24/05/2018, 21:25

Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước

Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần thiết nhằm tạo cơ sở giúp các đơn vị được giao vốn thực hiện quản lý vốn được giao và giúp các cơ quan kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình. ...

Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần thiết nhằm tạo cơ sở giúp các đơn vị được giao vốn thực hiện quản lý vốn được giao và giúp các cơ quan kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình.

Hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung công tác này là việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Khác với cách thức quản lý doanh nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết, Nhà nước quản lý doanh nghiệp một cách gián tiếp theo nguyên tắc: Nhà nước điều chỉnh thị trường, thị trường điều chỉnh doanh nghiệp. Nhà nước ban hành chính sách nhằm định hướng sự phát triển theo mục tiêu của Nhà nước và giúp doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Nhà nước tạo hành lang pháp lý thông thoáng, bình đẳng và môi trường kinh doanh vừa thuận lợi, vừa đòi hỏi hiệu quả kinh tế cao để các doanh nghiệp hoạt động. Chính sách quản lý vốn được ban hành hướng vào việc khai thác, động viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp nhằm khuyến khích phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nâng cao hiệu quả của nền tài chính quốc gia.

Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nói riêng và hệ thống các chính sách tài chính nói chung. Chính sách quản lý vốn đúng đắn sẽ kích thích sự chuyển dịch các luồng giá trị trong nền kinh tế quốc dân theo hướng duy động mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn ở doanh nghiệp, nhờ đó tăng quy mô và tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh, tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Nguồn thu vào ngân sách nhà nước càng nhiều thì Chính phủ càng có khả năng tài chính để tăng quy mô đầu tư vốn, phát triển các quỹ tài trợ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; kế đó, quy mô đầu tư và tài trợ từ ngân sách đối với doanh nghiệp càng lớn thì nó sẽ kích thích mạnh mẽ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, và qua đó Chính phủ còn thực hiện được yêu cầu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế theo định hướng đã đề ra.

Các Chính phủ thường ban hành chính sách quản lý vốn và tài sản theo hướng:

Một là, tăng cường quyền tự chủ về mặt tài chính của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý vốn và tài sản;

Hai là, nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao. Thiết lập các cơ chế thích hợp để hướng sự quan tâm và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn như: cơ chế trích lập dự phòng, cơ chế bù lỗ...

Ba là, quy định các chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích như: hỗ trợ vốn, bù chênh lệch khi thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao, bảo đảm thoả đáng lợi ích vật chất cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước này...Đồng thời thiết lập cơ chế quản lý hợp lý đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao.

Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bao trùm các nội dung quản lý sau:

Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước:

Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc đầu tư bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp hình thành do kết quả quốc hữu hoá, các doanh nghiệp nhà nước đều được hình thành trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế mà nhà nước quyết định cấp dưới hình thức trực tiếp (cấp thẳng từ ngân sách nhà nước) hay gián tiếp (qua các hình thức ghi thu-ghi chi như: chuyển vốn từ doanh nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp nhà nước nhận trực tiếp các khoản viện trợ để đầu tư...). Đối với vốn lưu động, nhà nước có thể cấp theo định mức một phần, phần còn lại doanh nghiệp phải huy động trên thị trường vốn và chịu lãi suất thị trường. Đồng thời, tuỳ thuộc vào khả năng của ngân sách nhà nước của mỗi nước mà chính sách đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước ở các nước là khác nhau. ở Pháp, những doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo yêu cầu của nhà nước thì cấp vốn 100%, các doanh nghiệp do nhà nước quản lý nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với doanh nghiệp khác thì nhà nước không cấp vốn. ở Nhật, mức vốn đầu tư cho doanh nghiệp tăng nhưng mức độ kiểm soát cũng chặt chẽ hơn. ở Malaysia, nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành như sau: Vốn cố định ban đầu được nhà nước cấp 100% và hàng năm, doanh nghiệp phải trả lãi (theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số vốn đầu tư của nhà nước; vốn lưu động thì các công ty phải vay theo lãi suất thị trường. Còn ở nước ta, việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999, Nhà nước đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhà nước mới thành lập ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng. Các cơ quan có thẩm quyền khi quyết định thành lập doanh nghiệp mới phải đảm bảo đủ vốn thực có tại thời điểm thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định nhà nước quy định cho mỗi ngành nghề. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất dinh doanh, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội mà nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả năng của ngân sách nhà nước, nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho các doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao vốn thuộc sở hữu nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước.

Số vốn giao cho doanh nghiệp được xác định như sau:

+ Đối với doanh nghiệp thành lập mới là số vốn nhà nước ghi trong quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản bàn giao sang sản xuất kinh doanh, vốn điều lệ được nhà nước bổ sung và vốn khác thuộc sở hữu nhà nước (nếu có).

+ Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và thành lập lại (sáp nhập, chia tách) là số vốn sở hữu hiện có tại doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp thành viên, sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước.

Trong khi khu vực kinh tế tư nhân có thể được huy động một cách tự chủ và linh động trong môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế nhà nước thường chỉ được phép huy động vốn dưới một số hình thức nhất định, các kênh huy động vốn đó là:

Thứ nhất, huy động vốn từ Ngân sách nhà nước: Các doanh nghiệp khi có nhu cầu về vốn có thể đề nghị nhà nước xét duyệt cấp vốn cho doanh nghiệp mình. Đây là nguồn vốn đặc biệt , chỉ các doanh nghiệp nhà nước mới có đặc quyền được yêu cầu và đây cũng là nguồn vốn chủ lực của các doanh nghiệp nhà nước.

Thứ hai, huy động vốn thông qua hoạt động liên doanh, liên kết: Đây là việc góp tiền hoặc tài sản với các doanh nghiệp khác để mở rộng sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức khác để huy động vốn.

Thứ ba, huy động vốn bằng cách đi vay: Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu vốn của mình bằng cách đi vay những khoản tín dụng dài hạn, ngắn hạn, hoặc trung hạn từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các doanh nghiệp khác, các cá nhân (kể cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp), được phát hành trái phiếu huy động vốn để đầu tư phát triển.

Thứ tư, huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, cổ phiếu thường mới để bán cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp và ngoài xã hội.

Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ chính các quỹ của doanh nghiệp. Nhà nước có quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ này.

Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước

  • Quản lý sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp:

Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử dụng vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả.

Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ và ghi sổ kế toán theo dõi chính xác toàn bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán, thống kê hiện hành; phản ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp được quyền sử dụng vốn và qũy để kinh doanh theo nguyên tắc có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và qũy khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và qũy đó thì phải theo nguyên tắc hoàn trả, như: dùng các qũy dự phòng, qũy khen thưởng, qũy phúc lợi...để kinh doanh thì phải hoàn trả qũy đó khi có nhu cầu sử dụng. Doanh nghiệp được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn

Doanh nghiệp Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài sản của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản.

Định kỳ và khi kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê toàn bộ tài sản và vốn hiện có. Xác định chính xác số tài sản thừa, thiếu, tài sản ứ đọng, mất phẩm chất, nguyên nhân và xử lý trách nhiệm; đồng thời để có căn cứ lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, qúy) doanh nghiệp phải đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, qúa hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý.

Doanh nghiệp được quyền cho thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động, doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định. Doanh nghiệp được đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Doanh nghiệp không đợc đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố, nhận thế chấp ... của doanh nghiệp khác nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản đó.

Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn. Chênh lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết qủa kinh doanh của doanh nghiệp.

Mọi tổn thất tài sản của doanh nghiệp phải lập biên bản xác định mức độ, nguyên nhân và trách nhiệm đưa ra biện pháp xử lý.

Doanh nghiệp được đánh giá lại tài sản và hạch toán tăng giảm vốn khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản trong các trường hợp sau: Kiểm kê đánh giá lại tài sản theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa hình thức sở hữu, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; Dùng tài sản để liên doanh, góp vốn cổ phần (khi đem tài sản đi góp vốn và khi nhận tài sản về).

  • Quản lý vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp:

Doanh nghiệp được sử dụng vốn, tài sản để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và đảm bảo nhiệm vụ thu nộp Ngân sách nhà nnớc; việc đầu tư phải tuân theo các quy định hiện hành của pháp luật.. Các hình thức đầu tư ra ngoài doanh nghiệp gồm: mua cổ phiếu, góp vốn liên doanh, góp cổ phần và các hình thức đầu tư khác ...

Doanh nghiệp Nhà nước được phép đưa vốn và tài sản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.

  • Bảo toàn và phát triển vốn:

Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn thường được áp dụng là:

Thứ nhất, thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các qui định của Nhà nước;

Thứ hai, thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh;

Thứ ba, doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt động khác một số khoản dự phòng theo quy định như: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các khoản nợ thu khó đòi, dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính...

Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau thuế) để bù lỗ các năm trước, được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai, dịch bệnh ...) vào chi phí hoặc kết qủa kinh doanh theo qui định của Nhà nước.

Để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, mỗi nước đều tổ chức cho mình một bộ máy quản lý khác nhau với cách thức quản lý khác nhau. Bộ máy này bao gồm bản thân doanh nghiệp nhà nước (với tư cách là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn nhà nước giao) và các cơ quan quản lý cấp trên (giám sát việc thực hiện quản lý, sử dụng vốn nhà nước của doanh nghiệp nhà nước và ra các quyết định quản lý). Mỗi cấp quản lý được phân rõ chức năng nhiệm vụ trong việc thực hiện hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.

ở Pháp và Malaysia, nhà nước trực tiếp cử nhân viên của mình làm công tác kiểm tra tại doanh nghiệp, nhân viên đó thuộc biên chế Bộ tài chính; ngoài ra mỗi doanh nghiệp còn chịu sự điều tra của một nhân viên do toá án chỉ định, có chức năng kiểm tra tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, ở các doanh nghiệp còn có Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng này là đại diện của nhà nước, đại diện cho doanh nghiệp và đại diện của công nhân.

ở một số nước khác như Trung Quốc thì việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước lại do các Công ty đầu tư tài chính nhà nước đảm nhận. Hoạt động của Công ty tài chính là hoạt động kinh doanh, khác với việc cử đại diện của Bộ tài chính làm công việc kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp. Đây là một tổ chức tài chính do Chính phủ thành lập giúp Chính phủ thành lập chức năng kinh doanh các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Công ty đầu tư tài chính nhà nước có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, chủ sở hữu công ty là Chính phủ

Thứ hai, công ty đầu tư tài chính là một doanh nghiệp nhà nước, công ty được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước.

Thứ ba, công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, được Chính phủ giao vốn ban đầu và đầu tư bổ sung vốn trong quá trình hoạt động.

Thứ tư, chức năng của công ty là kinh doanh vốn nhà nước. Điều này khẳng định mục đích đầu tư vốn vào các doanh nghiệp nhà nước là để đảm bảo đồng vốn chẳng những được bảo toàn mà còn được phát triển (gia tăng giá trị của chủ sở hữu).

Thứ năm, đối tượng hoạt động của công ty là các doanh nghiệp, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có phần vốn góp của nhà nước như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

ở Việt Nam, tháng 10/1999, Chính phủ quyết định giải thể Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, thành lập Cục tài chính doanh nghiệp trực thuộc Bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn nhà nước đã đầu tư vào doanh nghiệp. Chức năng của Cục tài chính doanh nghiệp được cụ thể hoá như sau:

Một là, thống nhất quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp thuộc các thanh phần kinh tế trong cả nước, có thể tóm tắt các công việc cơ bản như sau:

+ Tổ chức nghiên cứu chiến lược và đề xuất các vấn đề cóm liên quan đến tài chính doanh nghiệp; dự báo khả năng động viên tài chính từ doanh nghiệp, qua đó xây dựng các chính sách, chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ quản lý, bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp, chế độ hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp và các chế độ khác có liên quan đến quản lý tài chính doanh nghiệp theo quy định của Bộ trưởng Bộ tài chính;

+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính; chế độ quản lý vốn nhà nước; chế độ kế toán, kiểm toán doanh nghiệp thống nhất trong cả nước;

+ Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong cả nước, đồng thời tổ chức thông tin tài chính doanh nghiệp nhằm cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và khách hàng những thông tin cập nhật, chính xác đầy đủ về tình hình tài chính doanh nghiệp; hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính doanh nghiệp;

Thứ hai, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp do Thủ tướng chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập hoặc góp vốn trong đó:

+ Hướng dẫn doanh nghiệp kiểm kê đánh giá tài sản, xác định số vốn nhà nước; tổ chức giao vốn cho các doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính;

+ Tổ chức đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong các trường hợp giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi quyền sở hữu; giám sát việc xử lý vốn, tài sản nhà nước trong các trường hợp chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản và chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước; giám sát việc phân phối lợi nhuận sau thuế, việc sử dụng các quỹ tại doanh nghiệp;

+ Thẩm định nhu cầu hỗ trợ tài chính hàng năm và cấp phát các khoản chi hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tham gia ý kiến về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp trọng điểm, các tổng công ty nhà nước; tham gia xây dựng và thông báo chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước hàng năm của doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính; tham gia các phương án giá sản phẩm và dịch vụ do nhà nước quy định giá; tham gia việc xây dựng đơn giá, quỹ tiền lương và xếp hạng doanh nghiệp theo quy định của nhà nước;

+ Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp; kiểm tra báo cáo tài chính, xác định khả năng hoàn trả nợ, mức độ bảo toàn và phát triển vốn hàng năm của doanh nghiệp;

+ Tổng hợp, phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn, việc bảo toàn và phát triển vốn thuộc sở hữu nhà nước tại các loại hình doanh nghiệp trong cả nước và theo ngành kinh tế;

+ Quản lý các quỹ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp do Bộ trưởng Bộ tài chính uỷ quyền;

+ Hướng dẫn các Sở tài chính-vật giá thống nhất quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp do tỉnh thành phố thành lập hoặc góp vốn, tổng hợp phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trên địa bàn;

+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ tài chính giao.

Dưới Cục tài chính doanh nghiệp, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính vật giá. Cục tài chính doanh nghiệp quản lý trực tiêp các doanh nghiệp nhà nước trung ương. Các doanh nghiệp nhà nước địa phương chịu sự quản lý trực tiếp của các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính-vật giá tỉnh, thành phố.

Hình thức phân công mới này có ưu điểm ở chỗ do doanh nghiệp nhà nước vẫn được tổ chức theo hai hình thức, đó là doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương, đồng thời việc tổ chức cán bộ ở địa phương do UBND tỉnh quyết định, ở trung ương do Bộ ngành quyết định. Mặt khác các doanh nghiệp trung ương lớn thường có các chi nhánh ở các địa phương khác nhau nên việc quản lý theo vùng sẽ hạn chế, đặc biệt là các Tổng công ty thường tập trung ở các địa bàn thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh... sẽ khiến cho việc quản lý ở các địa phương rất phức tạp.

Sơ đồ quản lý như sau:

Có thể nói rằng, sự ra đời và đi vào hoạt động theo hệ thống dọc từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố đã giải quyết được những vấn đề có tính nguyên tắc trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, đó là thu gọn đầu mối, thực hiện nguyên tắc một đầu mối cho từng chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, từng bước xoá bỏ cơ chế chủ quản, sự phân biệt giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương.

Dựa trên các căn cứ về quản lý vốn nhà nước đã được thiết lập (các văn bản pháp luật liên quan), các cơ quan quản lý (đã được phân cấp quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp) sẽ tổ chức thực hiện quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo phạm vi chức năng của mỗi cấp đã được quy định.

Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước

Một việc không dễ song không thể thiếu trong hoạt động quản lý là phải xác định được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá và xét duyệt các trường hợp để đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp một cách hợp lý.

Nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu vốn của doanh nghiệp thường xuyên biến động tuỳ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường. Đồng thời các doanh nghiệp khác nhau với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nhu cầu về vốn cũng khác nhau. Do vậy, xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp là việc làm cần thiết của các nhà quản lý. Các nhà quản lý thường dùng hai phương pháp sau:

Thứ nhất, phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, đây là phương pháp dự tính ngắn hạn, đơn giản nhưng đòi hỏi phải hiểu rõ quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải hiểu rõ tính quy luật của mối quan hệ giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm với tài sản, vốn và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây có thể là phương pháp ước tính nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong thời gian ngắn, vì cơ bản nó dựa trên giả thiết cho rằng tất cả các chi phí thành phẩm sẽ chiếm một tỷ lệ ổn định trong doanh thu bán hàng tương lai, không thay đổi so với tỷ lệ của chúng trong quá khứ. Tỷ lệ phần trăm trên doanh thu này là tỷ lệ chi phí trung bình trong hai năm gần đây và mỗi khoản mục của báo cáo nhu cầu vốn dự kiến được tính theo tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu. Khi tìm được tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu thì việc xây dựng báo cáo nhu cầu sử dụng vốn cho năm kế tiếp theo phương pháp phần trăm trên doanh thu khá đơn giản.

Thứ hai, phương pháp hồi quy, đây là phương pháp dự tính dài hạn, bản chất của phương pháp này dựa trên lý thuyết tương quan trong toán học. Khi sử dụng phương pháp này, nhà quản lý vốn cũng cần xuất phát từ doanh thu tiêu thụ. Phương pháp hay được sử dụng để xem xét khả năng nguồn đối với các khoản có liên quan trực tiếp tới tăng giảm doanh thu.

Sau khi đã xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp, công việc này được thực hiện căn cứ vào các quy định đã được nêu ra trong các văn bản pháp luật liên quan.

ở nước ta, cấp vốn đã trở thành hình thức đắc lực nhất đối với doanh nghiệp nhà nước trong suốt thời kỳ bao cấp. Đến nay tuy đã giảm nhiều song các doanh nghiệp nhà nước vẫn được bao cấp nhiều qua giá và qua cấp vốn từ ngân sách nhà nước. Trước đây và hiện nay, Nhà nước cấp toàn bộ vốn cố định và một phần vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước căn cứ vào nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp, thường là 30%. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được xác định theo công thức sau:

Nếu trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thiếu vốn, số vốn thiếu xin được cấp bổ sung. Nhu cầu vốn cấp bổ sung tính theo công thức:

Số vốn thiếu xin được cấp bổ sung = Nhu cầu vốn lưu động - Số vốn lưu động hiện có tài doanh nghiệp

Trong những năm qua, Chính phủ đã xét duyệt để cấp vốn bổ sung cho nhiều doanh nghiệp theo nhiều dự án. Trong 3 năm 1997-->1999, Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước gần 8000 tỷ đồng, trong đó 6428 tỷ đồng là để cấp vốn bổ sung cho các doanh nghiệp. Có thể thấy việc quản lý nhu cầu, cấp phát vốn đã từng bước chặt chẽ hơn. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước một cách có trọng điểm hơn chứ không dàn trải như trước. Vốn được cấp cho doanh nghiệp nhà nước một cách hợp lý hơn. Các doanh nghiệp được nhà nước đầu tư vốn phải nằm trong chiến lược phát triển của Nhà nước và phải thoả mãn một số yêu cầu nhất định. Đồng thời, mức hỗ trợ tối đa cũng được quy định rõ. Ví dụ như trong đợt hỗ trợ vốn năm 1998 quy định rõ các đối tượng được xét đầu tư vốn là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, các doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập đang hoạt động có sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, chế biến hàng nông hải thuỷ sản, xây dựng các công trình quan trọng của nhà nước với những điều kiện cụ thể cho mỗi loại hình doanh nghiệp về doanh thu lợi nhuận và mức nộp ngân sách. Nhờ có sự chọn lọc trong nhu cầu vốn bổ sung này mà đồng vốn của nhà nước trong những năm gần đây đã được sử dụng có hiệu quả hơn và đúng đối tượng hơn. Trong hai năm 1997 và 1998, Nhà nước đã đầu tư thêm vào một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thông qua việc cấp bổ sung một lượng vốn đáng kể (khoảng 3000 tỷ đồng) cho các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao và có thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp đã biết kết hợp vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Số vốn tự bổ sung của một số ngành chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn chủ sở hữu và cũng tăng về số tuyệt đối liên tục qua các năm, ví dụ: ngành Hàng hải, Bưu điện, Hàng không. Kết quả thống kê của Cục tài chính doanh nghiệp cho biết: Quy mô vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua tăng. Tuy nhiên, việc cấp vốn của nhà nước vẫn còn những hạn chế. Hiện tượng thiếu vốn trầm trọng tại số đông các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay là một minh chứng cho sự chưa hợp lý trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng chung của các doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay là tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn nhà nước không đủ mức tối thiểu cho sản xuất kinh doanh. Có tới 60% doanh nghiệp nhà nước không đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP. Trên 50% các doanh nghiệp nhà nước chưa đủ vốn lưu động tương ứng với quy mô hoạt động kinh doanh. Tổng công ty nhà nước được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển song hiện vẫn có tới gần 80% số Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân của các Tổng công ty, trong đó 35% Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Con số này chứng tỏ có tình trạng chênh lệch về vốn khá lớn giữa các Tổng công ty và số Tổng công ty thiếu vốn, ít vốn là chiếm đa số.

Bên cạnh nguồn vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, sử dụng, nguồn vốn huy động được bằng việc sử dụng các khoản nợ, đặc biệt là các khoản vay cũng được quản lý khá chặt chẽ do nó ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. ở nước ta, các khoản nợ phải trả cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước. Theo kết quả kiểm kê nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước thời điểm 0 giờ ngày 1/1/2000, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước là 527.267 tỷ đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 173.857 tỷ đồng (chiếm 32,9%), còn tổng vốn huy động qua các khoản nợ phải trả là 353.410 tỷ đồng (chiếm tới 67% tổng nguồn vốn). Việc huy động vốn qua các khoản nợ cũng ngày một tăng. Nợ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng về quy mô cũng như về tỷ trọng trong cơ cấu vốn đối với một số doanh nghiệp nhà nước. Điều này phản ánh khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp có tăng lên.

Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước

Là một loại hình doanh nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc điểm như các loại hình doanh nghiệp khác về tư cách pháp nhân, về điều kiện và mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước. Vì vậy để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và bảo vệ lợi ích của mình với tư cách là chủ sở hữu. Nhà nước cần thiết phải thực hiện hoạt động giám sát. Giám sát sử dụng vốn nhà nước là một nội dung quan trọng của hoạt động giám sát tài chính-một bộ phận của giám sát doanh nghiệp nhà nước, đó là việc theo dõi kiểm tra của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý nhằm hướng các hoạt động của khách thể quản lý theo đúng mục tiêu mà chủ thể quản lý đã lựa chọn, phủ hợp với quy chế pháp luật hiện hành. Giám sát sử dụng vốn nhà nước vừa là yêu cầu khách quan, vừa xuất phát từ chức năng quản lý nhà nước với doanh nghiệp, vừa do yêu cầu bảo vệ lợi ích của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu.

Các đơn vị quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện vai trò quản lý nhà nước thông qua giám sát. Việc giám sát nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, hiệu quả sự dụng vốn và khả năng thanh toán nợ đối với từng doanh nghiệp để xem xét quyết định việc tăng thêm hoặc giảm bớt số vốn đầu tư vào doanh nghiệp, xếp loại doanh nghiệp và quyết định thưởng phạt đối với người quản lý và điều hành doanh nghiệp hoặc sắp xếp lại doanh nghiệp. Ngoài ra, giám sát doanh nghiệp còn để đánh giá việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ tài chính, chuẩn mực kế toán hiện hành và đánh giá tổng thể về tình hình hoạt động sản xuất kinh đoanh của doanh nghiệp để phục vụ cho việc ban hành, hoàn thiện các chính sách vĩ mô và chế độ đối với doanh nghiệp trong từng ngành, từng lĩnh vực, thực hiện sự hỗ trợ đối với trường hợp cần hỗ trợ của nhà nước nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời và phát triển doanh nghiệp. Các hình thức giám sát doanh nghiệp nhà nước bao gồm:

Thứ nhất, giám sát từ bên trong: là giám sát nội bộ do các tổ chức của doanh nghiệp như kiểm toán nội bộ, ban kiểm soát, thanh tra nhân dân và do doanh nghiệp tự tổ chức thực hiện.

Thứ hai, giám sát từ bên ngoài: là giám sát do cơ quan chức năng của nhà nước hoặc các tổ chức cá nhân bên ngoài doanh nghiệp tổ chức thực hiện. Việc giám sát bên ngoài doanh nghiệp được thực hiện dưới hai hình thức:

Một là, giám sát gián tiếp: là theo dõi và kiểm tra từ xa thông qua báo cáo tài chính, thống kê và chế độ báo cáo khác do các cơ quan chức năng của nhà nước quy định, thông qua báo cáo công khai tình hình tài chính tại thị trường vốn, thị trường chứng khoán.

Hai là, giám sát trực tiếp: được thực hiện bằng các hoạt động kiểm tra, thanh tra, khảo sát nắm tình hình trực tiếp tại doanh nghiệp.

Ngoài ra, còn có thể thông qua các công ty tư vấn (bao gồm công ty tư vấn tài chính kế toán, thuế, các công ty kiểm toán độc lập, công ty đánh giá tài sản...) để thực hiện các dịch vụ về giám sát doanh nghiệp.

Có thể giám sát trước, trong quá trình thực hiện và sau khi thực hiện:

+ Giám sát trước khi thực hiện là việc kiểm tra tính khả thi của các dự án như kế hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn; dự án đầu tư xây dựng hoặc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, dự án huy động vốn...

+ Giám sát trong quá trình thực hiện là theo dõi, kiểm tra hoặc thanh tra tính hiệu lực của các quy định pháp luật, nguyên tắc quản lý điều hành của doanh nghiệp và hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp.

+ Giám sát sau khi thực hiện là việc theo dõi, kiểm tra, thanh tra các kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở các báo cáo kết quả hoặc quyết toán định kỳ và giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật, quyết định của chủ sở hữu hoặc điều lệ doanh nghiệp.

Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:

  • Hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời:

Chỉ tiêu này dùng để xem xét một đồng doanh thu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.

Chỉ tiêu này được dùng để xem xét một đồng vốn chủ sở hữu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.

  • Mức độ bảo toàn vốn:
Số vốn nhà nước bảo toàn cuối kỳ = Số vốn nhà nước đầu kỳ + Số vốn nhà nước đầu tư thêm hoặc rút về + Số vốn đầu tư thêm từ lợi nhuận sau thuế
  • Khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán nhanh =
Tiền
Nợ ngắn hạn

Các chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nợ quá hạn của doanh nghiệp.

Hiệu quả của việc quản lý sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước được thể hiện bằng hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các doanh nghiệp nhà nước.

Trong công tác kiểm tra giám sát quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cần:

Thứ nhất, nắm được tình hình vốn, tài sản của doanh nghiệp trong cả nước và phân loại theo doanh nghiệp nhà nước trung ương, doanh nghiệp nhà nước địa phương một cách có hệ thống;

Thứ hai, thiết lập cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về doanh nghiệp nhà nước ở các địa phương và trung ương dựa trên tiêu chí nhất định. Cơ sở dữ liệu sẽ phục vụ cho việc phân tích đánh giá về doanh nghiệp nhà nước không chỉ của cơ quan tài chính mà của nhiều ngành chức năng của trung ương, các chuyên gia trong nước và quốc tế; giúp phân biệt giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn, đóng vai trò quyết định trong nền kinh tế. Chất lượng của cơ sở dữ liệu cần được nâng cao bằng việc xử lý, sắp xếp khoa học các dữ liệu. Khai thác, sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu sao cho có hiệu quả, không chỉ phục vụ cho việc đánh giá tổng quát tình hình doanh nghiệp cả nước mà còn được sử dụng đề phân tích đánh giá từng doanh nghiệp, từng ngành...

Thứ ba, bên cạnh việc giám sát từ xa cần thực hiện việc giám sát tại chỗ. Hàng năm, tuỳ theo điều kiện cụ thể tình hình quản lý vốn của các doanh nghiệp, cơ quan quản lý tài chính doanh nghiệp tổ chức kiểm tra theo chuyên để hoặc kiểm tra toàn diện ở một số hoặc toàn bộ các doanh nghiệp trên địa bàn. Việc kiểm tra như vậy giúp cho doanh nghiệp nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý vốn, hạch toán kế toán...

Thêm vào đó, các cơ quan thanh tra tài chính, kiểm toán nhà nước cùng tiến hành thường xuyên việc thanh tra và kiểm toán tại doanh nghiệp nhà nước. Việc kiểm tra này sẽ giúp khắc phục được một số yếu kém còn tồn tại trong công tác quản lý vốn, đồng thời qua đó góp phần làm tăng thu cho ngân sách nhà nước.

Việc giám sát, kể cả giám sát từ xa và giám sát tại chỗ cần tập trung vào đánh giá, phát hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó dự báo sớm tình hình mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp và đề xuất biện pháp để ngăn chặn tình trạng này. Công tác giám sát cần giúp cho việc đánh giá đúng thực trạng tình hình quản lý vốn và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, như việc phát hiện doanh nghiệp bị thua lỗ, doanh nghiệp đầu tư lãng phí, công nghệ thiết bị lạc hậu, khả năng tiêu thụ sản phẩm, giá thành sản phẩm và khả năng thu hồi vốn không được tính toán kỹ... để có biện pháp ngăn chặn kịp thời;

Thứ tư, kênh thông tin từ doanh nghiệp lên các cơ quan tài chính cũng như trong hệ thống cơ quan tài chính doanh nghiệp thường phải nhanh, đầy đủ.

0