thuyết phục của đoạn văn ở góc độ quan sát nói trên được dễ dàng thừa nhận thì đoạn viết tiếp theo bằng một giọng điệu hân hoan, dù là chủ quan, nó cũng có rất nhiều khả năng được chia sẻ, đổng cảm. Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia thật thanh thản, cởi mở, tươi cười: "Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà! Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn". Điều kiện ăn ngủ tuy thật đơn sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không ngăn cản được những khoan khoái tự thân, ở cơ thể và tâm hồn mà cuộc đi bộ ngao du đem lại. Cuộc đời ta được nối tiếp nhau bằng những cuộc đi bộ ngao du như thế chắc sẽ trẻ mãi không già.
Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường tránh cho nó biến thành giọng điệu khoa trương, ồn ào, quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ở mục đích có chừng mực của nó mà thôi. Không thể tung hô nó trong tất cả các loại hành trình: "Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ". Kết như thế là khéo, là rất thiết thực, vừa tầm. Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không kém và không hơn như thế.
Thông qua một bài văn được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện ra một con người có văn hoá. Ấy là một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên. Nhưng khi gắn bài văn vào hoàn cảnh đời tư của tác giả không nên chỉ nhấn mạnh một chiểu, chẳng hạn, khi còn thơ ấu, ông thường bị chủ xưởng chửi mắng đánh đập,… nên khao khát tự do, hoặc cũng từ nhỏ vì không được học hành nên ông khao khát kiến thức. Nếu theo cái đà lập luận đó thì ông thích tăng cường thể lực vì từ bé đã bệnh tật, ốm yếu hay sao? Thêm nữa, bản thân việc đi bộ ngao du vừa có ý nghĩa khách quan của chính nó (không loại trừ một ai, ở bất cứ đẳng cấp xã hội nào) vừa có ý nghĩa chú quan đối với từng con người cụ thể. Và như thế, lấy tiêu chí chủ quan mà xem xét vấn đề rõ ràng là khiên cưỡng, không nên. Ngoài vấn đề nêu trên, cách sử dụng đại từ nhân xưng là "ta" và "tôi" chẳng qua cũng chỉ là thay đổi cách xưng hô, làm cho diễn đạt thêm phần linh hoạt, sinh động bằng việc thay đổi cách nhìn. Vẫn chỉ là một "cái tôi" khi tách ra, lúc nhập lại với người đọc, người nghe như một người tri kỉ đồng hành. Văn nghị luận mà giống với kể chuyện, gần gũi với mọi người chính là vì thế.
Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 2
Ru – xô là một nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp. Ông có rất nhiều tác phẩm hay làm say mê độc giả trên toàn thế giới, một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông mà ta có thể kể tên, đó chính là tác phẩm “Ê- min hay về giáo dục”. Cuốn tiểu thuyết này có nội dung bàn về chuyện giáo dục một em bé tên là Ê- min, nhà văn đã tưởng tượng và đặt tên- từ khi mới sinh ra đời đến tuổi trưởng thành. Trong chương trình giáo dục, chúng ta cũng được học một trích đoạn của tác phẩm này là “Đi bộ ngao du”.
Trong trích đoạn “Đi bộ ngao du”, nhà văn Ru- xô đã chỉ ra lợi ích của việc đi bộ, cũng như những lợi thế của việc đi bộ so với đi ngựa cũng như dùng các phương tiện khác. Trước hết, đi bộ có thể đi mọi nơi mà ta mong muốn, không phải lệ thuộc vào ai, vào phương tiện gì: “Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều hay ít thế nào là tùy”. Như vậy, việc đi bộ khiến cho ta được tự do về con người, được làm theo những ý muốn của mình, đây chính là lợi ích lớn nhất của việc đi bộ ngao du. Và đã là ngao du thì yếu tố chủ động phải được đặt lên hàng đầu, đi ngựa sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đường xá, sức khỏe của ngựa, không phải phụ thuộc vào những gã phu trạm.
Đi bộ ngao du thì ta không bị phụ thuộc vào bất cứ thứ gì, bất kì cái gì, ta được tự do về con người, tự do về tâm hồn, làm toàn bộ những việc theo ý thích: “Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả các khía cạnh….”. Và quan trọng nhất là không bị lệ thuộc: “Tôi chẳng phải phụ thuộc vào những con ngựa hay những gã phu trạm. Đi bộ ngao du ta sẽ có cơ hôi khám phá những điều mới mẻ, có thể tự tìm cho mình những con đường riêng biệt, điều này rất phù hợp với những con người ưa tìm tòi, thử thách: “Tôi chẳng cần chọn những lối đi có sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua bất cứ nơi nào con người có thể đi qua; tôi xem tất cả những gì con người có thể xem….”
Đi bộ ngao du có thể thỏa sức khám phá, tìm tòi, nhưng một lúc nào đó mệt thì lại có thể dùng ngựa: “Nếu do thời tiết xấu không đi bộ được và thấy chán rồi, lúc đó tôi đi ngựa” tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ của tác giả. Còn đối với nhân vật của mình, cậu bé Ê – min thì lại khác, cậu kiên cường hơn, bản lĩnh hơn rất nhiều, nếu mệt em sẽ tìm một thứ gì đó để giải trí, hoặc tìm lấy công việc để tay làm việc còn đôi chân được nghỉ ngơi. Sau khi nghỉ ngơi, đôi chân bớt mỏi mệt thì em lại có thể tiếp tục chuyến hành trình của mình: “…Ở chốn nào em cũng có thứ để giải trí. Em vào nhà một người thợ làm việc; em vận động hai cánh tay để đôi bàn chân nghỉ ngơi”
Luận điểm thứ hai mà nhà văn Ru- xô nêu để minh chứng cho quan điểm đi bộ ngao du là sáng suốt, hữu ích. Đó chính là thông qua việc đi bộ thì ta có thể có cơ hội để trau dồi những vốn tri thức vốn vô hạn. Nhà văn nêu ra những dẫn chứng cụ thể, đó là những tấm gương của việc đi bộ ngao du như: Ta – lét, Pla- tông và Pi- ta- go. Họ đều là những nhà toán học, nhà triết học nổi tiếng của thế giới. Thông qua việc đi bộ, họ phát hiện ra nhiều điều lí thú, tiền đề cho những phát minh, những quan điểm vĩ đại. Đi bộ ngao du, vừa là để du ngoạn, thưởng thức cảnh sắc của tự nhiên mà thông qua vùng đất mình đi qua, ta có thể có thêm cho mình những kinh nghiệm, học hỏi thêm được nhiều thứ lí thú, có ích phù hợp với những vấn đề mà mình quan tâm.
Ê- min nhờ vào việc đi bộ mà có những kiến thức sâu rộng, mang về nhiều thứ hay ho trên đường đi để về nhà làm thành một bộ sưu tập: “Nhưng phòng sưu tập của Ê- min thì phong phú hơn phòng làm việc của các vua chúa, phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều đúng chỗ của nó; nhà tự nhiên học làm công việc chăm sóc đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy…”
Ngoài ra, việc đi bộ ngao du còn rất có lợi cho sức khỏe. Thông qua việc đi bộ, các cơ bắp trên cơ thể có dịp phát triển, từ đó mà sức khỏe của con người cũng có thể được cải thiện: “sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ”, hòa mình vào trong không khí của tự nhiên, con người cũng sống lạc quan hơn, tự tại hơn từ đó yêu đời và luôn vui vẻ, khác với những kẻ luôn ngồi trong xe ngựa nhưng cả ngày cáu kỉnh, không tìm được mục đích sống, cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán và vô nghĩa.
Như vậy, đoạn trích “Đi bộ ngao du” của nhà văn Ru- xô đã đưa ra những luận điểm chặt chẽ, chứng minh cho những lợi ích của việc đi bộ ngao du. Những lập luận này hết sức chặt chẽ, có sức thuyết phục lại có những dẫn chứng cụ thể, sinh động trong thực tiễn, và dẫn chứng từ chính bản thân của tác giả. Thông qua đoạn trích này ta cũng thấy được Ru- xô còn là một nhà văn giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.
Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 3
Ru-xô (1712-1778) là nhà văn, nhà triết học lỗi lạc của nước Pháp trong thế kỉ XVIII.
Trích đoạn “Đi bộ ngao du ” gồm có 3 đoạn văn; mỗi đoạn văn là một luận điểm:
– Đi bộ ngao du rất thoải mái, chủ động và tự do.
– Đi bộ ngao du rất có ích, vì quan sát, học tập được nhiều kiến thức trong thế giới tự nhiên bao la.
– Đi bộ ngao du vô cùng thú vị.
a – Đi bộ ngao du rất thoải mái, chủ động và tự do.
Ở Pháp và Tây Âu trong thế ki XVIII đi ngựa là sang trọng, văn minh. Nhưng Ru-xô đã so sánh và khẳng định: đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa. Đi bộ ngao du rất thoải mái và chủ động: có thể đi hay dừng, có thể quay phải, quay trái, quan sát khắp nơi, xem xét tất cả tùy thích. Có thể đến với bao cảnh đẹp, cảnh lạ đó đây: một dòng sông, một khu rừng rậm, một hang động, một mỏ đá… Đến đâu ưa thích thì ta lưu lại đấy, lúc nào thấy chán thì bỏ đi. Đi bộ ngao du rất tự do, ta chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm, có thể đi theo nhũng con đường mà ta thích: Gặp thời tiết xấu thì ta đi ngựa. Chẳng hề vội vã… Ê-min to khỏe, không mỏi mệt, em tìm được nhiều thú để giải trí, để làm việc, để vận động chân tay.
b – Đi bộ ngao du rất có ích.
Đi bộ ngao du là để quan sát, tìm tòi, phát hiện như Ta-let, Pla-tông và Pi-ta-go, những nhà triết học, toán học vĩ đại của Hy Lạp thời cổ đại. Đi bộ ngao du là để xem xét những tài nguyên, là để biết các đặc sản nông nghiệp và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy. Là để phát triển hứng thú với tự nhiên học: xem xét một khoảnh đất mà mình đi qua, ghè một vài mẩu của lèn đá, sưu tập hoa lá, những hòn sỏi, các hóa thạch của những quả núi. Ru-xô so sánh một cách hóm hỉnh để làm nòi bật lí lẽ của mình: phòng sưu tập của “những triết gia phòng khách” thì có đủ ucác thử linh tinh” vì họ “chỉ biết gọi tên” nhưng "“chẳng có một ỷ niệm gì về tự nhiên cả'. Trái lại, phòng sưu tập của Ê-min là phòng sưu tập “cả trái đất “phong phú hơn các phòng sưu tập của vua chúa có thể so sánh với các công trình của Đô-băng-tông (1716 – 1800), nhà tự nhiên học lừng danh của nước Pháp.
Qua đó, Ru-xô đã đề cao con người tự nhiên; ông chỉ rõ phải đưa con người vào trong môi trường tự nhiên để mở mang kiến thức, phát triển nhân cách. Giáo dục không được thoát li tự nhiên, nếu không sẽ trở thành viển vông, vô nghĩa. Tư tưởng ấy, quan điểm ấy rất tiến bộ, đến nay vẫn có nhiều ý nghĩa.
c – Đi bộ ngao du vô cùng thú vị
Đi bộ ngao du còn làm cho sức khỏe "được tăng cường”, tính khí trở nên “vui vẻ” Kẻ xa hoa sống trong tiện nghi sang trọng “ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm” thì tâm hồn bệnh hoạn: "mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ". Trái lại, Ê-min vì đi bộ nhiều nên lạc quan, yêu đời: "luôn luôn vui vẻ', khoan khoái và hài lòng với tất cà"; ăn ngon miệng hơn dù “bữa cơm đạm bạc”, ngủ ngon giấc hơn, dù “cái giường tồi tàn”. Người ta có lúc phải phóng xe trạm cho nhanh, cho được việc, nhưng muốn ngao du thì phải đi bộ. Thú vị của đi bộ ngao du là làm cho con người trở nên giản dị hơn, biết sống, yêu sống và yêu đời hơn.
Cách viết của Ru-xô rất thâm trầm, giản dị. Qua các ngồi thứ: “tôi, ta, Ê- min”, ông đã làm cho giọng văn thay đổi, lúc thì tranh biện, lúc thì tâm sự. Lí lẽ, dẫn chứng ông nêu ra là sự thật hiên nhiên, là chân lí, đầy sức thuyết phục. Có lúc tác giả sử dụng so sánh một cách hóm hỉnh để khẳng định lí lẽ, quan điểm của mình. Lí lẽ, dẫn chứng và cách lập luận của Ru-xô rất mạch lạc và khúc chiết, sáng tỏ và sâu sắc khi khẳng định một chân lí: đi bộ ngao du rất thoải mái và tự do, rất bổ ích và thú vị. Ai cũng nên biết, cần biết đi bộ ngao du để mở mang kiến thức, mở rộng tầm mắt, phát triển nhân cách, thể lực, làm cho cuộc sống có sắc màu ý vị.
Đọc trích đoạn “Đi bộ ngao du" của Ru-xô, hơn bao giờ ta thêm sáng tỏ: học trong tự nhiên rộng lớn, học trong cuộc sống muôn màu là một trong những cách học tích cực nhất, có giá trị nhất.
Phân tích bài Đi bộ ngao du – Bài số 4
Có những nhà văn nước ngoài khiến bạn đọc Việt Nam nhớ mãi không thôi về những đoạn trích và tác phẩm của họ. Trong số tác giả đó, có nhà văn Ru- xô người Pháp. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm thợ sửa đồng hồ, mẹ mất sớm, ông chỉ được học hết năm mười hai tuổi đến năm mười bốn tuổi ông đi lang thang nhiều nơi và làm nhiều nghề. Từ những tủi nhục mà ông trải qua và sự thông minh hiếu học ông đã trở thành một nhà triết học và có những tác phẩm để đời mãi về sau. Tiêu biểu trong đó có tác phẩm Ê-min hay về giáo dục.
Ê- min hay về giáo dục được viết vào năm (1762). Tác phẩm là một thiên tiểu thuyết đề cập đến một phương pháp giáo dục một con người từ khi mới sinh ra cho đến khi trưởng thành. Nhân vật của ông là Ê- min và thầy giáo của anh chính là ông. Tác phẩm này được chia làm năm quyển tương ứng với năm giai đoạn của quá trình giáo dục.
Đoạn trích Đi bộ ngao du trích từ quyển năm. Đây là quyển cuối cùng trong quá trình giáo dục của Ê-min. Nhan đề đi bộ ngao du do sách giáo khoa dịch và đặt tên.
Nhà văn Ru- xô đã thuyết phục người đọc ngao du là phải đi bộ bằng ba luận điểm chính. Những lập luận chặt chẽ cùng với thực tiễn sinh đọng đã giúp cho bài văn của Ru- xô trở nên hấp dẫn và có lý rất nhiều.
Luận điểm thứ nhất của nhà văn là đi bộ ngao du được tự do thưởng ngoạn. Và luận điểm này được nhà văn thể hiện rõ trong đoạn văn thứ nhất. tác giả nhấn mạnh việc đi bộ ngao du sẽ là cách để chúng ta có thể thưởng ngoạn một cách tối đa nhất có thể. Chỉ từ một việc rất đơn giàn hằng ngày là đi bộ mà tác gải nâng nó lên thành một chân lý cao siêu tinh tế. Tác gải lấy kinh nghiệm của bản thân để thuyết phục mọi người. Tác giả kể như sau: “Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ. Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải ,sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay… một dòng sông…; một khu rừng rậm; một hang động…; một mỏ đá… các khoáng sản… Xem tất cả những gì con người có thể xem…; chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm. Hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ… Ta làm chủ ý thích, làm chủ hành động, làm chủ bản thân, không phụ thuộc vào ai”. Qua đó tác giả khẳng định ông là người thích đi bộ và khuyên mọi người nên đi bộ như mình. Qua đoạn văn trên tác giả muốn nhấn mạnh cái cảm giác đi bộ thoải mái như thế nào. Muốn dừng ở đâu thì dừng, muốn đi thì đi không phải phụ thuộc vào điều gì cả. Nếu như đi ngựa phải phụ thuộc thì đi bộ lại không, cứ thế mà ngắm thiên nhiên đến khi nào chán thì thôi. Vô hình chung tác giả muốn nói lên sự tự do khi đi bộ, mà đời người còn gì sướng hơn khi được tự do.
Ở đoạn thứ hai tác giả tiếp tục giới thiệu về tác dụng của đi bộ. Theo tác gải thì đi bộ ngao du là cách để ta mở mangtri thúc và trau dồi kiến thức. “đi bộ ngao du là đi như Ta-lét ,Pla-tông và Pi-ta-go. Tôi khó lòng hiểu nổi một triết gia có thể quyết định ngao du cách khác mà không xem xốt những tài nguyên nơi mình giẫm chân lên và trải đất phô bày phong phú ra trước mắt”. đi bộ là nâng cao tầm hiểu biết của mình lên. Bằng những trải nghiệm thực tế cùng những điều lí thú từ thiên nhiên và con người mà ta có thể tiếp thu tri thức được. Có thể nói thiên nhiên và cuộc đời là một trường hoc lớn mà mỗi chúng ta nên cố gắng khám phá nó. Khám phá bằng cách nào chình là cách đi bộ ngao du “Ai là người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại không muốn biết các sản vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy? Ai là người có chút ít hứng thú với tự nhiên học mà lại có thể quyết định đi ngang một khoảnh đất mà không xem xét nó ,một lèn đá mà không ghè vài mẩu ,những quả núi mà không sưu tập hoa lá ,những hòn sỏi mà không tìm các hóa thạch!”. Chính vì thế kiến thức của mọi lĩnh vực trong tự nhiên giống như ngọn gió mát lành ùa vào tâm hồn và trí tuệ con người. Theo tác giả thì học hỏi từ thiên nhiên chứ sẽ tốt hơn và khác xa với những gì có trong sách vở. Thiên nhiên sống động uyển chuyển chứ không cứng nhắc như mấy mô hình trong sách vở. Thiên nhiên là sự sắp xếp tài tình của tạo hóa mà bất cứ nhà khoa học nào cũng không thể sắp xếp được. Những bộ sách của các vị vua chúa kia dẫu sang trọng nhưng cũng chỉ là một phần nhỏ của thiên nhiên mà thôi. Tất cả những thứ ấy không thể so sánh với việc đi bộ ngao du tự thưởng thức trải nghiệm được.
Ru- xô thẳng thắn chê bai những sưu tập của vua chúa phong kiến bởi vì những thứ của họ chỉ nằm gọn trong căn phòng ,còn sưu tập của Ê-min là cả trái đất kia.
Ở đoạn cuối tác giả nhấn mạnh tác dụng của đi bộ ngao du đối với sức khỏe và tinh thần. Như vậy có thể nói đi bộ ngao du không chỉ giúp ích về tri thức mở mang mà còn có tác dụng về tinh thần nữa. Đi bộ ngao du giúp sức khỏe tăng cường tính khí trở nên vui vẻ. Tác giả so sánh với những ngồi trong cỗ xe mà mơ màng buồn còn đi bộ ngao du luôn vui vẻ khoan khoái và hài lòng mọi người. Đi bộ ngao du giúp ta: “Chân đi, mắt nhìn, tai nghe, óc phân tích, nhận xét và trái tim cảm thụ những điều mới lạ, những cảnh đẹp gặp trên đường. Thân thể được rèn luyện, thử thách, sẽ trở nên mạnh mẽ và tâm hồn rộng mở lộng gió bốn phương. Lúc ấy, ta sẽ cảm thấy cuộc đời xung quanh hấp dẫn biết chừng nào, đáng sống biết chừng nào!”. Tác giả đã so sánh khá hay về đi bộ và đi xe để từ đó ta thấy được tác dụng của việc đi bộ. Mà những tác dụng đó được tác giả đạt làm nhiệm vụ hàng đầu. Bằng giọng văn hân hoan đầy tính chủ quan nhưng bằng những lí lẽ dẫn chứng thuyết phục Ru- xô đã thuyết phục được mọi người đồng tình.
Như vậy có thể thấy đoạn trích đi bộ ngao du của Ru- xô là một đoạn trích hay và có ý nghĩa. Từ những dẫn chứng và thực tế sinh động Ru- xô đã đem đến cho chúng ta tầm quan trọng của việc đi bộ ngao du trong cuộc sống. Hay ý nghĩa sâu xa của nó chính là việc học tập. Học tập không phải cứng nhắc qua sách vở mà là tìm hiểu từ thực tế.
Nguyễn Tuyến tổng hợp