Người Việt tị nạn tại Hương Cảng
Tiêu “Bắt đầu từ nay” “Pất lầu tùng lai” là cách phát âm cụm từ 不漏洞拉 (HV: bất lậu động lạp) trong tiếng Quảng Đông của người Hương Cảng. Bổn thân cụm từ nầy không có nghĩa mà nó chỉ là cách phát âm theo giọng địa phương của người Hương Cảng cụm từ ...
Tiêu
“Bắt đầu từ nay”
“Pất lầu tùng lai” là cách phát âm cụm từ 不漏洞拉 (HV: bất lậu động lạp) trong tiếng Quảng Đông của người Hương Cảng. Bổn thân cụm từ nầy không có nghĩa mà nó chỉ là cách phát âm theo giọng địa phương của người Hương Cảng cụm từ “Bắt-đầu-từ-nay” trong tiếng Việt. Cụm từ nầy đã trở nên rất phổ biến và rất nổi tiếng. Những sự việc liên quan tới cụm từ nầy đã gây ra một số ảnh hưởng cực kì nghiêm trọng tới xã hội Hương Cảng lúc bấy giờ.
Thời kì sau 1975, Việt Nam gần như đóng cửa với truyền thông bên ngoài (cớ như Bắc Hàn bây giờ), những thông tin liên quan Việt Nam rất được thế giới quan tâm. Một số đồng bào “tị nạn” người Việt đã có những hành vi, hành động không khác gì “bôi lọ” dân tộc. Trong những trại tị nạn, dầu không đói khát nhưng họ sẵn sàng chém giết nhau chỉ vì một miếng ăn, một lời nói hây đơn giản hơn là vì họ mạnh hơn….
Rồi một ngày nào đó, tại một nước nào đó, những người “tị nạn” ngày đó sẽ kể cho con em họ nghe về ngày xưa họ chịu bao nhiêu là nguy với hiểm, đói với khát, khổ với sở như thế nào… nhưng họ có kể cho con em họ nghe là ngày xưa họ mài thanh sắt để chém đồng bào của mình, vạt ống nước để đâm đồng bào của mình… ra làm sao không?
Không phải tự nhiên mà mấy tay nhà báo “vui tánh” phương Tây thường kêu nước mình là đất nước của những người “khoái bỏ phiếu bằng chưn”. Nghe xúi giục về thần thánh gì gì đó là bỏ quê hương đi theo. Bất đồng chánh kiến, không khoái, không ưa gì đó cũng bỏ đi. Đất nước nghèo khổ quá cũng bỏ đi. Thậm chí không biết gì hết thấy người ta kéo nhau đi cũng chen lấn đi theo chớ cũng chưa biết là đi đâu nữa… Thôi thì đủ thứ lý do trên trời, dưới đất mà người nào cũng tự cho là “tị nạn” hết.
Sau ngày thống nhứt đất nước, hơn một triệu người Việt đã “xuất cư bất hiệp pháp”. Một con số khổng lồ (con số thiệt tế còn có thể cao hơn nữa vì khi đi thì có ai khai báo gì đâu), thiệt sự là dân tộc bị chảy máu. Những người nầy thường ra đi trên những con tàu không an toàn và chịu nhiều nguy hiểm. Truyền thông Tây phương gọi họ là “Boat people” và được người Việt mình dịch lại thành “Thuyền nhơn”. Cũng cần nói thêm là ngoài những “Thuyền nhơn” ra thì còn một số người xuất cư theo đường bộ qua ngã Lào và Miên để tới Thái nữa, có lẽ do băng rừng vượt núi nên ít khi thấy truyền thông Tây phương đề cập.
Một số vùng có đông người vượt biên đã được Liên Hiệp Quốc hoặc nước sở tại lập trại tị nạn để cho tạm trú trong thời gian chờ định cư tại nước thứ ba. Các nước và vùng lãnh thổ tiếp nhận “thuyền nhơn” Việt là Hương Cảng, Thái, Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân.
Phần Hương Cảng thì có tất cả là 10 trại, mở không đồng loạt và tất cả đã đóng cửa từ năm 2000. Sau đây mình chỉ nói về người Việt tị nạn ở các trại Hương Cảng thôi nghen. Tiêu xin viết lại theo dạng tường thuật sơ lược kèm hình ảnh. Tất cả các hình ảnh nầy Tiêu chôm từ trên mạng lưới Tây có, Tàu có, Việt có, hằm pà lằng. Hình ảnh Tiêu sắp xếp theo chiều kim đồng hồ, bắt đầu từ hình ở góc chữ A bên trái,
Ngày 4.5.1975 con tàu Đơn Mạch tên là Clara Maersk chở theo 3 473 (tài liệu khác nói 3 628) người Việt (trong đó có nhiều người là những “chú Thoòng” ở Chợ Lớn) cập bến Hương Cảng, Chánh phủ Hương Cảng coi họ là những người “nhập cư bất hiệp pháp” nhưng chấp nhận cho họ “tạm trú”. Đây là đánh dấu cho sự khởi đầu của làn sóng người Việt di cư tị nạn tới Hương Cảng,
Việc tiếp nhận và giúp đỡ những người Việt nhập cư là việc Hương Cảng nên làm và phải làm. Chánh quyền và người dân Hương Cảng không biết được rằng từ lúc con tàu Đơn Mạch đổ bộ lên Cảng thì cũng là lúc Hương Cảng đang tự thắt một cái dây để buộc mình.
1, Hương Cảng mở một số trại tị nạn để tiếp nhận thuyền nhơn. Những người lính trong ảnh là lính Ni Bạc Nhĩ (Nepal) thuộc quân đội Huỳnh gia Anh đương phát thức ăn cho người “tị nạn”. Khoảng thời gian nầy do số lượng người tị nạn chưa nhiều nên nhà chức trách Hương Cảng còn nhiệt tình giúp đỡ, Liên Hiệp Quốc và một số nước Tây phương hứa hẹn sẽ giải quyết sớm vấn đề “định cư ở nước thứ ba” nên nói với Hương Cảng đại loại là “chú cứ an tâm”.
2. Cảng đốc đã tới thăm các trại tị nạn Tây Cống (Sai Kung – trung tên với Sài-gòn), Phấn Lãnh (Fan Ling) và Thạch Cương (Shek Kong) ngày 9.5.1975. Lúc nầy, nhà chức trách Hương Cảng rất tin tưởng vô lời hứa của phương Tây.
3. 103 người tị nạn Việt nhập cư sau khi lên bến tàu, giờ họ xếp hàng chờ xe được chuẩn bị sẵn để tới sân bay Khởi Đức (Kai Tak) vào buổi chiều để bay tới Loan Đảo (đảo Guam). Ảnh chụp ngày 18.5.1975. Những người Việt ra đi trong khoảng thời gian nầy phần lớn là người có địa vị và có tiền, giá tàu lúc đó là vàng tính bằng “chục cây” thôi, còn không đủ tiền thì đừng mơ.
4. Ngày 22.5.1975, mười lăm người tị nạn đầu tiên được sang Pháp định cư, họ vui vẻ trao đổi với các phóng viên. Mấy con số 103 hây 15 nầy chẳng thấm vô đâu so với số tổng nhưng cũng đủ để cho mấy tay nhà báo chụp ảnh, viết bài về “lòng nhơn đạo” của mấy nước Tây phương. Con số khổng lồ phần còn lại Hương Cảng oằn mình lãnh đủ mà không ai đề cập.
Làn sóng tị nạn chưa có dấu hiệu dừng lại mà cứ mỗi lúc một nhiều hơn. Giờ giá tàu vượt biên đã có phần “hạ nhiệt” nên những người ít tiền hơn những đợt trước cũng có thể đi được. Việc người tị nạn Việt Nam ra nước ngoài đã quá “nhàm”, giờ không còn gây nhiều chú ý với dư luận thế giới nữa.
4. Trước những lời kêu gọi cứu mạng thảm thiết, ngày 20.1.1979 Chánh quyền Hương Cảng cho người tị nạn trên tàu Hối Phong lên bờ tạo tiền lệ để các tàu khác cũng bắt chước theo.
1. Đêm 7.2.1979, một tàu quốc tịch Ba Nã Mã “Thiên vận hiệu” (Skyluck) chở hơn 2 700 Thuyền nhơn lợi dụng bóng tối tiến vào Hương Cảng. Con tàu nầy thì cũng như bao con tàu khác chở người tị nạn nhưng những sự kiện tiếp theo làm cho nó vô cùng nổi tiếng.
2. Mờ sáng hôm sau, nhà chức trách Hương Cảng phát hiện tàu đã cho cảnh sát bao vây, giữ 24/24 giờ, tháo các động cơ tránh tình trạng tàu chạy lung tung. Trong ảnh hai con tàu nhỏ là tàu Cảnh sát. Đây là một tấm ảnh “chơn dung” con tàu nổi tiếng nầy đăng trên báo giấy Hương Cảng.
3. Chánh phủ Hương Cảng cho tàu và trực thăng mang lương thực, thuốc men, y tế và vật dụng lên tàu chớ quyết tâm không cho đổ bộ.
4. Ảnh từ báo giấy Hương Cảng về sự việc nầy. Chánh phủ Hương Cảng quyết tâm không cho đổ bộ để tiếp tục gây sức ép mạnh với mấy “con ma nhà họ Hứa” về vấn đề “định cư ở nước thứ ba”. Hương Cảng không nhơn nhượng nữa, quyết làm căng vụ nầy.
1. Chờ đợi hằng tháng trời mà vẫn chưa nhận được tin khi nào được lên đảo, một số thuyền nhơn khỏe mạnh trên tàu Thiên vận đã quyết định nhẩy xuống biển để bơi vô bờ (cốt là để cho cánh săn ảnh ghi nhận) nhưng sau đó nhanh chóng bị cảnh sát Hương Cảng bắt lấy và trả lại lên tàu.
2. Sau 4 tháng rưỡi chờ đợi nhà chức trách thì ngày 29.6.1979 những người tị nạn đã quyết định mặc kệ những lời cảnh cáo của nhà chức trách, họ cắt xích neo, con tàu trôi và đập vô đá ở một hòn đảo nhỏ mang tên Nam A (Lam Ma). Cuối cùng người tị nạn trên tàu đã lên được bờ nhưng điểm tới tiếp theo không phải là trại tị nạn mà là đồn cảnh sát.
3. Lên được bờ rồi, số phận tàu Skyluck thì như vầy đây. Bấm vô đây coi hình lớn hơn, các bằng hữu có thể nhận thấy rõ chữ “Thiên” 天 (thực tế chữ màu đỏ) trên ống khói tàu. Biểu tượng khá nổi tiếng để dễ dàng nhận biết sự kiện nầy.
4. Sự kiện tàu Thiên vận đã làm cho Hương Cảng gặp không biết bao nhiêu là rắc rối. Xứ Cảng Thơm giờ chìm ngập trong những lời chỉ trách gởi tới từ khắp thế giới. Sức chịu đựng thì cũng có giới hạn nhưng những rắc rối mà người Việt nhập cư gây ra thì không có giới hạn. Tuy nhiên đó vẫn chưa phải là tất cả, nó chỉ mới bắt đầu…
Tàu Thiên vận ép nhà cầm quyền được thì các tàu khác sao lại không làm được. Những người tị nạn trên những con tàu khác cũng kéo tới rồi cũng gây sức ép lên nhà chức trách phải cho họ lên bờ.
1. Tàu nối tiếp tàu từ Việt Nam qua Hương Cảng ngày càng nhiều mà Hương Cảng không có cách nào để từ chối. Chiếc nầy tới từ tỉnh Ninh Bình.
2. Bất kể tàu lớn tàu nhỏ gì miễn chạy được là đua nhau tới Hương Cảng. Có một chiếc tàu Đà Nẵng chạy qua.
3. Những cánh buồm xinh đẹp đặc trưng mà Vịnh Hạ Long bây giờ hây quảng cáo cũng được sử dụng vào mục đích nầy.
4. Nón cối! Trong hình có rất nhiều nón cối. Giờ thì có rất nhiều người miền Bắc cũng kéo nhau tới Hương Cảng để “tị nạn”. Họ đã sống bao nhiêu năm với Nhà nước Việt Nam hiện tại rồi sao không nghe nói “nạn” gì, bây giờ thấy người miền Nam đi nhiều quá, họ cũng đi và cũng khoác lên mình cái áo “tị nạn”. “Nạn” gì? Nhà chức trách Hương Cảng không thể để bị “qua mặt” mãi, giờ phải có chánh sách với mấy người nầy.
1. Ngày 11 tháng chín năm 1979, số lượng người tị nạn Việt mắc kẹt tại Hương Cảng đạt tổng cộng 68 695 người.
2. Thời kỳ 1979 tới dầu thập niên 90 Hương Cảng đã tiếp nhận khoảng 250 000 lượt người Việt tới xin tị nạn
3. Tàu nối tiếp tàu
4. Người nối tiếp người “tị nạn” cứ đổ tới Hương Cảng. Nhà chức trách Hương Cảng không còn cách nào khác đành phảo tiếp nhận họ thôi.
***
Trước ngày 16.6.1988 thì bất cứ người Việt “vượt biên” (nhập cư bất hiệp pháp) nào tới Hương Cảng cũng đều được tự động coi là “người tị nạn” và hưởng những chánh sách liên quan rồi sau đó được sắp xếp cho “định cư ở nước thứ ba”. Tình hình hết sức tồi tệ, chánh quyền Hương Cảng lúc đó lâm cảnh “Tứ diện Sở ca”: người dân thì vô cùng bất bình khi hòn đảo bé nhỏ phải liên tục tiếp nhận người “tị nạn”, người “tị nạn” thì kêu gào, đòi hỏi đủ thứ, dư luận thế giới thì chỉ trách liên hồi, đưa mắt săm soi nhứt cử nhứt động… Quá oải, tình thế ép buộc họ phải tự cứu mình:
Từ sau ngày kể trên thì những người “nhập cư bất hiệp pháp” tới Hương Cảng phải được phỏng vấn và sàng lọc trước khi được công nhận là người tị nạn. Những người không được công nhận là tị nạn sẽ bị “trả” về Việt Nam.
Người dân Hương Cảng sau hơn chục năm “lấy lúa ra đãi gà rừng” lại còn bị Liên Hiệp Quốc “quỵt tiền” nên ức chế dồn dập. Mà những vị khách không mời người Việt có hiền lành gì cho cam, từ khi tới Cảng, người Việt Nam tị nạn tại đây đã lập hàng loạt những kỉ lục mà không ai có thể hãnh diện nổi. Xã hội Hương Cảng chưa từng chứng kiến “loạn lạc” nào như vậy trước khi người Việt tới nhập cư. Sự việc rồi cũng kết thúc nhưng nỗi ám ảnh kinh hoàng mang tên “Pất lầu tùng lai” chắn chắn sẽ còn hằn sâu trong ký ức của người dân Cảng.
Đây là một số hình ảnh đồng bào mình lúc mới lên bờ Cảng tại chổ trú tạm thời mà chưa được bố trí trong các trại tị nạn. Người lúc nhúc, thiếu thốn đủ thứ, cuộc sống rất khó khăn.
Hình 1: Người tị nạn Việt Nam khi mới tới được được bố trí chổ ăn nghỉ tạm thời, trong hình có chữ “Thanh Châu tiếp đãi doanh”.
Hình 2: Để ổn định chổ ở cho người tị nạn Việt Nam và cách li họ với dân cư bổn xứ, Hương Cảng đã xây nhiều khu Trại tị nạn cho họ. Tuy nhiên cũng có nhiều người bằng cách nào đó đã trốn thoát khỏi sự kiểm soát của Chánh quyền Hương Cảng và gia nhập vào xã hội ngầm Hương Cảng. Trong ảnh các nhơn viên an ninh kiểm tra hành lí của người tị nạn trước cho “nhập trại”.
Hình 3: …và cho người tị nạn nhập trại. Trại tị nạn cũng phân loại “trại đóng” và “trại mở”. Vào “trại đóng” rồi thì nội bất xuất, ngoại bất nhập, chỉ có chờ đi định cư ở nước thứ ba thôi.
Hình 4: Các “A Sề” đang thực hiện điểm danh. Vô trại rồi những người tị nạn không còn sử dụng tên họ gì nữa, tất cả được quản lí bằng những con số. Người nào chết rồi thì cứ gạch số, tiện quản lí và cũng đỡ rắc rối trước dư luận quốc tế.
Trại tị nạn và thế giới bên ngoài chỉ cách nhau một hàng rào nhưng là hai thế giới khác biệt. Phía bên trong hàng rào là một thế giới không có Pháp luật mà chỉ tồn tại “Luật kẻ mạnh”. (Hình ảnh số 2 là trại Vọng Hậu Thạch như tên trên bảng)
Hình 1: Bên trong trại, khi những yêu cầu không được đáp ứng thì việc biểu tình đã thường xuyên xẩy ra thậm chí là bạo động. Khi có những bất đồng xẩy ra thì võ lực là thứ được đem ra giải quyết. Thông thường khi có “loạn” thì các A Sề sẽ không can thiệp mà chỉ đứng bên ngoài rào xem mặc cho người Việt bên trong chém giết lẫn nhau. Sau khi xong chuyện họ mới nhờ tới cảnh sát vô bắt người và nhờ y tế vô nhận tử thi và người bị thương.
Hình 2: Cuộc sống bên trong trại thiệt là khủng khiếp, mạng sống thì mong manh. Chẳng cách nào hây hơn, những người tị nạn gởi lời cầu cứu tới thế giới bên ngoài.
Hình 3: Những người tị nạn đương kêu gọi sự chú ý của dư luận thế giới, họ không muốn bị trả về Việt Nam.
Hình 4: Trong hình ta có thể thấy rõ lá cờ ba sọc của Chánh quyền miền Nam cũ trên tay một người miền Nam. Trong ảnh cảnh sát đặc nhiệm Hương Cảng đã xuất hiện trên mái nhà để đàn áp, vụ việc nầy không phải là nhỏ.
Ngày 3.2.1992, trùng thời điểm giao thừa, lúc 11 giờ tối. Trại Thạch Cương đã xảy ra cuộc đụng độ đẫm máu giữa hai phe miền Nam và miền Bắc. Nguơn nhơn thì có nhiều và có một lí do đáng chú ý là sự khác biệt về ý thức hệ, hai bên đã nhục mạ lãnh tụ đất nước của nhau dẫn việc hai bên “nói chuyện” với nhau bằng giáo, mác, dao, kiếm, bom xăng…
Cảnh sát Hương Cảng đã không có sự can thiệp cần thiết và mãi tới sáng hôm sau, với lực lượng áp đảo thì cảnh sát mới có thể vào bên trong trại và kiểm soát được tình hình. Từ 11 giờ tối tới 6 giờ sáng là cuộc sát phạt đẫm máu giữa những người Việt với người Việt. Kết quả là phe miền Bắc đã đánh bại phe miền Nam và tiến hành san thành bình địa, đốt trụi khu nhà miền Nam.
Theo nhiều tài liệu cho biết, hai bên đã chuẩn bị rất kĩ lưỡng cho cuộc đụng độ lần nầy. Đó là sự tính toán chớ không phải là mâu thuẫn bộc phát. Hậu quả khủng khiếp là 130 người bị thương, 24 người thiệt mạng. Đây chánh là xung đột đẫm máu nhứt trong lịch sử hình sự Hương Cảng từ trước tới nay. Sự việc gây chấn động mạnh tới thế giới. Một câu hỏi được đặt ra như nếu trong trại có lọt vô một khẩu súng thì sẽ ra sao, câu hỏi đó có lẽ nhiều người không dám nghĩ tới câu trả lời.
Một kỉ lục nữa được xác lập cho tư pháp Hương cảng về số lượng bị cáo. 170 người bị xét xử trong đó có 18 người bị kết tội “giết người” và một số bị cáo vẫn còn bị giam giữ trong các nhà tù Hương Cảng cho tới nay.
Trại Thạch Cương sau đó đã bị phá hủy, người tị nạn bị di dời qua các trại khác ở vùng xa xôi chổ giáp với Huê lục hây đảo xa. Sau vụ nầy nhà chức trách Hương Cảng đã để tâm và phân chia không cho người tị nạn hai miền Nam, Bắc sống chung trại với nhau nữa.
Hình 1: Ngày 7.1.1994 hơn một ngàn cảnh sát và đặc nhiệm đã được đưa tới hỗ trợ di dời 1 500 người tị nạn trước sự kháng cự mạnh mẽ của họ.
Hình 2: Tháng 4 năm 1995 cảnh sát lại được huy động để dẹp loạn ở trại Bạch Thạch (Whitehead). Trong một ngày cảnh sát đã thu giữ 3 250 đơn vị võ khí, trong đó có cả lựu đạn tự chế. Số lượng võ khí nầy đã xác lập một kỉ lục nữa đối với lịch sử Tư pháp Hương Cảng.
Hình 3: Tinh Đảo nhựt báo ngày 11.5.1996 đưa tin: Ngày 10.5.1996 Trại Bạch Thạch bùng phát bạo lực dữ dội, lửa nổi khắp trại, võ khí là các ống nước mài bén và đá gạch. 24 nhơn viên công lực bị những người tị nạn bắt giữ làm con tin, 26 khu nhà bị đốt trụi, 53 xe công bị phá hủy và khoảng 200 người tị nạn đã bỏ trốn khỏi trại.
Hình 4: Tháng 6.1996 người tị nạn Việt Nam đã cận chiến đẫm máu với nhau bằng ống nước vạt nhọn ở trại Vạn Nghi. Họ đã chống đối cảnh sát quyết liệt để cảnh sát đừng can thiệp vào cuộc chiến của họ. Không vào được bên trong trại, cảnh sát đã phải huy động lực lượng lớn và sử dụng súng để đẩy lùi họ khỏi cửa mà vào bên trong trại. Lúc đó cuộc chiến đã tàn, cảnh sát Hương Cảng đã rất vất vả để dọn dẹp chiến trường. Nguồn ở đây.
Hình 1; 2: Người tị nạn Việt “leo lên mái nhà” (đây là “thương hiệu” đặc trưng của họ) và chống đối với lực lượng công quyền hây dọa “tự sát” đã trở thành hình ảnh quen thuộc với dân bổn xứ. Trong một số bộ phim Hương Cảng thời kì nầy hình ảnh nầy cũng dễ bắt gặp.
Hình 3: Hình ảnh nầy chụp trên một đường phố Hương Cảng thời giữa thập niên 90. Một số người tị nạn Việt Nam không biết bằng cách nào đã trốn thoát khỏi trại và gia nhập vào xã hội ngầm xứ Cảng. Họ bắt tội phạm tệ hơn bắt chó, có thể nhận ra đây không phải là cách hành xử của cảnh sát Hương Cảnh đối với người bổn xứ khi họ vi phạm pháp luật.
Hình 1: Người tị nạn Việt Nam quậy liên tục, Nhà nước Hương Cảng đã quá “oải” với người tị nạn Việt Nam. Vậy còn người dân Hương Cảng thì sao?
Hình 2: Quá chán nản với các trại tị nạn người Việt, những tình cảm xót thương ban đầu của dân Hương Cảng dành cho người Việt tị nạn dần không còn. Trong ảnh là nam phụ lão ấu Hương Cảng phản đối việc xây trại tị nạn cho người Việt, bên ngoài “Thành khu nghị viện” Cửu Long.
Hình 3: Lúc đầu khi người Việt tị nạn mới qua, người dân Hương Cảng đã góp tiền, góp quần áo cũ, phát thức ăn… Nhưng những gì người Việt tị nạn ở đây đã làm khiến cho người dân bổn xứ không thể thương yêu họ nữa. Một bức ảnh nữa về việc phản đối của người dân đối với vấn đề người tị nạn Việt Nam.
Hình 4: Người dân Hương Cảng không hiểu tại sao họ đầu tắt mặt tối kiếm tiền, nộp thuế cho nhà nước để nhà nước nuôi mấy ông nầy. Theo sở An Ninh Hương Cảng năm 1983, tiền chi phí ăn ở cho người tị nạn Việt Nam, hằng năm khoảng 270 triệu Cảng nguơn (đơn vị tiền Hương Cảng) – 110 triệu do chánh phủ Hương Cảng đài thọ và 120 triệu do Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc và số còn lại các nước khác đóng góp.
Năm 2000, trại tị nạn cuối cùng dành cho người Việt đã đóng cửa. Rất nhiều người đã thở phào nhẹ nhõm. Lãnh thổ Hương Cảng vui mừng vì đã tháo được sợi dây mà tự mình buộc mình suốt mấy chục năm qua. Người dân Hương Cảng vui mừng vì đã “tống cổ” được những vị khách “hung hăng và vô cùng bất lịch sự” khỏi quê hương xứ sở của họ. Mặc dầu vậy, trong vụ nầy vui nhứt vẫn phải là Việt Nam, vậy là từ đây Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam không còn phải bị bạn bè quốc tế bêu riếu phản cảm vì một nhúm người “làm rầu nồi canh” đó nữa.
Nhà chức trách Hương Cảng đã tạo điều kiện cho một số người Việt sanh con tại Hương Cảng, cho họ nhập tịch nếu họ không muốn đi định cư ở nước thứ ba.
Trước khi cánh cổng trại tị nạn chánh thức đóng cửa, một số người tị nạn Việt Nam còn kịp bôi xấu mặt dân tộc thêm một lần nữa. Trước khi đóng cửa trại tị nạn, Chánh phủ Hương Cảng có cho họ một số tiền không nhỏ để hỗ trợ cuộc sống. mặc dầu vậy có hơn 100 người vẫn chưa hài lòng, họ muốn Nhà chức trách Hương Cảng phải cấp thêm tiền, cấp nhà và tiếp tục “nuôi” họ. Còn nếu không thì họ vẫn ở lì trong trại cho Chánh phủ Hương cảng nuôi tiếp.
Sự việc nầy khiến hai chữ Việt Nam lại lên đầy mặt báo thế giới, dân chúng Hương Cảng thì tức sôi máu. Ông Trần-Giám đốc Nha trợ cấp dân sự nói với họ là nếu không chịu ra ngoài thì Chánh phủ cũng không cấp thêm tiền nữa đâu. Ông nầy nói với báo chí “Chúng tôi kêu gọi họ mau dọn đi, họ có tay chưn, họ có thể tự mưu sanh được mà!”
Sự việc tiếp theo đó như thế nào không rõ nữa, không biết Chánh phủ có lén thêm tiền cho họ không mà cuối cùng 143 người cũng vui vẻ dời đi, chấm dứt luôn một chương sử không lấy gì hây ho lắm.
Tính cho tới năm 1998, Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc nợ Hương Cảng số tiền 1.162.000.000 HK$. (Chú thích ảnh: trên bảng có chữ 12 億 “ức”. Mỗi ức bằng mười vạn, đơn vị tiền trong bảng là Cảng nguơn). Đã rất nhiều lần đại diện Hương Cảng quyết tâm đòi nợ Liên Hiệp Quốc nhưng bộ phim “Con ma nhà họ Hứa” vẫn chưa kết thúc.
***
Cho tới ngày nay, ngoài hai tiếng “Duyệt Lam” thì người Hương Cảng vẫn gọi người Việt là
- 1 Nguyên tắc “văn nghệ phục vụ chính trị”
- 2 Tản mạn đôi điều về chữ Hán
- 3 “Phiến cộng” trong dinh Gia Long
- 4 Mối quan hệ văn – sử trong tác phẩm Nam Ông mộng lục
- 5 Đôi điều suy nghĩ về vương triều Nguyễn
- 6 Đại nhảy vọt (1958 – 1961): Sự điên khùng của một bạo chúa
- 7 Tư hữu đất đai thời Lý- Trần
- 8 Sách Hoài Nam Tử và cái chết của Lưu An
- 9 Tù binh Chàm thời Lý
- 10 Chính sách đối ngoại của Đức Quốc Xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933-1939)