29/01/2018, 21:19

Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Văn mẫu lớp 12

Nội dung bài viết1 Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Bài số 1 2 Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không ...

Nội dung bài viết1 Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Bài số 1 2 Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Bài số 2 Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Bài số 1 Con người là một đối tượng phong phú, đầy bí ẩn và phức tạp của văn chương. Thế hệ những người cầm bút từ xưa đến nay đã giành không ít thời gian và tâm huyết cho việc tìm hiểu con người, khám phá những tiềm ẩn trong tâm hồn con người. Trên bước đường tìm tòi không ít gian truân ấy, một vấn đề thường được nhiều người quan tâm: văn chương nói nhiều về cái xấu hay cái tốt của con người, và cái nào cần được nói tới nhiều hơn? Đã không ít ý kiến bàn luận về vấn đề này. Ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải gần đây, theo tôi, là một ý kiến đáng được ghi nhận: Văn chương có quyền nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung (Báo Văn nghệ số Tết Tân Mùi, 16 – 2 – 1991). Ý kiến của Nguyễn Khải trên đây là có cơ sở, không chỉ trên phương diện lí luận mà cả trên thực tế văn chương, nó được đúc rút từ sự trải nghiệm của một nhà văn tài năng và có bản lĩnh. Cũng cần phải nói thêm, Nguyễn Khải là một trong số những nhà văn có nhiều ý kiến đóng góp cho xu hướng đổi mới văn nghệ của chúng ta những năm gần đây. Trước hết, có lẽ Nguyễn Khải muốn khẳng định cái quyền được nói về cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát mà cho đến nay đâu phải nhà văn nào cũng dám nói. Có một thời chúng ta cho rằng thuỷ chung. Đã có lúc ta cho những tác phẩm viết về cái xấu là bôi đen. Phải chăng quan điểm có tính chất ấu trĩ ấy bắt nguồn nghĩ rằng: con người là tốt đẹp, là cao thượng trong khi con người là tất cả cái tốt và cái xấu, cái cao thượng và cái hèn hạ… Vậy thì văn chương vì lẽ gì lại chỉ nói về cái phần tốt đẹp? Để thực hiện chức năng nhân đạo hoá con người văn chương trước hết phải giúp cho con người nhận thức và tự nhận thức. Chỉ nói về cái tốt thì vô tình văn chương đã làm cho con người chỉ thấy một nửa sự thật về con người mình. Cho nên văn chương cần nói về cả cái xấu và phải được quyền nói về cái xấu. Lỗ Tấn đã không ngần ngại chỉ ra cho người dân Trung Quốc nói riêng và nhân loại nói chung một thói tật của con người, một căn bệnh, đó là phép thắng lợi tinh thần. Sêkhốp qua những trang viết của mình muốn nói thẳng nói thật với mọi người: hãy nhìn xem chúng ta đã sống tồi, sống tẻ như thế nào (lời Sê-khôp nói với một sinh viên). Vũ Trọng Phụng với những chân dung biếm họa đã lên án cái kệch cỡm, cái thớ lợ của con người. Raxpatin trong Hãy sống và nhớ lấy muốn nói với chúng ta rằng con người cũng có những khi hèn nhát như Anđrây Guxcôp và từ đó là đầu mối của những bi kịch cho chính mình và cho những người xung quanh. Nhà văn – được phép viết về cái xấu nhưng theo Nguyễn Khải không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Con người là đỉnh cao của tự nhiên, là báu vật của tạo hoá cho nên bản chất của con người là tốt đẹp – văn chương chi viết về cái xấu xa của con người là phiến diện, văn chương cần phải viết về cá cái tốt đẹp của con người. Con người ta bên phần con, có phần người; bên cái xâu có rất nhiều cái tốt, nhà văn phải nhận thức được điều này để viết về con người với tất cả những gì họ có. vấn đề này theo ý kiến của Nguyễn Khải, Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung. Vấn đề mà các nhà văn xưa nay lưu tâm đến nhiều hơn là cái tốt đẹp của con người. Gorki đã rất ý thức được điều này không nhận thấy nhiệm vụ của mình là phải làm cho con người nhận thấy trong cuộc sống họ là cái tốt đẹp nhất, có ý nghĩa nhất… ngoài họ ra không còn gì đáng chú ý cả. Văn chương xưa nay nói nhiều đến cái tốt đẹp, cái mà Tản Đà, Nguyễn Tuân gọi là thiện lương của con người. Nguyễn Du qua hình tượng Thuý Kiều ca ngợi vẻ đẹp của con người đẹp người, đẹp nét, con người hi sinh cả hạnh phúc đời mình để làm tròn chữ hiếu, con người biết nhỏ nước mắt khóc thương cho số phận đắng cay của một con người, Đạm Tiên, như còn muốn nóỉ về sự thuỷ chung của con người đã mười lăm năm lưu lạc mà không lúc nào không hướng về người mình yêu. Trong số bao nhiêu điều muốn gửi gắm, Nam Cao qua Chí Phèo muốn có một lời thanh minh, một sự khẳng định đối với con người đáng thương hơn là đáng giận ấy. Nhà văn đã nhìn ra cái phần người còn sót lại trong quỷ dữ. Nam Cao đã đáp vững trên miệng vực khi ông đi vào miêu tả mối tình Chí Phèo – Thị Nở không phải để khai thác cái phần lưu manh trong Chí. Cái mà tác giả dụng công làm nổi lên ấy chính là từ những giây phút thức tỉnh hiếm hoi khi lần đầu tiên sau bao nhiêu ngày Chí nghe thấy những âm thanh cuộc sống; từ nỗi buồn của con người đã từ lâu lắm mất cái khái niệm buồn vui; từ tiếng thét nhức nhối tâm can: Ai cho tao lương thiện, cho người đọc nhận ra cái phần Người trong một kẻ tưởng như đã mất hết cả nhân hình và nhân tính. Thạch Lam trong những trang viết giàu chất thơ, rất tinh tế đã nói lên cái khát khao rất đẹp của những người dân phố huyện khắc khoải đợi chờ ánh sáng của một thế giới khác tốt đẹp hơn đến với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt của mình (Hai đứa trẻ). Cái phần tốt đẹp trong mỗi con người dù rất nhỏ cũng làm cho các nhà văn chú ý và lưu tâm đưa vào sáng tác của mình. Victo Huygô với mong muốn một thế giới có những con người giàu lòng nhân ái đã dựng lên hình tượng Jăng Vanjăng bảo mẫu của lòng từ thiện. Con người ấy lấy việc chính vì người khác làm hạnh phúc của mình. Jăng Vanjăng đã vì sự sống của những đứa cháu mình đã đập tủ kính của một cửa cửa hiệu để rồi nhận lấy 19 năm tù không một thoáng ân hận. Jăng Vanjăng..đã quên đi tai họa đang giáng xuống đời mình để vì niềm vui, một chút hi vọng dù rất nhỏ của con người sắp từ giã cõi đời – Phăngtin. Đến với Pautôpxki ta hãy lắng lòng, hãy bình tâm để được sống với một thế giới những con ngưdi giàu lòng nhân hậu như hạ đội trưởng (Âm nhạc Vecđi), như Anđecxen Chuyến xe đêm). Văn học của ta những năm chiến tranh nói nhiều đến những cái đẹp trong tâm hồn mỗi người. Điều những người cầm bút trong chiến tranh chú ý khai thác ấy là sự hi sinh hạnh phúc cá nhân cho vận mệnh dân tộc. Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau (Cuộc chia li màu đỏ – Nguyễn Mĩ) Đó là sự cao thượng, sẵn sàng tha thứ của Lương (Thư nhà – Hồ Phương), đó là việc tìm thấy niềm vui trong chiến đấu của những chị Sứ (Hòn Đất – Anh Đức), chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi), đó là cái lạc quan của anh chiến sĩ ép một cành xấu hổ trong trang sổ khiến cuộc sống đầy gian khổ của mình thêm một chút thi vị (Cây xấu hổ – Anh Ngọc).’. Sống trong không khí hào hùng của đất nước, các nhà thơ, nhà văn đi sâu thể hiện cái tốt đẹp của con người. Chúng ta chấp nhận thứ văn chương như thế trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng sự kéo dài của thứ văn chương nghiêng về ca ngợi trong bối cảnh của đời sống bình thường lại dẫn đến sự nghèo nàn đơn điệu, sự thiếu phong phú cho diện mạo của một nền văn học. Khi trong cuộc đời tiếng súng đã dứt và bom không nổ nữa, người đọc thấy văn chương xa lạ đối với mình. Cuộc sống bộn bề, bên những người phần tốt đẹp nhiều là những kẻ ít tính người, trong khi đó người ta vẫn chỉ thấy trong văn chương những điều đẹp đẽ như cái cao thượng của con người. Trên bước đường đổi mới văn học chiến tranh, các nhà văn đã đưa vào tác phẩm của mình những cái xảy ra trong mỗi con người: cái xấu, cái tốt, cái hèn hạ – cái cao cả, ta đã có Biển gọi của Hồ Phương, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh. Tuy nhiên cái tốt đẹp, cái cao thượng vẫn là một đề tài lớn có một sức thu hút không nhỏ đối với các nhà văn, nhà thơ. Ta vẫn gặp trong văn chương những nét đẹp vốn đã là bản chất của con người. Đúng như Nguyễn Khải đã nói: điều mà những người cầm bút ở mọi nơi, mọi thời hay nói đến đó là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung, nhưng cái đẹp mà chỉ Con người mới có. Chúng ta đã xem xét qua một số tác phẩm mà dụng ý viết về cái tốt đẹp của tác giả bộc lộ khá rõ nét. Cũng cần phải nói đến điều có một số nhà văn được đánh giá là thiên về xu hướng phủ định nhưng những trang viết của họ vẫn đôi chỗ khẳng định cái đẹp của con người – cái tốt đẹp bao giờ cũng có một sức thu hút rất lớn. Những điều mà chúng ta bàn trên đây mới chỉ xét trên phương diện miêu tả cái tốt hay cái xấu. Điều quan trọng trong sáng tác văn học chưa hẳn ở chỗ viết về cái gì. Phản ánh để làm gì? Câu hỏi đó có lẽ còn khó trả lời hơn bản thân sự phản ánh. Sẽ rất sai lầm nếu cho rằng nhà văn phản ánh để mà phản ánh. Nhà văn viết về cái xấu đâu phải như thế là không tốt. Để tránh sự hiểu lầm có lẽ cũng cần phải nói thêm: nhà văn viết về cái xấu cũng có thể thành công như người viết về cái tốt. Đừng bao giờ lấy đề tài ra làm chuẩn mực để đánh giá văn chương. Sai lầm của chúng ta một thời là sai lầm của việc xét đoán, thẩm định giá trị của tác phẩm văn chưcmg qua đề tài của nó. Điều mà nhà văn đề cập đến trong tác phẩm có thể là cái xấu xa nhưng mục đích hướng tới của người cầm bút lại chính là cái cao thượng tốt đẹp và thuỷ chung kia. Lê Lựu khi viết về cái Thời xa vắng đã nói lên cái xấu của ta một thời là không đủ bản lĩnh để sống với cái tôi của mình. Nhưng tác phẩm không vì thế mà thành xấu. Người ta vẫn đọc, vẫn thích Thời xa vắng bởi tấm lòng nhà văn, dụng ý nhà văn ở đó là đẹp. Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng đặt ra một vấn đề nhức nhối đó là sự xuống cấp của đạo đức xã hội nhưng tác phẩm không chỉ dừng lại ở sự phản ánh đơn thuần. Nhà văn muốn cảnh tình con người, hướng con người tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tác phẩm của nhà văn sẽ có ích cho đời nếu nhà văn có những mong muốn đẹp, hướng con người tới sự hoà thuận dừ đỉầu nhà văn nối đến trong trang viết là tốt hay xấu. Hãy viết về cái tiêu cực với một thái độ tích cực, hãy nói về cái xấu với một dụng ý đẹp, nhà văn sẽ tìm thấy niềm vui mà Pautôpxki đã có, niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp. Dù viết về cái gì, thứ văn chương chân chính cũng hướng tới con người, viết về cái xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động, giúp con người sống với bản tính tốt đẹp của minh. Viết về cái tốt để con người tin ở mình và đó chính là hành trang cần có ở con người trong cuộc hành trình tới tương lai. Nhà văn chân chính phải là người ý thức được thiên chức của mình trong quá trình sáng tạo là năng đỡ cái phần tốt đẹp để trong đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn. Cho nên để tạo cho đời những giá trị nghệ thuật đích thực, người cầm bút phải yêu thương và tin yêu con người. Phải biết nhìn ra từ cái bên ngoài có khi bình thường thậm chí xấu xa, vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Phải có niềm tin vào bản chât tốt đẹp của con người cho dù điều nhà văn viết có xấu xa, ghê tởm và hèn nhát đến đâu. Nguyễn Minh Châu tạo ra được những tác phẩm có sức ám ảnh lớn đối với người đọc phải chăng có một phần do tình yêu thương và niềm tin với con người: Tôi tin lương tri của con người (Lời tâm sự trên giường bệnh). Phải có tấm lòng nhưng để trở thành nhà văn anh còn phải có tài năng. Chỉ có tài năng mới có thể làm cho những trang viết đi vào lòng độc giả và sống với thời gian. Tuy nhiên như thế chưa đủ. Cuộc sống và nghề văn đòi hỏi người cầm bút còn phải có tài năng. Chỉ có tài năng mới có thể làm cho những trang viết đi vào lòng độc giả và sống với thời gian. Tuy nhiên như thế chưa đủ. Cuộc sống vá nghề văn đòi hỏi người cầm bút còn phải có bản lĩnh. Viết về cái tốt thì dễ được chấp nhận nhưng viết về cái xấu đâu phải ai cũng bằng lòng. Nhà văn phải có bản lĩnh để sống và viết đúng với cái tôi của chính mình, phải dám đi vào những vấn đề nóng bỏng nhức nhối của cuộc đời. Chúng ta đã qua cái Thời xa vắng. Cuộc sống và người đọc đang rất cần những tác phẩm văn học đích thực, những tác phẩm như những thanh nam châm thu hút không chỉ một thế hệ, những tác phẩm luôn cổ động cho cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung. Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Bài số 2 Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thực với đời sống tinh thần của con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ… Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa của nhà văn trước cuộc đời, trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con người. Dù văn học viết về những sự cố lớn lao: bão táp cách mạng, chiến tranh, hay chỉ diễn tả một tiếng chuông chùa, một bờ tre, ruộng lúa… bao giờ ta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con người gửi gắm ở bên trong. Với tư cách là cụ thể của hoàn cảnh, là động lực của sự phát triển xã hội, là gốc của mọi sáng kiến, phát minh. Con người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát vọng, thành đạt hay khổ đau luôn luôn là đối tượng trung thực của văn học, là mối quan tâm hàng đầu của nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn bản nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính. Nhà văn Nga Tolstoi đã từng viết: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Còn Goethe thi nói: "Những điều đầu tiên mà thiên nhiên cần là tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống". Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet thì diễn tả tình yêu ấy bằng hình ảnh thật cụ thể: "Nhà văn là người cho máu". Đó là một tình yêu bao gồm cả sự hi sinh to lớn. Tác phẩm chân chính đúng là sản phẩm trí tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt nữa của người nghệ sĩ, là kết quả của quá trình nếm trải, nung nấu, cảm xúc dào dạt – cái mà người ta gọi là cảm tưởng trong sáng tạo nghệ thuật, không ai làm thơ làm văn trong trạng thái khô cằn, chai sạn xúc cảm. Cảm tưởng ấy có thế bắt đầu từ niềm vui sưóng, tự hào hay tin tưởng, phân khởi, nhưng với nghệ sĩ chân chính thì chăng bao giờ có niềm vui hời hạt, giản đơn. Bởi vi cuộc sống con người, trong tính hiện thực của nó, niềm vui luôn luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên cạnh bóng tốì, cái xấu luôn xen lẫn bên cạnh cái tốt, hạnh phúc thường đi liền với khổ đau, bất hạnh ….Và những khổ đau của con người xưa nay vốn là nỗi nhức nhối, bức xúc nhất hối thúc người nghệ sĩ cầm bút. Chính nhà văn Xô viết V.Raxpuchin đã diễn đạt tình cảm ấy một cách giản dị chân thành: "Nếu tôi viết, ấy là vì tôi cảm thấy đau ở đâu đây trong người với Huygo thì bể khổ của nhân loại là hầm mỏ khai thác không vơi cạn cuả cha ông. Truyện kiều là tiếng khóc đứt ruột. Chí Phèo là tiếng thét phẫn uất đòi quyền làm người… Những tác phẩm chân chính, bất tử với thời gian thường là những tác phẩm diễn tả những xung đột có khi đầy bi kịch giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái cao thượng với cái thấp hèn, ghê tởm… Tuy nhiên "thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung". Đó chính là khả năng nhân đạo mà văn học chân chính có thể mang lại cho con người. Ở đây có mấy vấn đề cần lưu ý: Sở dĩ nói văn học chân chính chứ không phải văn học nói chung vì trong sự tồn tại của văn học nhân loại quả là những tác phẩm vì con người, nâng cao phẩm giá con người nhưng cũng có thứ văn chương làm hạ thấp phẩm giá con người. Có những tác phẩm là kết quả của thao thức khổ đau, hi sinh, trăn trở nhưng cũng không thiếu thứ văn chương làm thuê, làm công cụ, bồi bút tô son trát phấn cho giai cấp thống trị trong những xã hội đã suy tàn, mục ruỗng. Có thứ văn chương bất tử, sống mãi với muôn đời, có thứ văn chương rẻ tiền sẽ bị quên lẵng với thời gian. Chủ nghĩa nhân đạo, lòng yêu thương tôn trọng con người là thước đo căn bản nhất để đánh giá mọi giá trị văn học chính. "Những người khốn khổ" của Hugo, “ Sống lại" của L.Tolstoi, Thúy Kiều của Nguyễn Du… là những tác phẩm trong đó tác giả còn bộc lộ quan điểm sai lầm về tư tưởng và những giải pháp cải tạo xã hội, nhiều nhân vật cũng đã trải qua bao nhiêu vấp ngã, giằng xé, lầm lẫn… nhưng đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ sống mãi với thời gian; bởi sức mạnh cảm hóa sâu xa, bởi lòng yêu thương con người mênh mông, sâu thẳm bởi thái độ căm ghét, phẫn uất trước những thế lực xâu xa, tàn ác đã giày xéo chà đạp lên con người. Đó chính là lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn có khả năng nhân đạo hoa con người, làm cho con người tin hơn ở những điều thiện, ở khả năng vươn tơi điều cao cả, cao thượng, kể cả những con người đã trải qua và chịu đựng nhiều điều ác khủng khiếp do xã hội và có khi do chính mình gây ra. Mặt khác, nói tới quá trình nhân đạo hóa của văn học không phải chỉ là khả năng gợi lòng trắc ẩn, động tâm, thương cảm đối với những cảnh ngộ bất hạnh đói nghèo diễn ra trong xã hội, dù điều đó cũng là một phương tiện đáng quí. Chức năng nhân đạo hóa còn bộc lộ ở sự tự ý thức vè bản thân, tự nhận diện bản thân trước những điều xấu, tốt, thiện, ác… mà tác phẩm gọi lên. Người ta nói đến sự "thanh lọc" tâm hồn của văn học, hay hình thức "sám hối" của bản thân trước lương tâm của quá trình tiếp nhận tác phẩm là như thế. Nam Cao không phải chi là để cảm thông với Điền, với Thứ, với Hộ… có một cuộc sống bị "cơm áo ghì sát đất", nó đang có nguy cơ giết chết những ước mơ và những tình cảm nhân ái, cao thượng. Những tác phẩm của Nam Cao như một tâm gương soi để độc giả hôm nay tự nhận diện chính mình, không ngừng vượt lên hoàn cảnh bản thân để sống một cách xứng đáng hơn, toota đep hơn. Nếu trong tác phẩm "Đời thừa", nhân vật Hộ là một trí thức hoàn toàn tốt tác phẩm có thể không làm ta xúc động đến thế. Sự giằng xé giữa nhân cách cao thượng, hành vi đẹp đẽ, hoài bão to lớn, tấm lòng vị tha của một "chàng trai trẻ vốn say mê lí tưởng" với những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí, với sự hối thúc của đời sống tầm thường hàng ngày, cả những cẩu thả, bất lương trong nghề cầm bút và những hành vi "tàn nhẫn của hắn" đối với Từ – người rất đỗi đáng thương của y và những giằng xé nội tâm không nguôi trong lòng Hộ, lại làm người đọc xót xa thương cảm đến tận đáy lòng. Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân văn rất lớn của tác phẩm. Chính bản thân tác phẩm "Đời thừa" đã tạo được giá trị đích thực mà tác giả của nó hằng mong mói. "Nó chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng… Nó làm cho con người gần người hơn". Những giá trị nhân văn to lớn như thế lại được hình thành từ những mẫu chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh nhưng được viết bằng một ngòi bút chân thực, tài hoa và nhất là bằng một cuộc sống cũng đầy mâu thuẫn, đau xót, trăn trở của chính nhà văn Nam Cao. Ở đây có vấn đề viết cái gì và viết như thế nào. Không nên đồng nhất nội dung phản ánh và sự phản ánh. Nói cho rõ hơn, ở đây tình cảm, lương tri, thái độ trân trọng đối với giá trị tinh thần của con người đã rọi sáng vào từng cảnh ngộ trong câu văn, làm dậy lên ở người đọc một mối liên tưởng đồng cảm, đau xót. Đó mới là những yếu tố tạo nên sức thuyết phục sâu xa đối với người đọc. Đọc "Đời thừa" ta có cảm giác như nhà văn đã rọi vào chỗ sâu kín nhất của Quá trinh nhân đạo hóa sẽ hình thành từ sự đồng cảm ấy. Ở "Lão Hạc" không vậy. Tác phẩm gợi lên lòng thương cảm nơi người đọc từ cái chết thê thảm của lão vì lòng thương con và vì tình trạng khốn quẫn của lão. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm chủ yếu lại không chỉ nằm ở đây. Tác phẩm là những tình cảm vị tha, cao thượng đầy tự trọng của một lão già nông dân chất phác, hiền lành: biết đâu lão tự tử còn vì lòng tự trọng bị tổn thương, lương tâm cắn rứt vì nỡ lừa dối một con chó! (trong khi còn biết bao con người nhưng mặt người nhưng lòng lang dạ thú "người với người là chó sói"). Phát hiện chỗ sâu xa nhất những nét đẹp lương tri con người, tác phẩm đóng vai rò tích cực trong việc làm cho con người trở nên tốt đẹp, nhân ái hơn. Đó là chưa kể đến những câu văn chan chứa một lòng vị tha độ lượng thái độ làm hòa với người khác và với chính mình, những tình cảm nhân đạo là bài học về cách sống, cách xử thế, cách nhìn nhận và đánh giá con người làm cho lòng ta trở nên thanh thản hơn, cao thượng hơn. "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tâm mà hiểu họ thì ta chi thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bi ổi… toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ đáng thương… “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân, có thể nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác hơn. Con người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị nỗi lo lắng buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận". Chao ôi, nếu ai cũng nghĩ được như thế thì quan hệ giữa con người với con người sẽ tốt đẹp biết bao nhiêu. Những câu văn xót xa mà đẹp đẽ như vượt ra khỏi khuôn khổ của tác phẩm, nó nói về cái tình người muôn thủa nên có, nó có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho con người trở nên cao thượng và nhân ái hơn. Ở đây nói nhân đạo hóa để nhân mạnh sức cảm hóa mạnh mẽ của nghệ thuật. Con người là sản phẩm của tạo hóa, nó vốn đẹp đẽ "nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng xã hội có thể làm tha hóa con người thì văn chương chính lại có khả năng tác động ngược lại. Tình thương, lòng nhân đạo sẽ cảm hóa, thức tỉnh lương tri vốn luôn ấn chứa trong chiều sâu nội tâm con người có khả năng "nhân đạo hóa" con người. Nói "khả năng" vì không nhất thiết bao giờ cũng có thể đạt được như vậy. Nó còn tuỳ thuộc vào sự tiếp nhận riêng biệt của chủ thể cảm thụ. Nhưng một nhà văn chân chính bao giờ cũng nung nấu, khát vọng tác phẩm của mình sẽ đem lại một giá trị tinh thần nào đó nhằm cứu vãn con người. Ngay cả Truyện Kiều, dù Nguyễn Du có viết: "Lời quê chắp nhặt dông dài Mua vui cũng được một vài trống canh" Thì ta cũng hiểu đó chỉ là một cách nói khiêm nhường. Khi trút lên ngòi bút bao nỗi đớn đau về cuộc đời, đương nhiên nhà văn khao khát những tấm lòng những giọt nước mắt đồng cảm: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Mấy thế kỉ trôi qua, Truyện Kiều và những tác phẩm đầy nhân đạo của Nguyễn Du mãi mãi là người bạn tâm tình, là nguồn sức mạnh của biết bao thế hệ độc giả, kể cả những độc giả trẻ tuổi hiện nay: Dẫu súng đạn nặng lòng ra hỏa tuyến Đi đường đài, em giữ “Truyện Kiều" theo. (ChếLan Viên – Gửi Kiều cho em Năm đi đánh Mỹ) Không thể nào có thế nói hết khả năng nhân đạo hóa của văn học đối với con người. Nhưng quả thật, đọc một tác phẩm văn học chân chính, ta có cảm thấy thật hạnh phúc và sung sướng như đang được đối diện, tâm tình trò chuyện với một người bạn thông minh, nhân ái, từng trải, như đang được chia sẻ nỗi buồn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý chí, niềm nghị lực trong cuộc hành trình đầy thử thách cùa cuộc sống. Biết bao nhiêu tác phẩm văn chương đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ. Nói như Gorki :"sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong đời sống, nói cho tôi biết rằng con người thật là vĩ đại và đẹp đẽ, rằng con người luôn luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã làm nên nhiều thứ trên trái đất và vì thế mà họ đã chịu biết bao đau khổ". Và cũng chính Gorki đã tuyên ngôn: "Con người – cái tên mới đẹp làm sao, mới vinh quang làm sao. Con người phai tôn trọng con người". Hiểu biết con người, hiểu chính mình, cảm thông chia sẻ với nỗi khổ đau con người, của mình trong đời sống, nói cho tôi biết rằng con người thật là vĩ đại. Và nỗi buồn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình đầy tà truyện với mọi con người, căm ghét cái giả dối, ti tiện, tàn ác, biết hướng tới cái chân, thiện, mĩ; biết một cách chân thật, nhân ái, cao thượng… đó là những dấu hiệu của quá “nhân đạo hóa" mà văn học chân chính đã và mãi mãi sẽ đem lại cho con người vì hạnh phúc của con người. Nguyễn Tuyến tổng hợp Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Văn mẫu lớp 12Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmdù viết về cái gì văn chương chân chính cũng hướng về con người Có thể bạn quan tâm?Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Nhân bất học bất tri lý – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về tình cảm quê hương – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Tập quán xấu ban đầu là khách qua đường, sau trở thành người bạn thân ở chung nhà và cuối cùng trở thành ông chủ nhà khó tính – Văn mẫu lớp 12Thuyết minh về cải lương – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Lí tưởng là ngọn đèn soi sáng – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về nạn bạo lực học đường đang thường xuyên xảy ra hôm nay – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác – Văn mẫu lớp 12

Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Bài số 1

Con người là một đối tượng phong phú, đầy bí ẩn và phức tạp của văn chương. Thế hệ những người cầm bút từ xưa đến nay đã giành không ít thời gian và tâm huyết cho việc tìm hiểu con người, khám phá những tiềm ẩn trong tâm hồn con người. Trên bước đường tìm tòi không ít gian truân ấy, một vấn đề thường được nhiều người quan tâm: văn chương nói nhiều về cái xấu hay cái tốt của con người, và cái nào cần được nói tới nhiều hơn?

Đã không ít ý kiến bàn luận về vấn đề này. Ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải gần đây, theo tôi, là một ý kiến đáng được ghi nhận: Văn chương có quyền nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung (Báo Văn nghệ số Tết Tân Mùi, 16 – 2 – 1991).

Ý kiến của Nguyễn Khải trên đây là có cơ sở, không chỉ trên phương diện lí luận mà cả trên thực tế văn chương, nó được đúc rút từ sự trải nghiệm của một nhà văn tài năng và có bản lĩnh. Cũng cần phải nói thêm, Nguyễn Khải là một trong số những nhà văn có nhiều ý kiến đóng góp cho xu hướng đổi mới văn nghệ của chúng ta những năm gần đây.

Trước hết, có lẽ Nguyễn Khải muốn khẳng định cái quyền được nói về cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát mà cho đến nay đâu phải nhà văn nào cũng dám nói. Có một thời chúng ta cho rằng thuỷ chung. Đã có lúc ta cho những tác phẩm viết về cái xấu là bôi đen. Phải chăng quan điểm có tính chất ấu trĩ ấy bắt nguồn nghĩ rằng: con người là tốt đẹp, là cao thượng trong khi con người là tất cả cái tốt và cái xấu, cái cao thượng và cái hèn hạ… Vậy thì văn chương vì lẽ gì lại chỉ nói về cái phần tốt đẹp? Để thực hiện chức năng nhân đạo hoá con người văn chương trước hết phải giúp cho con người nhận thức và tự nhận thức. Chỉ nói về cái tốt thì vô tình văn chương đã làm cho con người chỉ thấy một nửa sự thật về con người mình. Cho nên văn chương cần nói về cả cái xấu và phải được quyền nói về cái xấu. Lỗ Tấn đã không ngần ngại chỉ ra cho người dân Trung Quốc nói riêng và nhân loại nói chung một thói tật của con người, một căn bệnh, đó là phép thắng lợi tinh thần. Sêkhốp qua những trang viết của mình muốn nói thẳng nói thật với mọi người: hãy nhìn xem chúng ta đã sống tồi, sống tẻ như thế nào (lời Sê-khôp nói với một sinh viên). Vũ Trọng Phụng với những chân dung biếm họa đã lên án cái kệch cỡm, cái thớ lợ của con người. Raxpatin trong Hãy sống và nhớ lấy muốn nói với chúng ta rằng con người cũng có những khi hèn nhát như Anđrây Guxcôp và từ đó là đầu mối của những bi kịch cho chính mình và cho những người xung quanh.

Nhà văn – được phép viết về cái xấu nhưng theo Nguyễn Khải không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Con người là đỉnh cao của tự nhiên, là báu vật của tạo hoá cho nên bản chất của con người là tốt đẹp – văn chương chi viết về cái xấu xa của con người là phiến diện, văn chương cần phải viết về cá cái tốt đẹp của con người. Con người ta bên phần con, có phần người; bên cái xâu có rất nhiều cái tốt, nhà văn phải nhận thức được điều này để viết về con người với tất cả những gì họ có. vấn đề này theo ý kiến của Nguyễn Khải, Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung. Vấn đề mà các nhà văn xưa nay lưu tâm đến nhiều hơn là cái tốt đẹp của con người. Gorki đã rất ý thức được điều này không nhận thấy nhiệm vụ của mình là phải làm cho con người nhận thấy trong cuộc sống họ là cái tốt đẹp nhất, có ý nghĩa nhất… ngoài họ ra không còn gì đáng chú ý cả.

Văn chương xưa nay nói nhiều đến cái tốt đẹp, cái mà Tản Đà, Nguyễn Tuân gọi là thiện lương của con người. Nguyễn Du qua hình tượng Thuý Kiều ca ngợi vẻ đẹp của con người đẹp người, đẹp nét, con người hi sinh cả hạnh phúc đời mình để làm tròn chữ hiếu, con người biết nhỏ nước mắt khóc thương cho số phận đắng cay của một con người, Đạm Tiên, như còn muốn nóỉ về sự thuỷ chung của con người đã mười lăm năm lưu lạc mà không lúc nào không hướng về người mình yêu. Trong số bao nhiêu điều muốn gửi gắm, Nam Cao qua Chí Phèo muốn có một lời thanh minh, một sự khẳng định đối với con người đáng thương hơn là đáng giận ấy. Nhà văn đã nhìn ra cái phần người còn sót lại trong quỷ dữ. Nam Cao đã đáp vững trên miệng vực khi ông đi vào miêu tả mối tình Chí Phèo – Thị Nở không phải để khai thác cái phần lưu manh trong Chí. Cái mà tác giả dụng công làm nổi lên ấy chính là từ những giây phút thức tỉnh hiếm hoi khi lần đầu tiên sau bao nhiêu ngày Chí nghe thấy những âm thanh cuộc sống; từ nỗi buồn của con người đã từ lâu lắm mất cái khái niệm buồn vui; từ tiếng thét nhức nhối tâm can: Ai cho tao lương thiện, cho người đọc nhận ra cái phần Người trong một kẻ tưởng như đã mất hết cả nhân hình và nhân tính. Thạch Lam trong những trang viết giàu chất thơ, rất tinh tế đã nói lên cái khát khao rất đẹp của những người dân phố huyện khắc khoải đợi chờ ánh sáng của một thế giới khác tốt đẹp hơn đến với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt của mình (Hai đứa trẻ).

Cái phần tốt đẹp trong mỗi con người dù rất nhỏ cũng làm cho các nhà văn chú ý và lưu tâm đưa vào sáng tác của mình. Victo Huygô với mong muốn một thế giới có những con người giàu lòng nhân ái đã dựng lên hình tượng Jăng Vanjăng bảo mẫu của lòng từ thiện. Con người ấy lấy việc chính vì người khác làm hạnh phúc của mình. Jăng Vanjăng đã vì sự sống của những đứa cháu mình đã đập tủ kính của một cửa cửa hiệu để rồi nhận lấy 19 năm tù không một thoáng ân hận. Jăng Vanjăng..đã quên đi tai họa đang giáng xuống đời mình để vì niềm vui, một chút hi vọng dù rất nhỏ của con người sắp từ giã cõi đời – Phăngtin. Đến với Pautôpxki ta hãy lắng lòng, hãy bình tâm để được sống với một thế giới những con ngưdi giàu lòng nhân hậu như hạ đội trưởng (Âm nhạc Vecđi), như Anđecxen Chuyến xe đêm). Văn học của ta những năm chiến tranh nói nhiều đến những cái đẹp trong tâm hồn mỗi người. Điều những người cầm bút trong chiến tranh chú ý khai thác ấy là sự hi sinh hạnh phúc cá nhân cho vận mệnh dân tộc.

Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau

(Cuộc chia li màu đỏ – Nguyễn Mĩ)

Đó là sự cao thượng, sẵn sàng tha thứ của Lương (Thư nhà – Hồ Phương), đó là việc tìm thấy niềm vui trong chiến đấu của những chị Sứ (Hòn Đất – Anh Đức), chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi), đó là cái lạc quan của anh chiến sĩ ép một cành xấu hổ trong trang sổ khiến cuộc sống đầy gian khổ của mình thêm một chút thi vị (Cây xấu hổ – Anh Ngọc).’. Sống trong không khí hào hùng của đất nước, các nhà thơ, nhà văn đi sâu thể hiện cái tốt đẹp của con người. Chúng ta chấp nhận thứ văn chương như thế trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng sự kéo dài của thứ văn chương nghiêng về ca ngợi trong bối cảnh của đời sống bình thường lại dẫn đến sự nghèo nàn đơn điệu, sự thiếu phong phú cho diện mạo của một nền văn học. Khi trong cuộc đời tiếng súng đã dứt và bom không nổ nữa, người đọc thấy văn chương xa lạ đối với mình. Cuộc sống bộn bề, bên những người phần tốt đẹp nhiều là những kẻ ít tính người, trong khi đó người ta vẫn chỉ thấy trong văn chương những điều đẹp đẽ như cái cao thượng của con người. Trên bước đường đổi mới văn học chiến tranh, các nhà văn đã đưa vào tác phẩm của mình những cái xảy ra trong mỗi con người: cái xấu, cái tốt, cái hèn hạ – cái cao cả, ta đã có Biển gọi của Hồ Phương, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh. Tuy nhiên cái tốt đẹp, cái cao thượng vẫn là một đề tài lớn có một sức thu hút không nhỏ đối với các nhà văn, nhà thơ. Ta vẫn gặp trong văn chương những nét đẹp vốn đã là bản chất của con người.

Đúng như Nguyễn Khải đã nói: điều mà những người cầm bút ở mọi nơi, mọi thời hay nói đến đó là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung, nhưng cái đẹp mà chỉ Con người mới có. Chúng ta đã xem xét qua một số tác phẩm mà dụng ý viết về cái tốt đẹp của tác giả bộc lộ khá rõ nét. Cũng cần phải nói đến điều có một số nhà văn được đánh giá là thiên về xu hướng phủ định nhưng những trang viết của họ vẫn đôi chỗ khẳng định cái đẹp của con người – cái tốt đẹp bao giờ cũng có một sức thu hút rất lớn.

Những điều mà chúng ta bàn trên đây mới chỉ xét trên phương diện miêu tả cái tốt hay cái xấu. Điều quan trọng trong sáng tác văn học chưa hẳn ở chỗ viết về cái gì. Phản ánh để làm gì? Câu hỏi đó có lẽ còn khó trả lời hơn bản thân sự phản ánh. Sẽ rất sai lầm nếu cho rằng nhà văn phản ánh để mà phản ánh. Nhà văn viết về cái xấu đâu phải như thế là không tốt.

Để tránh sự hiểu lầm có lẽ cũng cần phải nói thêm: nhà văn viết về cái xấu cũng có thể thành công như người viết về cái tốt. Đừng bao giờ lấy đề tài ra làm chuẩn mực để đánh giá văn chương. Sai lầm của chúng ta một thời là sai lầm của việc xét đoán, thẩm định giá trị của tác phẩm văn chưcmg qua đề tài của nó. Điều mà nhà văn đề cập đến trong tác phẩm có thể là cái xấu xa nhưng mục đích hướng tới của người cầm bút lại chính là cái cao thượng tốt đẹp và thuỷ chung kia. Lê Lựu khi viết về cái Thời xa vắng đã nói lên cái xấu của ta một thời là không đủ bản lĩnh để sống với cái tôi của mình. Nhưng tác phẩm không vì thế mà thành xấu. Người ta vẫn đọc, vẫn thích Thời xa vắng bởi tấm lòng nhà văn, dụng ý nhà văn ở đó là đẹp. Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng đặt ra một vấn đề nhức nhối đó là sự xuống cấp của đạo đức xã hội nhưng tác phẩm không chỉ dừng lại ở sự phản ánh đơn thuần. Nhà văn muốn cảnh tình con người, hướng con người tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tác phẩm của nhà văn sẽ có ích cho đời nếu nhà văn có những mong muốn đẹp, hướng con người tới sự hoà thuận dừ đỉầu nhà văn nối đến trong trang viết là tốt hay xấu. Hãy viết về cái tiêu cực với một thái độ tích cực, hãy nói về cái xấu với một dụng ý đẹp, nhà văn sẽ tìm thấy niềm vui mà Pautôpxki đã có, niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp.

Dù viết về cái gì, thứ văn chương chân chính cũng hướng tới con người, viết về cái xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động, giúp con người sống với bản tính tốt đẹp của minh. Viết về cái tốt để con người tin ở mình và đó chính là hành trang cần có ở con người trong cuộc hành trình tới tương lai. Nhà văn chân chính phải là người ý thức được thiên chức của mình trong quá trình sáng tạo là năng đỡ cái phần tốt đẹp để trong đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn. Cho nên để tạo cho đời những giá trị nghệ thuật đích thực, người cầm bút phải yêu thương và tin yêu con người. Phải biết nhìn ra từ cái bên ngoài có khi bình thường thậm chí xấu xa, vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Phải có niềm tin vào bản chât tốt đẹp của con người cho dù điều nhà văn viết có xấu xa, ghê tởm và hèn nhát đến đâu. Nguyễn Minh Châu tạo ra được những tác phẩm có sức ám ảnh lớn đối với người đọc phải chăng có một phần do tình yêu thương và niềm tin với con người: Tôi tin lương tri của con người (Lời tâm sự trên giường bệnh).

Phải có tấm lòng nhưng để trở thành nhà văn anh còn phải có tài năng. Chỉ có tài năng mới có thể làm cho những trang viết đi vào lòng độc giả và sống với thời gian.

Tuy nhiên như thế chưa đủ. Cuộc sống và nghề văn đòi hỏi người cầm bút còn phải có tài năng. Chỉ có tài năng mới có thể làm cho những trang viết đi vào lòng độc giả và sống với thời gian.

Tuy nhiên như thế chưa đủ. Cuộc sống vá nghề văn đòi hỏi người cầm bút còn phải có bản lĩnh. Viết về cái tốt thì dễ được chấp nhận nhưng viết về cái xấu đâu phải ai cũng bằng lòng. Nhà văn phải có bản lĩnh để sống và viết đúng với cái tôi của chính mình, phải dám đi vào những vấn đề nóng bỏng nhức nhối của cuộc đời.

Chúng ta đã qua cái Thời xa vắng. Cuộc sống và người đọc đang rất cần những tác phẩm văn học đích thực, những tác phẩm như những thanh nam châm thu hút không chỉ một thế hệ, những tác phẩm luôn cổ động cho cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung.

Nghị luận xã hội về câu nói: Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung – Bài số 2

Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thực với đời sống tinh thần của con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ…

Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa của nhà văn trước cuộc đời, trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con người. Dù văn học viết về những sự cố lớn lao: bão táp cách mạng, chiến tranh, hay chỉ diễn tả một tiếng chuông chùa, một bờ tre, ruộng lúa… bao giờ ta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con người gửi gắm ở bên trong.

Với tư cách là cụ thể của hoàn cảnh, là động lực của sự phát triển xã hội, là gốc của mọi sáng kiến, phát minh. Con người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát vọng, thành đạt hay khổ đau luôn luôn là đối tượng trung thực của văn học, là mối quan tâm hàng đầu của nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn bản nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính.

Nhà văn Nga Tolstoi đã từng viết: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Còn Goethe thi nói: "Những điều đầu tiên mà thiên nhiên cần là tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống". Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet thì diễn tả tình yêu ấy bằng hình ảnh thật cụ thể: "Nhà văn là người cho máu". Đó là một tình yêu bao gồm cả sự hi sinh to lớn. Tác phẩm chân chính đúng là sản phẩm trí tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt nữa của người nghệ sĩ, là kết quả của quá trình nếm trải, nung nấu, cảm xúc dào dạt – cái mà người ta gọi là cảm tưởng trong sáng tạo nghệ thuật, không ai làm thơ làm văn trong trạng thái khô cằn, chai sạn xúc cảm. Cảm tưởng ấy có thế bắt đầu từ niềm vui sưóng, tự hào hay tin tưởng, phân khởi, nhưng với nghệ sĩ chân chính thì chăng bao giờ có niềm vui hời hạt, giản đơn. Bởi vi cuộc sống con người, trong tính hiện thực của nó, niềm vui luôn luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên cạnh bóng tốì, cái xấu luôn xen lẫn bên cạnh cái tốt, hạnh phúc thường đi liền với khổ đau, bất hạnh ….Và những khổ đau của con người xưa nay vốn là nỗi nhức nhối, bức xúc nhất hối thúc người nghệ sĩ cầm bút.

Chính nhà văn Xô viết V.Raxpuchin đã diễn đạt tình cảm ấy một cách giản dị chân thành: "Nếu tôi viết, ấy là vì tôi cảm thấy đau ở đâu đây trong người với Huygo thì bể khổ của nhân loại là hầm mỏ khai thác không vơi cạn cuả cha ông. Truyện kiều là tiếng khóc đứt ruột. Chí Phèo là tiếng thét phẫn uất đòi quyền làm người… Những tác phẩm chân chính, bất tử với thời gian thường là những tác phẩm diễn tả những xung đột có khi đầy bi kịch giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái cao thượng với cái thấp hèn, ghê tởm… Tuy nhiên "thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung". Đó chính là khả năng nhân đạo mà văn học chân chính có thể mang lại cho con người.

Ở đây có mấy vấn đề cần lưu ý: Sở dĩ nói văn học chân chính chứ không phải văn học nói chung vì trong sự tồn tại của văn học nhân loại quả là những tác phẩm vì con người, nâng cao phẩm giá con người nhưng cũng có thứ văn chương làm hạ thấp phẩm giá con người. Có những tác phẩm là kết quả của thao thức khổ đau, hi sinh, trăn trở  nhưng cũng không thiếu thứ văn chương làm thuê, làm công cụ, bồi bút tô son trát phấn cho giai cấp thống trị trong những xã hội đã suy tàn, mục ruỗng.

Có thứ văn chương bất tử, sống mãi với muôn đời, có thứ văn chương rẻ tiền sẽ bị quên lẵng với thời gian. Chủ nghĩa nhân đạo, lòng yêu thương tôn trọng con người là thước đo căn bản nhất để đánh giá mọi giá trị văn học chính. "Những người khốn khổ" của Hugo, “ Sống lại" của L.Tolstoi, Thúy Kiều của Nguyễn Du… là những tác phẩm trong đó tác giả còn bộc lộ quan điểm sai lầm về tư tưởng và những giải pháp cải tạo xã hội, nhiều nhân vật cũng đã trải qua bao nhiêu vấp ngã, giằng xé, lầm lẫn… nhưng đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ sống mãi với thời gian; bởi sức mạnh cảm hóa sâu xa, bởi lòng yêu thương con người mênh mông, sâu thẳm bởi thái độ căm ghét, phẫn uất trước những thế lực xâu xa, tàn ác đã giày xéo chà đạp lên con người.

Đó chính là lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn có khả năng nhân đạo hoa con người, làm cho con người tin hơn ở những điều thiện, ở khả năng vươn tơi điều cao cả, cao thượng, kể cả những con người đã trải qua và chịu đựng nhiều điều ác khủng khiếp do xã hội và có khi do chính mình gây ra.

Mặt khác, nói tới quá trình nhân đạo hóa của văn học không phải chỉ là khả năng gợi lòng trắc ẩn, động tâm, thương cảm đối với những cảnh ngộ bất hạnh đói nghèo diễn ra trong xã hội, dù điều đó cũng là một phương tiện đáng quí. Chức năng nhân đạo hóa còn bộc lộ ở sự tự ý thức vè bản thân, tự nhận diện bản thân trước những điều xấu, tốt, thiện, ác… mà tác phẩm gọi lên. Người ta nói đến sự "thanh lọc" tâm hồn của văn học, hay hình thức "sám hối" của bản thân trước lương tâm của quá trình tiếp nhận tác phẩm là như thế.

Nam Cao không phải chi là để cảm thông với Điền, với Thứ, với Hộ… có một cuộc sống bị "cơm áo ghì sát đất", nó đang có nguy cơ giết chết những ước mơ và những tình cảm nhân ái, cao thượng. Những tác phẩm của Nam Cao như một tâm gương soi để độc giả hôm nay tự nhận diện chính mình, không ngừng vượt lên hoàn cảnh bản thân để sống một cách xứng đáng hơn, toota đep hơn.

Nếu trong tác phẩm "Đời thừa", nhân vật Hộ là một trí thức hoàn toàn tốt tác phẩm có thể không làm ta xúc động đến thế.  Sự giằng xé giữa nhân cách cao thượng, hành vi đẹp đẽ, hoài bão to lớn, tấm lòng vị tha của một "chàng trai trẻ vốn say mê lí tưởng" với những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí, với sự hối thúc của đời sống tầm thường hàng ngày, cả những cẩu thả, bất lương trong nghề cầm bút và những hành vi "tàn nhẫn của hắn" đối với Từ – người rất đỗi đáng thương của y và những giằng xé nội tâm không nguôi trong lòng Hộ, lại làm người đọc xót xa thương cảm đến tận đáy lòng. Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân văn rất lớn của tác phẩm.

Chính bản thân tác phẩm "Đời thừa" đã tạo được giá trị đích thực mà tác giả của nó hằng mong mói. "Nó chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng… Nó làm cho con người gần người hơn". Những giá trị nhân văn to lớn như thế lại được hình thành từ những mẫu chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh nhưng được viết bằng một ngòi bút chân thực, tài hoa và nhất là bằng một cuộc sống cũng đầy mâu thuẫn, đau xót, trăn trở của chính nhà văn Nam Cao.

Ở đây có vấn đề viết cái gì và viết như thế nào. Không nên đồng nhất nội dung phản ánh và sự phản ánh. Nói cho rõ hơn, ở đây tình cảm, lương tri, thái độ trân trọng đối với giá trị tinh thần của con người đã rọi sáng vào từng cảnh ngộ trong câu văn, làm dậy lên ở người đọc một mối liên tưởng đồng cảm, đau xót.  Đó mới là những yếu tố tạo nên sức thuyết phục sâu xa đối với người đọc.

Đọc "Đời thừa" ta có cảm giác như nhà văn đã rọi vào chỗ sâu kín nhất của Quá trinh nhân đạo hóa sẽ hình thành từ sự đồng cảm ấy. Ở "Lão Hạc" không vậy. Tác phẩm gợi lên lòng thương cảm nơi người đọc từ cái chết thê thảm của lão vì lòng thương con và vì tình trạng khốn quẫn của lão. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm chủ yếu lại không chỉ nằm ở đây. Tác phẩm là những tình cảm vị tha, cao thượng đầy tự trọng của một lão già nông dân chất phác, hiền lành: biết đâu lão tự tử còn vì lòng tự trọng bị tổn thương, lương tâm cắn rứt vì nỡ lừa dối một con chó! (trong khi còn biết bao con người nhưng mặt người nhưng lòng lang dạ thú "người với người là chó sói"). Phát hiện chỗ sâu xa nhất những nét đẹp lương tri con người, tác phẩm đóng vai rò tích cực trong việc làm cho con người trở nên tốt đẹp, nhân ái hơn.

Đó là chưa kể đến những câu văn chan chứa một lòng vị tha độ lượng thái độ làm hòa với người khác và với chính mình, những tình cảm nhân đạo là bài học về cách sống, cách xử thế, cách nhìn nhận và đánh giá con người làm cho lòng ta trở nên thanh thản hơn, cao thượng hơn. "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tâm mà hiểu họ thì ta chi thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bi ổi… toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ đáng thương… “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân, có thể nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác hơn. Con người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị nỗi lo lắng buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận".

Chao ôi, nếu ai cũng nghĩ được như thế thì quan hệ giữa con người với con người sẽ tốt đẹp biết bao nhiêu. Những câu văn xót xa mà đẹp đẽ như vượt ra khỏi khuôn khổ của tác phẩm, nó nói về cái tình người muôn thủa nên có, nó có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho con người trở nên cao thượng và nhân ái hơn.

Ở đây nói nhân đạo hóa để nhân mạnh sức cảm hóa mạnh mẽ của nghệ thuật. Con người là sản phẩm của tạo hóa, nó vốn đẹp đẽ "nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng xã hội có thể làm tha hóa con người thì văn chương chính lại có khả năng tác động ngược lại. Tình thương, lòng nhân đạo sẽ cảm hóa, thức tỉnh lương tri vốn luôn ấn chứa trong chiều sâu nội tâm con người có khả năng "nhân đạo hóa" con người. Nói "khả năng" vì không nhất thiết bao giờ cũng có thể đạt được như vậy. Nó còn tuỳ thuộc vào sự tiếp nhận riêng biệt của chủ thể cảm thụ. Nhưng một nhà văn chân chính bao giờ cũng nung nấu, khát vọng tác phẩm của mình sẽ đem lại một giá trị tinh thần nào đó nhằm cứu vãn con người. Ngay cả Truyện Kiều, dù Nguyễn Du có viết:

"Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh"

Thì ta cũng hiểu đó chỉ là một cách nói khiêm nhường. Khi trút lên ngòi bút bao nỗi đớn đau về cuộc đời, đương nhiên nhà văn khao khát những tấm lòng những giọt nước mắt đồng cảm:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Mấy thế kỉ trôi qua, Truyện Kiều và những tác phẩm đầy nhân đạo của Nguyễn Du mãi mãi là người bạn tâm tình, là nguồn sức mạnh của

Gregoryquary

0 chủ đề

23832 bài viết

0