29/01/2018, 21:19

Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Văn mẫu lớp 12

Nội dung bài viết1 Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 1 2 Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 2 3 Nghị luận xã hội về câu ...

Nội dung bài viết1 Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 1 2 Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 2 3 Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 3 Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 1 Dĩ vãng, kỷ niệm ấy, quá khứ ấy, có thể nâng cao hoặc hạ thấp giá trị của con người. Quá khứ ấy, kỷ niệm ấy sẽ thành sức mạnh, niềm tự hào hoặc ngược lại. Nói chung và dễ thấy ở quá khứ và dĩ vãng, thường là chuyện buồn, sự đau đáu, man mác, hoài niệm, trăn trở,… Quá khứ – dĩ vãng là những gì đời người đã trải qua, đã đi qua rồi, chỉ còn để lại trong ký ức nỗi nhớ, niềm bâng khuâng, dằn vặt nào đấy “rũ không ra, thả không buông”. Nếu mọi “sự đời” tất cả đều như thế thì con người ta không thể nào sống yên ổn một cách nhẹ nhõm, thanh thản được. Chẳng ai muốn thế, nhưng “sự đời” nó lại như thế. Chấp nhận hay không chấp nhận là bởi… tự mình. Không ai sống thay cho cuộc sống, cuộc đời của mình. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Yêu nhau, củ ấu cũng tròn. Ghét nhau, bồ hòn cũng méo”. Ký ức và quá khứ giữ vai trò “ghê lắm” về cái sự yêu, ghét ấy đối với nhau.Quá khứ nếu chỉ là điều buồn thảm, day dứt, thì đấy là quá khứ, hồi ức nguy hiểm, chỉ huỷ diệt không chỉ ý chí vươn lên của con người mà còn cả với tình yêu. Gọi là: Quá – khứ – tiêu – cực. Nhằm chế ngự (giảm bớt, làm cho quên đi, mất đi) loại quá – khứ – tiêu – cực, con người cần phải rất tỉnh táo, sáng suốt và dũng cảm, nhân hậu. Xưa đã thế và nay cũng thế. Càng “hiện đại” càng phải tỉnh táo. Quá khứ trước, sau… là việc đã qua rồi. Quan trọng là…bây giờ, là hiện tại. Quá khứ sẽ luôn luôn trỗi dậy, khi con người coi thường hoặc không coi trọng quá khứ. Đúng. Quá khứ trở về một cách dữ dội, nguy hiểm lắm. Khi tình yêu – lòng nhân hậu, yêu thương đã đứng ra ngoài, thì quá khứ sẽ tiêu diệt tình yêu. Đấy là sự thật, là chuyện có thật ở trên đời. Quay lại vấn đề, "Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn lại bạn bằng đại bác", câu nói thật hay và thật ý nghĩa, Chúng ta làm gì phải suy nghĩ cho tường tận, có trước có sau, có quá khứ thì mới có hiện tại hôm nay và tương lai ngày mai, một thoáng suy nghĩ bồng bột, nông cạn để chứng tỏ và thỏa mãn một cái gì đó mà trút bỏ quá khứ tất cả là điều không hay chút nào, phải suy xét cho tường tận, rộng và sâu một vấn đề, tâm và tầm cho một quyết định,… để quá khứ và hiện tại luôn ôn hòa, để nhìn về quá khứ mà vẽ được hướng tương lai. Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 2 Cuộc sống của con người được nuôi dưỡng bởi những ước mơ về tương lai tốt đẹp hơn, con đường trước mặt trải luôn thảm đỏ và hoa hồng. Nhưng liệu có ai có dịp ngoảnh lại chặng đường đã qua, để lục tìm trong kí ức những bài học dẫn đến thành công? Nhiều người tin rằng để thành công và thăng tiến trong cuộc sống cần phải biết lãng quên những sai lầm và thất bại trong quá khứ. Nhưng một số người khác lại coi kí ức như một điều quan trọng trong cuộc sống, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Vậy kí ức gây cản trở hay giúp con người trong nỗ lực học hỏi từ quá khứ để thành công trong hiện tại? Quả thật khi có những ý kiến trái chiều nhau, mỗi bên đều có lý do riêng để bảo vệ quan điểm của mình. Những ai cho rằng “cần phải biết lãng quên những thất bại và sai lầm trong quá khứ” có lẽ e ngại những kí ức về quá khứ thất bại và sai lầm sẽ làm con người trở nên do dự khi tiến hành chinh phục một mục tiêu nào đó. Quá khứ đối với họ như một vết đen, một dấu ấn không tốt luôn ám ảnh, thậm chí có thể làm ảnh hưởng đến sự nghiệp và tiền đồ của họ. Còn phía những người cho rằng kí ức là “cầu nối giữa quá khứ và hiện tại” thì tỏ ra lạc quan hơn, họ dám nhìn thẳng vào những sai lầm thất bại trong quá khứ để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết để tránh vấp ngã trong tương lai. Dù muốn lãng quên hay mang theo kí ức trên hành trang tiến vào tương lai, cả hai phía đều không thể phủ nhận sự tồn tại hiển nhiên của kí ức trong mỗi con người. Thực tế trong cuộc sống, ai không có những thất bại và sai lầm, xuất phát từ hoàn cảnh khách quan và yếu tố chủ quan của mỗi người. Nhà cách mạng Phan Bội Châu đã từng đúc kết thành bài học: “Tay ba lần gãy – mới biết thuốc tiên – Đánh trăm trận quen – Mới nên tướng giỏi – Nếu không thất bại – Sao có thành công? – Xưa nay anh hùng – từng thua mới được!”. Nhà thơ cộng sản Tố Hữu cũng từng viết : “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà không dại đôi lần?”. Các ý kiến trên đều chứng tỏ vai trèo quan trọng không thể phủ nhận của những bài học từ quá khứ sẽ quyết định cho sự thành bại của con người trong tương lai. Quá khứ dù có sai lầm hay thất bại thì ta cũng không thể chối bỏ được nó. Nhà thơ Abutalip của Đaghextan từng phát biểu: “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”. Nếu không biết tôn trọng quá khứ thì con người sẽ không tránh khỏi những va vấp trong cuộc sống, sẽ chuốc lấy những thất bại. Thực tế con đường đi tới thành công không bao giờ chỉ trải thảm đỏ và hoa hồng. Con người phải luôn đối mặt khó khăn thử thách thì mới có cơ hội thực sự trưởng thành và thăng tiến trong sự nghiệp. Những người muốn lãng quên quá khứ sai lầm và thất bại thực ra sẽ không thể nào dứt bỏ được kí ức mà ngược lại, kí ức ấy tồn tại một cách vô hình mỗi khi con người gặp những cảnh ngộ, những tình huống ở hiện tại tương tự như họ đã từng gặp trong quá khứ. Muốn thành công, họ không thể lặp lại vết xe đổ trước đó, còn nếu lãng quên thật sự thì chắc chắn sẽ chuốc lấy thất bại mà thôi! Sự thăng tiến ở những con người ấy nếu có, cũng chỉ là từ sự khôn ranh, cơ hội, che đậy suy nghĩ vụ lợi đầy tính toán ích kỉ, biểu hiện của lối sống bị cả xã hội lên án. Quan sát trong đời sống, mỗi một sự phát triển đi lên bao giờ cũng gắn với những con người biết khắc phục sai lầm quá khứ, biết vươn lên từ thất bại. Nhà phát minh người Mỹ Thomas Edison khi được vinh danh như con người vĩ đại của nước Mỹ vì công lao thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại vẫn không quên những lời phỉ báng của cô giáo chủ nhiệm năm lớp Bốn. Chính sự miệt thị thiếu công bằng, sự xúc phạm từ tuổi thơ đã thôi thúc ông chứng minh mình không phải là đứa học trò “dốt, lười, hư và hỗn láo” qua hàng ngàn phát minh sáng chế, để tên tuổi của ông được đặt một cách trang trọng cho ngôi trường mà ông đã bị đuổi học. Những ai từng đọc giai thoại về Cao Bá Quát chắc chắn còn nhớ câu chuyện rèn chữ của ông. Dù văn hay nhưng chữ xấu, Cao Bá Quát đã khiến quan huyện nổi giận phạt người được ông viết giúp đơn. Nỗi nhục chữ xấu ám ảnh khiến Cao Bá Quát ngày đêm luyện chữ, trở thành người chữ đẹp nổi tiếng hàng đầu thời nhà Nguyễn. Giả sử không tự sửa mình, Cao Bá Quát sẽ không thể nào được người đời sau ca tụng không chỉ “văn hay” mà còn “chữ tốt”. Kí ức không chỉ có vai trò quan trọng đối với cá nhân mà còn có vai trò vô cùng cần thiết với xã hội, với cộng đồng. Dân tộc ta nhờ phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm mà lần lượt đánh thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Nhưng từ sự sai lầm chủ quan duy ý chí bất chấp thực tế khách quan mà chúng ta vấp phải hàng loạt những sai lầm trong xây dựng kinh tế. Việc chỉ hướng về tương lai tốt đẹp mà không tự vạch ra con đường riêng của mình, rập khuôn những mô hình lạc hậu về kinh tế đã khiến chúng ta phải trả một giá đắt. Đại hội VI của Đảng năm 1986đã nghiêm khắc kiểm điểm rút kinh nghiệm từ những sai lầm để quyết tâm đổi mới, làm đá6t nước ta có bước phát triển vượt bậc, vững vàng hơn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, có thể thấy kí ức sẽ đem lại cho ta những bài học kinh nghiệm, những thực tiễn quí báu để làm hành trang đi tới tương lai vững chắc. Tuy nhiên, cũng cần phải có thái độ đúng đắn khi nhìn lại, nghĩ về quá khứ. Có những người quá nặng nề với quá khứ sẽ trở nên bi quan, thiếu tin tưởng vào bản thân, do dự trong suy nghĩ, thiếu quyết tâm hành động. Còn những người biết vượt qua quá khứ thất bại và sai lầm, có bản lĩnh, có ý chí vươn lên thì sẽ luôn tự tin, dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận thử thách hiện tại để thành công trong tương lai. Những người như vậy đã “lãng quên quá khứ” một cách đúng đắn, gạt bỏ tảng đá nặng nề của kí ức trên đường để đến đích tương lai rộng mở! Mỗi học sinh chúng ta cũng luôn cần tạo cho mình thái độ đúng đắn với quá khứ, tự rèn luyện bản thân, không chủ quan tự mãn hay tự ti trước quá khứ, có như vậy chúng ta mới thật sự trở thành những con người có ích cho xã hội mai sau. Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 3 Ít lâu nay, mỗi lúc cần nói đến ý nghĩa của việc giữ gìn di sản văn hóa, nhiều người trong chúng ta thường viện đến câu của nhà thơ xứ Đaghestan (thuộc Liên bang Nga) Rasul Gamzatov: "Nếu anh bắn quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác!". Thiết nghĩ, cái ý thức bảo vệ di sản ngụ trong câu ấy hiện vẫn cần thiết, bởi ngay ở ta vẫn còn không ít những phần di sản của quá khứ đang tiếp tục bị "bắn bằng súng lục", tức là bằng sự im lặng lãng quên, thậm chí bằng sự phá hoại. Tuy nhiên, nếu đi hết cái ý nghĩa tích cực của tâm niệm nêu trên, ta lại đứng trước cái giới hạn này: mọi thứ trong quá khứ vốn không như nhau về ý nghĩa, về giá trị. Trên thực tế, chưa bao giờ và không bao giờ người ta lại sùng bái tất thảy mọi thứ có trong quá khứ, không một chút thiên vị, không một chút sàng lọc, theo cách của mình. Chúng ta đang ở một thời điểm của những quá trình ngược chiều nhau: trong khi ngày càng có thêm nhiều giá trị quá khứ tưởng đã lấp hẳn vào lớp bụi của quên lãng, bỗng sống dậy, như là đáp ứng một loại nhu cầu văn hóa bức thiết nào đấy rất chính đáng, thì đồng thời lại có một nhu cầu khác là nghiêm khắc điểm lại con đường vừa đi qua, chẳng những để xem liệu những giá trị nào có thể "sống lâu", mà còn để xem chính chúng ta có những ấu trĩ, sai lầm nào trong quan niệm và phương hướng hoạt động. Ở một tình huống, một thời điểm như vậy, nếu chỉ tự vũ trang bằng lời răn đe rằng bất cứ cái gì đã qua đều đáng "ăn đạn đại bác" của tương lai thì rõ ràng là một sự tự vũ trang không đầy đủ, thậm chí còn gói theo cả những sự lừa mị mới. Thiết nghĩ, cần vũ trang thêm phương châm này của Tvardovski, nhà thơ được xem là lương tri của văn học Xô-viết: "Kẻ nào che giấu quá khứ sẽ không yên ổn được với tương lai!". Phải sòng phẳng với quá khứ! Mà chúng ta, nói thật ra, chưa có sự sòng phẳng ấy. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, kể cả những hạn chế lịch sử, chúng ta mới chỉ tiếp nhận một phần di sản văn hóa của "quá khứ xa" (tạm coi là từ thế kỷ trước ngược về thời cổ) chủ yếu gồm những gì gắn với chủ nghĩa yêu nước. Mà chủ nghĩa yêu nước, dù là một phần cơ bản, vẫn chưa phải là toàn bộ giá trị của các di sản văn hóa Việt Nam. Đối với "quá khứ gần" (tôi muốn nói đến các tác giả và tác phẩm văn nghệ từ đầu thế kỷ này đến tháng 8-1945), chúng thấy rõ những sự phân biệt đối xử và thiếu công bằng ở hàng loạt trường hợp. Điều đáng mừng là gần đây đang có những nỗ lực khôi phục sự công bằng ấy, nói đúng hơn là trả dần cho công chúng hiện nay cái quyền được xúc tiếp với những giá trị văn nghệ vốn có trong di sản dân tộc. Quá trình này chắc chắn sẽ đẩy tới nhu cầu vẽ lại bức tranh văn nghệ dân tộc từ đầu thế kỷ đến nay, bởi ngay đến hiện giờ nhiều nhận định và khái quát hiện hành đã không còn phù hợp. Tuy nhiên, có thể dự toán rằng sẽ không có chấn động gì lớn chung quanh sự trở về của những tác phẩm thuộc các giai đoạn văn nghệ từ trước 1945. Gây chấn động thật sự có lẽ chính là những gì thuộc về nền văn nghệ mới Việt Nam, từ tháng 8-1945, bởi vì những người can dự hiện vẫn là người đương thời của hôm nay, không dễ khách quan, vô tư trước mọi sự phân tích, mổ xẻ cần thiết. Thế mà yêu cầu của đổi mới lại buộc ta chẳng những phải thấy rõ những cái được thật thích đáng, mà còn phải thấy cả những cái yếu, cái non kém và những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã gò bó, trói buộc, hạn chế văn nghệ phát triển. Lại cần phải tính đến một đặc điểm là: so với những thời kỳ trước, nền văn nghệ mới Việt Nam mang tính tổ chức, tính thống nhất cao, gần như nằm gọn trong một trường phái văn nghệ. Do vậy mà có sự tương ứng khá chặt chẽ giữa các tư tưởng lý luận chỉ đạo với thực tiễn sáng tác, thực tiễn các tác phẩm. Một mặt, chẳng những mỗi thiên hướng, mỗi thiện cảm đối với từng loại chất liệu đời sống và chất liệu nghệ thuật, mà ngay cả mỗi định kiến, mỗi biểu hiện giản đơn, phiến diện, cực đoan, v.v… trong tư tưởng chỉ đạo hầu như đều có hình bóng ở những tác phẩm nhất định. Mặc khác, những sáng tác tiêu biểu nhất lại hội trong mình chúng cả những quá trình bề mặt lẫn những quá trình sâu hơn, vẫn diễn ra bên trong văn nghệ dân tộc, cùng với kết quả tìm tòi mang dấu ấn riêng của tác giả thực tài. Cũng giống như mùa vụ cấy trồng, dù khí hậu có bất thường đến mấy, thời nào cũng có hoa trái của nó, trong trình độ và khả năng thực tế của nó. Đấy là một sự thật. Đứng trước nhu cầu nhìn lại những chặng đường đã qua của nền văn nghệ mới Việt Nam, thiết tưởng cần có sự sòng phẳng này: trước hết phải tách ra để xem xét tương đối độc lập một bên là hoạt động tổ chức, quản lý, lãnh đạo văn nghệ, và một bên là thực tế sáng tác, là diện mạo cụ thể của các tác phẩm đã được tạo ra suốt thời gian ấy. Đúng là bên cạnh những tác dụng tốt, hoạt động tổ chức quá trình văn học còn mang những đặc điểm và nhược điểm đã hạn chế và trói buộc văn nghệ phát triển. Nhưng dù những hạn chế và trói buộc ấy có gay gắt đến mấy thì thật ra cũng đã không biến giá trị của những gì các nhà văn viết ra thành con số không. Những tác phẩm thuộc một thời gian lịch sử ấy, dù nay bị tác giả ghét bỏ hay còn được tác giả ưu ái, vẫn cứ là đối tượng cho sự chọn lựa của công chúng, cho sự phân tích của nhà nghiên cứu, hiện tại và mai sau. Dù sao thì cho đến bây giờ, các tác giả ấy cũng không thể xin "rút" tác phẩm của mình ra khỏi cái kho chung đã có, không thể tuyên bố mình "vô can" đối với tiến trình văn học đã tham dự. Dẫu anh tự thấy mình đã dễ dãi "minh hoạ" những chủ đề, những đề tài nào đó, thì chính chủ đề, đề tài tác phẩm ấy của anh cũng đã tham dự vào xu hướng tư tưởng xã hội chung đương thời. Chả lẽ trong đó không in dấu niềm tin của anh, nhận thức của anh, cứ cho là nó còn ấu trĩ đi? Nhưng ngoài ra, lẽ nào trong đó anh đã không phải tiến hành giải quyết, theo cách của anh, những vấn đề "nghề nghiệp" như là sự miêu tả con người và cuộc sống đương thời, các giải pháp thể loại, hoặc ít nhất là ngôn ngữ văn học? Đây lại là những phương diện khác nữa của một quá trình văn học liên tục, − không đi qua cái "thời xa vắng" ấy thì không tới hôm nay. Nếu như cái kho những tác phẩm đã có vẫn còn đó, vừa làm đối tượng cho sự nghiên cứu và phân tích về mặt lịch sử và chịu luật sàng lọc tất yếu của công chúng và thời gian, thì hoạt động tổ chức văn nghệ ở những thời kỳ đã qua vừa là những cái đã không thể sửa chữa cho quá khứ (vì đã đi vào quá trình lịch sử văn nghệ, đã tạo ra các tình huống văn nghệ nhất định), nhưng lại là cái có thể rút kinh nghiệm cho hiện tại và tương lai. Thái độ sòng phẳng với quá khứ càng trở nên cần thiết, vì quán tính của các tình huống văn nghệ đã qua, từ cơ chế tổ chức đến tâm lý xã hội, trong giới văn nghệ và trong công chúng, vẫn còn sức chi phối, tác động ngay khi ta đang vận động đổi mới. Thái độ sòng phẳng đối với tất cả những gì ở phía sau lưng có ý nghĩa rất lớn khi cất bước tiến tới. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương đảng về công tác văn hóa văn nghệ vừa qua đã nêu gương về thái độ tự phê bình nghiêm túc. Chắc chắn là việc tự phê bình như vậy cần được triển khai trong dịp tiến hành đại hội các hôi sáng tác sắp tới. Vấn đề là ý thức được những quan niệm nào, những cơ chế tổ chức và phương thức hoạt động nào ngay ở thời gian trước đây cũng đã gò bó, hạn chế sáng tạo nghệ thuật, hoặc chúng chỉ thích hợp với thời gian trước đây, trong cơ chế hành chính tập trung quan liêu bao cấp, và không còn phù hợp với thời gian hiện tại và sắp tới, trong xu thế dân chủ hóa sinh hoạt xã hội. Những "lỗi lầm" của cơ chế dẫu hiển nhiên đến đâu cũng không thể biện hộ được cho những lỗi lầm và trách nhiệm cá nhân, tuỳ cương vị từng người, dù là người được tổ chức Đảng giao cho việc quản lý văn nghệ, là người đứng đầu các hội sáng tác hay là người nghệ sĩ, nhà phê bình. Ngành phê bình văn nghệ cần được xem xét kỹ lưỡng hơn vì nó gắn nhiều hơn với các tư tưởng chỉ đạo và quản lý văn nghệ, với việc tạo ra các tình huống, khí hậu văn nghệ nhất định. Nhưng đây cũng không phải là chỗ để phác thảo lịch sử phê bình. Đây chủ yếu là chỗ để xem xét những quan niệm lý luận và phương pháp luận nào là sai lầm, thô thiển, trói buộc sáng tác; những khái quát nào không đúng với thực tế phát triển văn học; những nhận định và đánh giá nào là thiếu công bằng và khách quan đối với những tác phẩm và tác giả nhất định; những lề thói hoạt động phê bình nào là trái với nguyên tắc tự do phê bình, công khai, thẳng thắn, khách quan. Không thể vin vào chỗ việc phê bình trước đây thường nhân danh "tiếng nói của tập thể" để xóa mờ trách nhiệm riêng của từng nhà phê bình về các quan niệm và ý kiến của mình trước các vấn đề và sự kiện văn nghệ cụ thể. Trút trách nhiệm hoàn toàn cho "cơ chế" vô hình, thậm chí cho sự lãnh đạo của Đảng mà quên đi hoặc che giấu trách nhiệm của từng người, − là một thái độ không sòng phẳng về đạo đức. Nguyễn Tuyến tổng hợp Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Văn mẫu lớp 125 (100%) 1 đánh giá Từ khóa tìm kiếmviết nghị luận về vấn đề từ bỏ quá khứ hưóng đến tương laicâu nói nếu ai bắn vào quá khứ bằng súng lụccó ý kiến cho rằng nếu anh bắn súng lục vào quá khứ thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bácdan chung ve van de co qua khu moi co hien tai va tuong laike nao ban vao qua khu bang sung luc thi tuong lai se ban vao ke do bang dai bac neu suy nghi cua em ve dao li dokí ức gây cản trở hay giúp con người nỗ lực học hỏi từ quá khứ để thành công trong hiện tại Có thể bạn quan tâm?Nghị luận xã hội về lời khuyên của Khổng Tử: Người quân tử có ba điều nên nghĩ: Lúc nhỏ nếu chẳng học thì lớn ngu dốt chẳng làm được điều gì. Lúc già nếu không đem những điều mình biết di dạy người thì khi qua đời chẳng ai thương tiếc. Lúc giàu nếu không bố thí thì đến lúc khốn khó chẳng ai cứu giúp – Văn mẫu lớp 12Sức mạnh nào giúp con người bớt đi những lo âu, sợ hãi và đau khổ? – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về quan niệm: Chỉ có vào đại học thì cuộc đời mới có tương lai – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homero đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về nạn bạo lực học đường đang thường xuyên xảy ra hôm nay – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Sự ham muốn vô độ về tiền bạc sẽ đẩy con người vào chỗ sa đọa về tâm hồn – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Khi người chỉ sống vì mình, thì trở thành người thừa với những người còn lại – Văn mẫu lớp 12

Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 1

Dĩ vãng, kỷ niệm ấy, quá khứ ấy, có thể nâng cao hoặc hạ thấp giá trị của con người. Quá khứ ấy, kỷ niệm ấy sẽ thành sức mạnh, niềm tự hào hoặc ngược lại. Nói chung và dễ thấy ở quá khứ và dĩ vãng, thường là chuyện buồn, sự đau đáu, man mác, hoài niệm, trăn trở,…

Quá khứ – dĩ vãng là những gì đời người đã trải qua, đã đi qua rồi, chỉ còn để lại trong ký ức nỗi nhớ, niềm bâng khuâng, dằn vặt nào đấy “rũ không ra, thả không buông”. Nếu mọi “sự đời” tất cả đều như thế thì con người ta không thể nào sống yên ổn một cách nhẹ nhõm, thanh thản được. Chẳng ai muốn thế, nhưng “sự đời” nó lại như thế. Chấp nhận hay không chấp nhận là bởi… tự mình. Không ai sống thay cho cuộc sống, cuộc đời của mình.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Yêu nhau, củ ấu cũng tròn. Ghét nhau, bồ hòn cũng méo”. Ký ức và quá khứ giữ vai trò “ghê lắm” về cái sự yêu, ghét ấy đối với nhau.Quá khứ nếu chỉ là điều buồn thảm, day dứt, thì đấy là quá khứ, hồi ức nguy hiểm, chỉ huỷ diệt không chỉ ý chí vươn lên của con người mà còn cả với tình yêu. Gọi là: Quá – khứ – tiêu – cực.

Nhằm chế ngự (giảm bớt, làm cho quên đi, mất đi) loại quá – khứ – tiêu – cực, con người cần phải rất tỉnh táo, sáng suốt và dũng cảm, nhân hậu. Xưa đã thế và nay cũng thế. Càng “hiện đại” càng phải tỉnh táo. Quá khứ trước, sau… là việc đã qua rồi. Quan trọng là…bây giờ, là hiện tại. Quá khứ sẽ luôn luôn trỗi dậy, khi con người coi thường hoặc không coi trọng quá khứ. Đúng. Quá khứ trở về một cách dữ dội, nguy hiểm lắm. Khi tình yêu – lòng nhân hậu, yêu thương đã đứng ra ngoài, thì quá khứ sẽ tiêu diệt tình yêu. Đấy là sự thật, là chuyện có thật ở trên đời.

Quay lại vấn đề, "Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn lại bạn bằng đại bác", câu nói thật hay và thật ý nghĩa, Chúng ta làm gì phải suy nghĩ cho tường tận, có trước có sau, có quá khứ thì mới có hiện tại hôm nay và tương lai ngày mai, một thoáng suy nghĩ bồng bột, nông cạn để chứng tỏ và thỏa mãn một cái gì đó mà trút bỏ quá khứ tất cả là điều không hay chút nào, phải suy xét cho tường tận, rộng và sâu một vấn đề, tâm và tầm cho một quyết định,… để quá khứ và hiện tại luôn ôn hòa, để nhìn về quá khứ mà vẽ được hướng tương lai.

Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 2

Cuộc sống của con người được nuôi dưỡng bởi những ước mơ về tương lai tốt đẹp hơn, con đường trước mặt trải luôn thảm đỏ và hoa hồng. Nhưng liệu có ai có dịp ngoảnh lại chặng đường đã qua, để lục tìm trong kí ức những bài học dẫn đến thành công? Nhiều người tin rằng để thành công và thăng tiến trong cuộc sống cần phải biết lãng quên những sai lầm và thất bại trong quá khứ. Nhưng một số người khác lại coi kí ức như một điều quan trọng trong cuộc sống, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Vậy kí ức gây cản trở hay giúp con người trong nỗ lực học hỏi từ quá khứ để thành công trong hiện tại?

Quả thật khi có những ý kiến trái chiều nhau, mỗi bên đều có lý do riêng để bảo vệ quan điểm của mình. Những ai cho rằng “cần phải biết lãng quên những thất bại và sai lầm trong quá khứ” có lẽ e ngại những kí ức về quá khứ thất bại và sai lầm sẽ làm con người trở nên do dự khi tiến hành chinh phục một mục tiêu nào đó. Quá khứ đối với họ như một vết đen, một dấu ấn không tốt luôn ám ảnh, thậm chí có thể làm ảnh hưởng đến sự nghiệp và tiền đồ của họ. Còn phía những người cho rằng kí ức là “cầu nối giữa quá khứ và hiện tại” thì tỏ ra lạc quan hơn, họ dám nhìn thẳng vào những sai lầm thất bại trong quá khứ để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết để tránh vấp ngã trong tương lai. Dù muốn lãng quên hay mang theo kí ức trên hành trang tiến vào tương lai, cả hai phía đều không thể phủ nhận sự tồn tại hiển nhiên của kí ức trong mỗi con người.

Thực tế trong cuộc sống, ai không có những thất bại và sai lầm, xuất phát từ hoàn cảnh khách quan và yếu tố chủ quan của mỗi người. Nhà cách mạng Phan Bội Châu đã từng đúc kết thành bài học: “Tay ba lần gãy – mới biết thuốc tiên – Đánh trăm trận quen – Mới nên tướng giỏi – Nếu không thất bại – Sao có thành công? – Xưa nay anh hùng – từng thua mới được!”. Nhà thơ cộng sản Tố Hữu cũng từng viết : “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà không dại đôi lần?”. Các ý kiến trên đều chứng tỏ vai trèo quan trọng không thể phủ nhận của những bài học từ quá khứ sẽ quyết định cho sự thành bại của con người trong tương lai. Quá khứ dù có sai lầm hay thất bại thì ta cũng không thể chối bỏ được nó. Nhà thơ Abutalip của Đaghextan từng phát biểu: “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”. Nếu không biết tôn trọng quá khứ thì con người sẽ không tránh khỏi những va vấp trong cuộc sống, sẽ chuốc lấy những thất bại. Thực tế con đường đi tới thành công không bao giờ chỉ trải thảm đỏ và hoa hồng. Con người phải luôn đối mặt khó khăn thử thách thì mới có cơ hội thực sự trưởng thành và thăng tiến trong sự nghiệp. Những người muốn lãng quên quá khứ sai lầm và thất bại thực ra sẽ không thể nào dứt bỏ được kí ức mà ngược lại, kí ức ấy tồn tại một cách vô hình mỗi khi con người gặp những cảnh ngộ, những tình huống ở hiện tại tương tự như họ đã từng gặp trong quá khứ. Muốn thành công, họ không thể lặp lại vết xe đổ trước đó, còn nếu lãng quên thật sự thì chắc chắn sẽ chuốc lấy thất bại mà thôi! Sự thăng tiến ở những con người ấy nếu có, cũng chỉ là từ sự khôn ranh, cơ hội, che đậy suy nghĩ vụ lợi đầy tính toán ích kỉ, biểu hiện của lối sống bị cả xã hội lên án.

Quan sát trong đời sống, mỗi một sự phát triển đi lên bao giờ cũng gắn với những con người biết khắc phục sai lầm quá khứ, biết vươn lên từ thất bại. Nhà phát minh người Mỹ Thomas Edison khi được vinh danh như con người vĩ đại của nước Mỹ vì công lao thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại vẫn không quên những lời phỉ báng của cô giáo chủ nhiệm năm lớp Bốn. Chính sự miệt thị thiếu công bằng, sự xúc phạm từ tuổi thơ đã thôi thúc ông chứng minh mình không phải là đứa học trò “dốt, lười, hư và hỗn láo” qua hàng ngàn phát minh sáng chế, để tên tuổi của ông được đặt một cách trang trọng cho ngôi trường mà ông đã bị đuổi học. Những ai từng đọc giai thoại về Cao Bá Quát chắc chắn còn nhớ câu chuyện rèn chữ của ông. Dù văn hay nhưng chữ xấu, Cao Bá Quát đã khiến quan huyện nổi giận phạt người được ông viết giúp đơn. Nỗi nhục chữ xấu ám ảnh khiến Cao Bá Quát ngày đêm luyện chữ, trở thành người chữ đẹp nổi tiếng hàng đầu thời nhà Nguyễn. Giả sử không tự sửa mình, Cao Bá Quát sẽ không thể nào được người đời sau ca tụng không chỉ “văn hay” mà còn “chữ tốt”. Kí ức không chỉ có vai trò quan trọng đối với cá nhân mà còn có vai trò vô cùng cần thiết với xã hội, với cộng đồng. Dân tộc ta nhờ phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm mà lần lượt đánh thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Nhưng từ sự sai lầm chủ quan duy ý chí bất chấp thực tế khách quan mà chúng ta vấp phải hàng loạt những sai lầm trong xây dựng kinh tế. Việc chỉ hướng về tương lai tốt đẹp mà không tự vạch ra con đường riêng của mình, rập khuôn những mô hình lạc hậu về kinh tế đã khiến chúng ta phải trả một giá đắt. Đại hội VI của Đảng năm 1986đã nghiêm khắc kiểm điểm rút kinh nghiệm từ những sai lầm để quyết tâm đổi mới, làm đá6t nước ta có bước phát triển vượt bậc, vững vàng hơn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, có thể thấy kí ức sẽ đem lại cho ta những bài học kinh nghiệm, những thực tiễn quí báu để làm hành trang đi tới tương lai vững chắc.

Tuy nhiên, cũng cần phải có thái độ đúng đắn khi nhìn lại, nghĩ về quá khứ. Có những người quá nặng nề với quá khứ sẽ trở nên bi quan, thiếu tin tưởng vào bản thân, do dự trong suy nghĩ, thiếu quyết tâm hành động. Còn những người biết vượt qua quá khứ thất bại và sai lầm, có bản lĩnh, có ý chí vươn lên thì sẽ luôn tự tin, dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận thử thách hiện tại để thành công trong tương lai. Những người như vậy đã “lãng quên quá khứ” một cách đúng đắn, gạt bỏ tảng đá nặng nề của kí ức trên đường để đến đích tương lai rộng mở!

Mỗi học sinh chúng ta cũng luôn cần tạo cho mình thái độ đúng đắn với quá khứ, tự rèn luyện bản thân, không chủ quan tự mãn hay tự ti trước quá khứ, có như vậy chúng ta mới thật sự trở thành những con người có ích cho xã hội mai sau.

Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Bài số 3

Ít lâu nay, mỗi lúc cần nói đến ý nghĩa của việc giữ gìn di sản văn hóa, nhiều người trong chúng ta thường viện đến câu của nhà thơ xứ Đaghestan (thuộc Liên bang Nga) Rasul Gamzatov: "Nếu anh bắn quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác!".

Thiết nghĩ, cái ý thức bảo vệ di sản ngụ trong câu ấy hiện vẫn cần thiết, bởi ngay ở ta vẫn còn không ít những phần di sản của quá khứ đang tiếp tục bị "bắn bằng súng lục", tức là bằng sự im lặng lãng quên, thậm chí bằng sự phá hoại.

Tuy nhiên, nếu đi hết cái ý nghĩa tích cực của tâm niệm nêu trên, ta lại đứng trước cái giới hạn này: mọi thứ trong quá khứ vốn không như nhau về ý nghĩa, về giá trị. Trên thực tế, chưa bao giờ và không bao giờ người ta lại sùng bái tất thảy mọi thứ có trong quá khứ, không một chút thiên vị, không một chút sàng lọc, theo cách của mình. Chúng ta đang ở một thời điểm của những quá trình ngược chiều nhau: trong khi ngày càng có thêm nhiều giá trị quá khứ tưởng đã lấp hẳn vào lớp bụi của quên lãng, bỗng sống dậy, như là đáp ứng một loại nhu cầu văn hóa bức thiết nào đấy rất chính đáng, thì đồng thời lại có một nhu cầu khác là nghiêm khắc điểm lại con đường vừa đi qua, chẳng những để xem liệu những giá trị nào có thể "sống lâu", mà còn để xem chính chúng ta có những ấu trĩ, sai lầm nào trong quan niệm và phương hướng hoạt động.

Ở một tình huống, một thời điểm như vậy, nếu chỉ tự vũ trang bằng lời răn đe rằng bất cứ cái gì đã qua đều đáng "ăn đạn đại bác" của tương lai thì rõ ràng là một sự tự vũ trang không đầy đủ, thậm chí còn gói theo cả những sự lừa mị mới. Thiết nghĩ, cần vũ trang thêm phương châm này của Tvardovski, nhà thơ được xem là lương tri của văn học Xô-viết: "Kẻ nào che giấu quá khứ sẽ không yên ổn được với tương lai!". Phải sòng phẳng với quá khứ! Mà chúng ta, nói thật ra, chưa có sự sòng phẳng ấy.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, kể cả những hạn chế lịch sử, chúng ta mới chỉ tiếp nhận một phần di sản văn hóa của "quá khứ xa" (tạm coi là từ thế kỷ trước ngược về thời cổ) chủ yếu gồm những gì gắn với chủ nghĩa yêu nước. Mà chủ nghĩa yêu nước, dù là một phần cơ bản, vẫn chưa phải là toàn bộ giá trị của các di sản văn hóa Việt Nam. Đối với "quá khứ gần" (tôi muốn nói đến các tác giả và tác phẩm văn nghệ từ đầu thế kỷ này đến tháng 8-1945), chúng thấy rõ những sự phân biệt đối xử và thiếu công bằng ở hàng loạt trường hợp. Điều đáng mừng là gần đây đang có những nỗ lực khôi phục sự công bằng ấy, nói đúng hơn là trả dần cho công chúng hiện nay cái quyền được xúc tiếp với những giá trị văn nghệ vốn có trong di sản dân tộc. Quá trình này chắc chắn sẽ đẩy tới nhu cầu vẽ lại bức tranh văn nghệ dân tộc từ đầu thế kỷ đến nay, bởi ngay đến hiện giờ nhiều nhận định và khái quát hiện hành đã không còn phù hợp.

Tuy nhiên, có thể dự toán rằng sẽ không có chấn động gì lớn chung quanh sự trở về của những tác phẩm thuộc các giai đoạn văn nghệ từ trước 1945. Gây chấn động thật sự có lẽ chính là những gì thuộc về nền văn nghệ mới Việt Nam, từ tháng 8-1945, bởi vì những người can dự hiện vẫn là người đương thời của hôm nay, không dễ khách quan, vô tư trước mọi sự phân tích, mổ xẻ cần thiết. Thế mà yêu cầu của đổi mới lại buộc ta chẳng những phải thấy rõ những cái được thật thích đáng, mà còn phải thấy cả những cái yếu, cái non kém và những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã gò bó, trói buộc, hạn chế văn nghệ phát triển. Lại cần phải tính đến một đặc điểm là: so với những thời kỳ trước, nền văn nghệ mới Việt Nam mang tính tổ chức, tính thống nhất cao, gần như nằm gọn trong một trường phái văn nghệ. Do vậy mà có sự tương ứng khá chặt chẽ giữa các tư tưởng lý luận chỉ đạo với thực tiễn sáng tác, thực tiễn các tác phẩm.

Một mặt, chẳng những mỗi thiên hướng, mỗi thiện cảm đối với từng loại chất liệu đời sống và chất liệu nghệ thuật, mà ngay cả mỗi định kiến, mỗi biểu hiện giản đơn, phiến diện, cực đoan, v.v… trong tư tưởng chỉ đạo hầu như đều có hình bóng ở những tác phẩm nhất định. Mặc khác, những sáng tác tiêu biểu nhất lại hội trong mình chúng cả những quá trình bề mặt lẫn những quá trình sâu hơn, vẫn diễn ra bên trong văn nghệ dân tộc, cùng với kết quả tìm tòi mang dấu ấn riêng của tác giả thực tài. Cũng giống như mùa vụ cấy trồng, dù khí hậu có bất thường đến mấy, thời nào cũng có hoa trái của nó, trong trình độ và khả năng thực tế của nó. Đấy là một sự thật.

Đứng trước nhu cầu nhìn lại những chặng đường đã qua của nền văn nghệ mới Việt Nam, thiết tưởng cần có sự sòng phẳng này: trước hết phải tách ra để xem xét tương đối độc lập một bên là hoạt động tổ chức, quản lý, lãnh đạo văn nghệ, và một bên là thực tế sáng tác, là diện mạo cụ thể của các tác phẩm đã được tạo ra suốt thời gian ấy. Đúng là bên cạnh những tác dụng tốt, hoạt động tổ chức quá trình văn học còn mang những đặc điểm và nhược điểm đã hạn chế và trói buộc văn nghệ phát triển. Nhưng dù những hạn chế và trói buộc ấy có gay gắt đến mấy thì thật ra cũng đã không biến giá trị của những gì các nhà văn viết ra thành con số không. Những tác phẩm thuộc một thời gian lịch sử ấy, dù nay bị tác giả ghét bỏ hay còn được tác giả ưu ái, vẫn cứ là đối tượng cho sự chọn lựa của công chúng, cho sự phân tích của nhà nghiên cứu, hiện tại và mai sau. Dù sao thì cho đến bây giờ, các tác giả ấy cũng không thể xin "rút" tác phẩm của mình ra khỏi cái kho chung đã có, không thể tuyên bố mình "vô can" đối với tiến trình văn học đã tham dự. Dẫu anh tự thấy mình đã dễ dãi "minh hoạ" những chủ đề, những đề tài nào đó, thì chính chủ đề, đề tài tác phẩm ấy của anh cũng đã tham dự vào xu hướng tư tưởng xã hội chung đương thời. Chả lẽ trong đó không in dấu niềm tin của anh, nhận thức của anh, cứ cho là nó còn ấu trĩ đi? Nhưng ngoài ra, lẽ nào trong đó anh đã không phải tiến hành giải quyết, theo cách của anh, những vấn đề "nghề nghiệp" như là sự miêu tả con người và cuộc sống đương thời, các giải pháp thể loại, hoặc ít nhất là ngôn ngữ văn học? Đây lại là những phương diện khác nữa của một quá trình văn học liên tục, − không đi qua cái "thời xa vắng" ấy thì không tới hôm nay.

Nếu như cái kho những tác phẩm đã có vẫn còn đó, vừa làm đối tượng cho sự nghiên cứu và phân tích về mặt lịch sử và chịu luật sàng lọc tất yếu của công chúng và thời gian, thì hoạt động tổ chức văn nghệ ở những thời kỳ đã qua vừa là những cái đã không thể sửa chữa cho quá khứ (vì đã đi vào quá trình lịch sử văn nghệ, đã tạo ra các tình huống văn nghệ nhất định), nhưng lại là cái có thể rút kinh nghiệm cho hiện tại và tương lai. Thái độ sòng phẳng với quá khứ càng trở nên cần thiết, vì quán tính của các tình huống văn nghệ đã qua, từ cơ chế tổ chức đến tâm lý xã hội,  trong giới văn nghệ và trong công chúng, vẫn còn sức chi phối, tác động ngay khi ta đang vận động đổi mới. Thái độ sòng phẳng đối với tất cả những gì ở phía sau lưng có ý nghĩa rất lớn khi cất bước tiến tới. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương đảng về công tác văn hóa văn nghệ vừa qua đã nêu gương về thái độ tự phê bình nghiêm túc. Chắc chắn là việc tự phê bình như vậy cần được triển khai trong dịp tiến hành đại hội các hôi sáng tác sắp tới. Vấn đề là ý thức được những quan niệm nào, những cơ chế tổ chức và phương thức hoạt động nào ngay ở thời gian trước đây cũng đã gò bó, hạn chế sáng tạo nghệ thuật, hoặc chúng chỉ thích hợp với thời gian trước đây, trong cơ chế hành chính tập trung quan liêu bao cấp, và không còn phù hợp với thời gian hiện tại và sắp tới, trong xu thế dân chủ hóa sinh hoạt xã hội. Những "lỗi lầm" của cơ chế dẫu hiển nhiên đến đâu cũng không thể biện hộ được cho những lỗi lầm và trách nhiệm cá nhân, tuỳ cương vị từng người, dù là người được tổ chức Đảng giao cho việc quản lý văn nghệ, là người đứng đầu các hội sáng tác hay là người nghệ sĩ, nhà phê bình.

Ngành phê bình văn nghệ cần được xem xét kỹ lưỡng hơn vì nó gắn nhiều hơn với các tư tưởng chỉ đạo và quản lý văn nghệ, với việc tạo ra các tình huống, khí hậu văn nghệ nhất định. Nhưng đây cũng không phải là chỗ để phác thảo lịch sử phê bình. Đây chủ yếu là chỗ để xem xét những quan niệm lý luận và phương pháp luận nào là sai lầm, thô thiển, trói buộc sáng tác; những khái quát nào không đúng với thực tế phát triển văn học; những nhận định và đánh giá nào là thiếu công bằng và khách quan đối với những tác phẩm và tác giả nhất định; những lề thói hoạt động phê bình nào là trái với nguyên tắc tự do phê bình, công khai, thẳng thắn, khách quan. Không thể vin vào chỗ việc phê bình trước đây thường nhân danh "tiếng nói của tập thể" để xóa mờ trách nhiệm riêng của từng nhà phê bình về các quan niệm và ý kiến của mình trước các vấn đề và sự kiện văn nghệ cụ thể. Trút trách nhiệm hoàn toàn cho "cơ chế" vô hình, thậm chí cho sự lãnh đạo của Đảng mà quên đi hoặc che giấu trách nhiệm của từng người, − là một thái độ không sòng phẳng về đạo đức.

Nguyễn Tuyến tổng hợp

Mariazic1

0 chủ đề

23882 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0