29/01/2018, 21:19

Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Văn mẫu lớp 12

Nội dung bài viết1 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 1 2 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 2 3 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 3 4 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 4 5 Phân tích Bản ...

Nội dung bài viết1 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 1 2 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 2 3 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 3 4 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 4 5 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 5 Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 1 Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận, với những lập luận sắc sảo, khí thế hừng hực, hào hùng, đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Tuyên ngôn độc lập là tác phẩm có giá trị về mặt văn học và chính trị rất lớn, thể hiện tinh thần quyết tâm chiến đấu bảo vệ của dân tộc trước sức mạnh của kẻ thù. Với với ngòi bút sắc sảo và khả năng thuyết phục của mình, Hồ Chí Minh đã tạo nên những ánh văn tuyệt bút. Sức mạnh ở nó là những lời lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục bằng lí lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái hay, cái tài của Tuyên ngôn Độc lập theo quan niệm đó. Bản Tuyên ngôn Độc lập viết cho ai? Câu hỏi đặt ra có vẻ như thừa. Bởi vì giải đáp có sẵn trong văn bản: “Hỡi đồng bào cả nước!… Chúng tôi (…) trịnh trọng tuyến bố với thế giới rằng”. Đó là một lời tuyên bố hùng hồn cho toàn dân tộc và thế giới, để toàn thể nhân dân thế giới biết được nhân dân Việt Nam đã dành được độc lập tự do. Mục đích của bản tuyên bố không phải chỉ dừng ở việc tuyên bố cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Bác đã mở đầu bằng những câu trích trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Mĩ và Pháp từ thế kỉ XVIII. Vậy đối tượng và mục đích của văn kiện lịch sử này phải được tìm hiểu cặn kẽ hơn nữa. Cần thấy rằng khi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn thì ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội Anh thay mặt Đồng minh vào giải giáp quân Nhật đang tiến vào Đông Dương, còn ở phía Bắc thì bọn Tàu Tưởng – tay sai của đế quốc Mĩ, đã trực sẵn ở biên giới. Người viết bản Tuyên ngôn cũng thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh – Mĩ – Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mĩ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương” (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày 15 – 8 – 1945 – Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, 1970). Và tên thực dân này, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai của mình đã tung ra trong dư luận quốc tế những lí lẽ “hùng hồn” của bọn ăn cướp: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công khai hóa đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi phát xít Nhật đã bị Đồng minh đánh bại. Như vậy là bản Tuyên ngôn không chỉ đọc trước đồng bào và một thế giới trừu tượng, cũng không phải chỉ tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối tượng thế giới ở đây trước hết là bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp. Và khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc ở đây đồng thời là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ lí lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Người ta gọi thế là “lấy gậy đập lưng ông”. Mượn lời khẳng định quyền độc lập, tự do của mỗi dân tộc bằng chính lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp, đã ghi trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang truyền thống tư tưởng văn hóa của những dân tộc ấy. để chứng minh rằng dân tộc Việt Nam cũng phải được quyền lợi cơ bản ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên quyết. Khéo léo vì nó tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ. Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam. Không chỉ có vậy, việc Bác nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang bằng nhau, ba nền độc lập ngang bằng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn., bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế tương xứng như để đặt ngang hàng triều Đinh, Lê, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc. Phải công nhận rằng, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thực ra đã giải quyết đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên ngôn đã nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay đã gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là đặt ra yêu cầu của cuộc cách mạng của nước Mỹ: đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mĩ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn cũng viết: “Dân ta đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Đấy cũng là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền và dân quyền của Pháp thế kỉ XVIII. Tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định, quyền độc lập tự do là quyền cơ bản, tối thiểu của con người: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bác Hồ của chúng ta thật tài năng và sắc sảo khi sử dụng từ ngữ “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình” (Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới – NXB Hà Nội, H, 1979). Vậy thì có thể xem cái luận điểm “suy rộng ra” kia là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm suy sụp chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa năm sau thế kỉ XX. Lúc đó, bọn thực dân Pháp đang đe dọa nền độc lập của dân tộc, bản tuyên ngôn là một lời cảnh bảo cho Pháp và những nước đang nhăm nhe xâm lược nước ta. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ nhân loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập cơ sở pháp lí của cuộc kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan luận điểm xảo trá của bọn thực dân muốn “hợp pháp hóa” cuộc xâm lược của chúng ta trước dư luận quốc tế. Bản Tuyên ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép. Bằng lời lẽ sắc sảo của mình, bản Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột vơ vét đến tận xương tủy, cuối cùng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai mươi triệu đồng bào bị chết đói”. Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương ư? Bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì “trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và có quyền trở lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dương có còn là thuộc địa của chúng nữa đâu? Bản Tuyên ngôn vạch rõ: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Luận điểm này, đứng về ý nghĩa pháp lí cực kì quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên ngôn: “Bởi thế cho nên, chúng tôi lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam. Xóa bỏ mọi, đặc quyền của Pháp trên nước Việt Nam”. Sức mạnh chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có lí lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn lí lẽ của sự thật. Vì thế người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật”: “Sự thật là…”, “sự thật là…”. Và cuối cùng là nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do độc lập…” Đấy là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn. Đây là hệ thông lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc, thực dân. Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do hay không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ không phải để bác bỏ mà để khẳng định: Bản tuyên ngôn đã chỉ cho thực dân Pháp biết rằng, nếu thực dân Pháp có phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành chủ quyền từ tay phát xít Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng ở hành động “Thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yến Bái và Cao Bằng” thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhận đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: “Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp chạy ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”. Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do,đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”… Tinh thần khẳng định trong lời kết luận, còn được tăng cấp lên một bậc nữa: hưởng độc lập tự do không chỉ là tư cách cần có, mà đó là một hiện thực: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Và vì thế “Toàn dân tộc Việt Nam quyết đem tất tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuyên ngôn độc lập là tác phẩm thể hiện tài năng của Bác, thể hiện ý chí quyết tâm đấu tranh của dân tộc Việt. Bác đã dùng kiến thức của mình đưa ra những lập luận chặt chẽ, những luận điểm, những bằng chứng xác thực khiến không một ai có thể chối cãi được. Tác phẩm đã thể hiện tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn của Hồ Chí Minh, là một kiệt tác có giá trị về cả văn học và chính trị. Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 2 Vị lãnh tụ vĩ đại của nước Việt Nam ta không ai khác ngoài Bác Hồ. Người là danh nhân văn hóa thế giới khiến ai ai cũng phải nghiêng mình. Người đã để lại cho nền văn học nước nhà một kho tàng tác phẩm giá trị. Và bản tuyên ngôn độc lập là một trong số đó. Tác phẩm được soạn thảo vào ngày 26 tháng 8 năm 1945 tại số nhà 48 Hàng Ngang. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, bác đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn có kết cấu ba phần: cơ sở pháp lý – cơ sở thực tế – khẳng định. Bản tuyên ngôn mở đầu bằng cách trích dẫn những lời bất hủ của "tuyên ngôn độc lập Mỹ" và "tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của pháp. Cả hai bản tuyên ngôn này đều đề cập đến quyền tự do, quyền sống, quyền bình đẳng của con người. Người trân trọng, đề cao những lời lẽ trong hai văn bản này. Người khẳng định: "đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Bởi đây là thành quả của những cuộc cách mạng tháng Tám tiến bộ và chân lí mang đầy tính nhân văn của nhân loại. Nhà văn đấu tranh cho quyền của con người. Từ hai bản tuyên ngôn Bác đã vận dụng sáng tạo. Từ quyền của con người, Bác nâng lên quyền của cả dân tộc. Tầm nhìn sâu rộng của Bác đã tạo nên một lời khẳng định đanh thép: "Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Việc trích dẫn hai văn bản này có tác dụng rất lớn. Nó như một cách "gậy ông đập lưng ông", đập tan mọi luận điệu xảo trá của kẻ thù, tố cáo tội ác của chúng. Đồng thời bằng cách này, Bác đã đặt tuyên ngôn của Việt Nam sánh vai với tuyên ngôn Pháp và Mỹ và khơi dậy mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Kết thúc phần mở đầu là câu khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn không gì khác ngoài tội ác của bọn thực dân và lập trường chính nghĩa của ta. Để tố cáo bộ mặt thối nát của thực dân Pháp, Bác dùng một câu vừa khẳng định, phủ định. Bác đã lật ngược lại vấn đề: "thế mà hơn 80 năm nay". Bác đã vạch trần luận điệu xảo trá của thực dân Pháp, giáng đòn phủ đầu về phía chúng. Tội ác của bọn thực dân được vạch trần trên các khía cạnh: chính trị-văn hóa, kinh tế. "Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man, lập ra ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc, chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu; thi hành chính sách ngu dân; dùng rượu cồn thuốc phiện để làm cho nòi giống ta suy nhược. Thực dân Pháp nói đến An Nam để khai hóa, văn minh, tự do, bình đẳng, bác ái nhưng ngược lại. Tất cả những tội ác trên đã cho thấy sự bịp bợm, dối trá của bọn chúng. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến dân ta nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn. Để thấy được tội ác chồng chất của bọn chúng, Người đã sử dụng phương pháo lặp cấu trúc cú pháp kết hợp liệt kê. Lời văn đanh thép của Người thể hiện rõ sự căm hờn khiến cho người đọc, người nghe dấy lên lòng căm thù ghê gớm. Đặc biệt là hình ảnh "tắm cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu". Hình ảnh này có sức gợi hình gợi cảm hết sức mạnh mẽ. Nhưng tội ác của chúng chưa phải là hết. Trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Mùa thu năm 1940, Nhật vào Đông Dương, Pháp đã "quì gối đầu hàng". Từ đó nhân dân ta lại chịu hai tầng xiềng xích Pháp – Nhật khiến từ Quảng Trị tới Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Chúng còn thẳng tay đàn áp, khủng bố Việt Minh ta. Tội ác của chúng đã khiến dân ta khốn khỏi cùng cực. Ta có lập trường chính nghĩa của ta. Đồng bào ta vẫn giữ một thái độ nhân đạo và khoan hồng. Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân ta cả nước nổi dậy giành chính quyền. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị, dân ta đã đánh đổ mấy tầng xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Với giọng điệu nhanh dồn dập, sử dụng nhiều từ khẳng định: "sự thật là…", Người đã thành công trong việc khẳng định ta chính nghĩa, Pháp phi nghĩa, ta có độc lập tự do là tất yếu. Phần cuối của bản tuyên ngôn là lời tuyên bố. Lời tuyên bố này là với Pháp, với Đồng minh, với nhân dân Việt Nam và Thế giới. Đồng thời khẳng định ý chí quyết tâm giữ vững độc lập tự do của nhân dân ta: "toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy." Cũng giống như Bình ngô đại cáo và Nam quốc sơn hà, bản Tuyên ngôn độc lập là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc ta. Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 3 Hồ Chí Minh là nhà thơ, nhà văn nhà chính trị kiệt xuất của dân tộc Việt Nam ông có rất nhiều những tác phẩm hay và đặc sắc, một người viết trên những cảm nhận sâu sắc, và sự thấu đáo của mình đối với toàn bộ tác phẩm điều đó đã làm cho ông có khả năng nâng cao được vốn tri thức và ý nghĩa to lớn cho chính những tác phẩm của mình, những giá trị của tác phẩm không chỉ đem lại cho dân tộc sự tố cáo mạnh mẽ, nó còn có giá trị to lớn trong những cảnh cảm nhận của mình. Một trong những tác phẩm để lại cho dân tộc ta nhiều cảm nhận nhất đó là bài Tuyên Ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Trong chính tác phẩm bác đã nêu lên những luận điệu đanh thép trong cách sáng tác cũng như cách cảm nhận về nhân vật một cách mới mẻ và da diết nhất về con người, những cảm nhận đó đã tạo cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về xã hội Việt Nam trước năm 1945, Tuyên Ngôn độc lập là một tác phẩm được viết trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, nó được viết ngay sau khi dân tôc ta dành được độc lập tự do, những cảm nhận và sự thấu hiểu sâu sắc về chính tác phẩm và giá trị của mình, đã được biểu lộ một cách mạnh mẽ và có nhiều ý nghĩa to lớn nhất. Biết bao nhiêu cảm xúc và sự sống được tạo dựng nên trên nhiều cảm xúc và những giá trị mạnh mẽ trong cách cảm nhận riêng của chính nhân vật. Tác giả đã vẽ lên những chi tiết biểu hiện một cách có giá trị và nó biểu lộ được trong những cảm xúc riêng nhất về chính cuộc đời và biết bao nhiêu cảm nhận của mình. Trong cảm xúc và tạo dựng nên cuộc sống, nó là những khoảng khắc da diết để làm nên được những cảm xúc da diết và tạo nên được những ấn tượng mạnh mẽ về chính tác phẩm. Với những nhịp điệu đanh thép tác giả đã dùng lên những giọng điệu da diết và biết bao nhiêu cảm nhận về chính cuộc đời và tạo nên biết bao nhiêu cảm nhận về cuộc đời và hình ảnh của nhân vật, biết bao nhiêu giá trị cho chính tác phẩm đã làm nên được biết bao nhiêu cảm xúc và chi tiết cho chính cuộc đời, trong tác phẩm , tác giả đã lột rõ bộ mặt tàn ác của kẻ thù đối với dân tộc Việt Nam, những điều đó, mang ý nghĩa tố cáo sâu sắc về hình ảnh và mẫu hình lý tưởng trong cách sáng tạo nghệ thuật của Hồ Chí Minh. Trong bản tuyên ngôn bác đã trích dẫn bản tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp và Mĩ để khẳng định nền độc lập dân tộc của đất nước Việt Nam, biết bao nhiêu lý lẽ đanh thép được biểu hiện trong chính tác phẩm, và hình ảnh đó đã mang đậm giá trị và cuộc sống có ý nghĩa cho chính con người, trong những cảm xúc đanh thép và lập luận đầy ý nghĩa, tác giả đã tạo dựng nên biết bao nhiêu dòng cảm xúc, trước tiên là giọng đanh thép đối với thái độ và hành động của kẻ thù, những hình ảnh điển hình và tạo dựng nên cho chính cuộc đời này, nhiều những dấu ấn mạnh mẽ trong chính tác phẩm và biết bao nhiêu giá trị to lớn cho chính cuộc đời của mình. Tuyên ngôn độc lập là một lý do tuyên bố độc lập của dân tộc Việt Nam đã trải qua, biết bao nhiêu cảm xúc và giá trị mạnh mẽ và ý nghĩa cho cuộc đời và giá trị cho chính cảm nhận của mình, tác phẩm với một giọng điệu đanh thép và đầy giá trị tố cáo đã được thể hiện một cách mãnh liệt và da diết nhất, về chính con người và toàn bộ mọi việc trong chính xã hội này. Với lối lý luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép Hồ Chí Minh đã tố cáo được mạnh mẽ luận điệu xảo trá của kẻ thù, chúng đã bóc lột và ra sức đàn áp dân tộc Việt Nam, chính những điều đó làm cho bác cảm thấy phẫn nộ trước những đàn áp của kẻ thù, với những chiêu trò ghê rợ và một tội ác to lớn chúng đã gây ra cho dân tộc của chúng ta rất nhiều điều, trong đó việc làm không có nhân tính nhất đó là chúng đầu độc dân tộc ta bằng rượu cồn hoặc thuốc phiện, đây là những công cụ giết chết con người một cách từ từ. Tất cả những chủ trương và biện pháp của nó làm cho cuộc sống của dân tộc Việt nam đang bị đảo lộn mỗi ngày, chúng đã ra sức áp bức và tạo nên những điều tồi tệ nhất, bác đều khẳng định và tố cáo ở đây, có thể nói đây là bằng chứng sống để mỗi người khi đọc xong tác phẩm này đều có thể hiểu được một thời kì lịch sử đã qua của dân tộc ta, trải qua bao nhiêu gian truân, cảm xúc đó đang dần được thể hiện của sự tố cáo, và đây là bản tố cáo đanh thép và có nhiều giá trị nhất. Nó không chỉ mang giá trị tố cáo đối với kẻ thù, mà nó còn đẩy mạnh sự thức tỉnh và ý thức về một niềm tin yêu đối với dân tộc của chúng ta. Những giọng điệu đanh thép đã đang dần tố cáo mạnh mẽ tội ác của kẻ thù. Trong bản tuyên ngôn cũng đã trích dẫn những lý lẽ và đây là điều bất khả xâm phạm, dân tộc Việt Nam, ai ai cũng có quyền độc lập và nền độc lập đó sẽ luôn được khẳng định trong chủ quyền của một quốc gia, của một dân tộc, biết bao nhiêu giá trị và cảm xúc của tác giả cũng đang bị kìm nén ở đây, khi ông vừa mang thái độ đau xót cho một nền dân tộc đã phải trải qua những thời kì vô cùng khó khă, vừa có thái độc sâu sắc nhằm tố cáo tội ác của kẻ thù, những điều đó khẳng định một nền độc lập dân tộc đang dần được biểu lộ và thể hiện. Trong tác phẩm sự độc lập tự do, được biểu hiện một cách chi tiết và có ý nghĩa nhất, nó biểu hiện niềm tin về một nền độc lập, vừa có thể khẳng định, trong chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, ai ai cũng có quyền bình đẳng, và độc lập dân tộc là một điều có ý nghĩa mạnh mẽ tác động đến cuộc sống và con người của mỗi chúng ta. Giá trị của tác phẩm được thể hiện qua cách liệt kê và thể hiện qua hàng loạt những dẫn chứng về tội ác của một nền độc lập dân tộc, trong chính trok chúng cũng xẻ núi, và trong văn hóa chúng đã mở ra những nhà tù nhiều hơn cả trường học, tất cả những tội ác đó đều được bác Hồ thể hiện ở đây, về kinh tế chúng bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, đây có lẽ là những hành động tàn ác và cay độc nhất của kẻ thù. Tuyên Ngôn độc lập vừa là thể văn chính trị sâu sắc, nó đã sử dụng những lý lẽ đanh thép và một nền độc lập sáng tỏ qua đó tác động mạnh mẽ đến kẻ thù và chính một nền độc lập to lớn của một dân tộc hiện đại, trong biết bao nhiêu cảm xúc đã được thể hiện mạnh mẽ ở đây, và tác phẩm, sinh động và rạo rực lên với những ngôn ngữ linh hoạt và vô cùng chính xác, luận điệu vô cùng đanh thép và tạo ấn tượng mạnh mẽ cho con người. Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 4 Trong số những tác phẩm của Bác có những kiệt tác sánh ngang với các thiên cổ hùng văn của dân tộc thì Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm tiêu biểu nhất. Tác phẩm có giọng văn hùng hồn thống thiết, có lí luận chặt chẽ sắc bén, có sức thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe – Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những con người anh hùng Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. “Bản tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu hi vong, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam (Trần Dân Tiên). Tuyên ngôn Độc lập mở đầu là nêu thẳng vấn đề. Người nêu những căn cứ pháp lí, “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Đó là những câu tuyên bố nổi tiếng được Bác rút ra từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mĩ. Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra… mưu cầu hạnh phúc”. Để làm nổi bật tính phổ biến của những lẽ phải, Người còn nêu những lời trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra… về quyền lợi). Cách nêu dẫn chứng như thế vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì tỏ ra tôn trọng chân lí chung dù chân lí ấy của các nước đang là kẻ thù gây ra. Cách nêu dẫn chứng ấy cũng hàm chứa một sự phê phán. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ- những kẻ xâm lược đã chà đạp lên chân lí, chà đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ông chúng. Đó là cách dùng lí lẽ của kẻ thù để chống lại kẻ thù, dùng gậy ông đập lưng ông. Hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đều nhấn mạnh quyền con người, Bác nói thêm về quyền dân tộc. Câu nói của Người mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Đồng thời, đặt Bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng với hai bản tuyên ngôn đã nêu. Bác lập luận như vậy là để kết tội thực dân Pháp. Những lời bất hủ trong hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đã trở thành cơ sở pháp lý để Bác kết tội thực dân Pháp. “Thế mà đã hơn 80 năm nay… nhân đạo và chính nghĩa” Sau khi kết thúc một cách khai quát tôị ác của thực dân Pháp, bản tuyên ngôn nêu lên những dẫn chứng cụ thể để lật mật nạ “bảo hộ” của thực dân Pháp trước toàn thể nhân loại: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho… dân chủ nào”. Lời kể tội của tác giả hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận trùng điệp như: “Chúng thi hành…”, “Chúng lập ra…”. “Chúng thẳng tay chém giết…” thể hiện được tội ác chồng chất của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách dùng hình ảnh của tác giả làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước… chúng tắm các cuộc… bể máu”. Về kinh tế, Bác cũng kết tội thực dân Pháp từ khái quát đến cụ thể “Chúng bóc lột dân ta đến… tiêu điều”. Bác quan tâm đến những hạng người như: “dân cày và dân buôn trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Lập luận như vậy là Bác muốn tranh thủ sự ủng hộ của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc bảo vệ nền Độc lập. Cả đoạn văn tác giả chỉ dùng một chủ ngữ “chúng” để chỉ thực dân Pháp, nhưng vị ngữ thì luôn thay đổi: “thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”… chỉ một ke thù là thực dân Pháp nhưng tội ác của chúng gây ra trên đất nước ta vô cùng nhiều. Cách lập lụân đanh thép cùng với những dẫn chứng cụ thể khiến kẻ thù hết đường lẩn tránh tội ác. Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp gây ra là nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căm cứ đánh đồng minh thì thực dân Pháp quì gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, nhân dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”. Tác giả cũng không bỏ xót những tội ác khác của bọn thực dân Pháp như “trong năm năm chung bán… cho Nhật”, tội thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa, tội “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.” Người kết tội thực dân Pháp một cách hùng hồn và đanh thép như vậy nhằm phơi bày bản chất tàn bạo, dã man của thực dân Pháp, lột mặt nạ “khai hoá’, “bảo hộ” của chúng trước nhân dân thế giới, khơI lòng căm thù của nhân dân ta với thực dân Pháp. Tác giả biểu dương sức mạnh dân tộc trong công cuộc chống thực dân phong kiến và giành lấy nền Độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng…chế độ dân chủ cộng hoà”. Đoạn văn này diễn tả đầy hào khí. Chỉ có 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Bác dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động và cực kì oanh liệt của dân tộc ta. Biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc, tác giả nhằm kích thích tinh thần tự hào dân tộc, kích thích ý chí chiến đấu để nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp. Tiếp theo, Người nêu cơ sở chính nghĩa của việc thành lập nước Việt Nam mới. Việt Minh là tổ chức cách mạng của toàn bộ dân tộc Việt Nam. Việt minh đã đứng về phe đồng minh, đã chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật và đã giành chính quyền từ tay Nhật. Hai lần Người nhấn mạnh nền Độc lập của đất nước bằng những câu văn điệp ngữ mạnh mẽ: “Sự thật là…”. Trên cơ sở ấy, Người tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ trên đất nước Việt Nam…” Cuối cùng thay mặt cho cả một dân tộc vừa giành được tự do độp lập. Người nêu lời thề “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do Độc lập ấy”- Tuyên ngôn Độc lập là kiệt tác của Hồ Chí Minh. Bằng tâm huyết và tài hoa, Người đã thể hiện được khí phách của một dân tộc đang vùng dậy chống đế quốc, thực dân phong kiến, giành Độc lập tự do cho nước nhà. Với Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu tiên Việt Nam hiện diện trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do và Độc lập và nhân dân thế giới cũng thấy được tinh thần quyết tâm bảo vệ nền Độc lập của dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lích sử. Nó là bản văn quan trọng bậc nhất của nước ta. Để có được Tuyên ngôn Độc lập, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong suốt 80 năm chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một cột mốc lịch sử, nó chấm dứt giai đoạn mất nước, giai đoạn nhân dân ta sống kiếp ngựa trâu, nô lệ của dân tộc, nó mở đầu một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên Độc lập tự do. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, thống thiết, Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng sánh ngang với các bản tuyên ngôn trên thế giới và các thiên cổ hùng văn của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi… Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 5 Ngày 2.9.1945 là một sự kiện lớn, một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử dân tộc, trong tâm trí của người dân Việt Nam. Hơn sáu mươi năm đã trôi qua nhưng mỗi khi xem lại những thước phim tư liệu chúng ta lại hồi hồi như đang đứng giữa Quảng trường Ba Đình năm ấy và lại rưng rưng cảm giác xúc động vui sướng, tự hào khi nghe giọng Bác trầm ấm” Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” khi đọc lời tuyên ngôn độc lập – mội văn kiện lịch sử đặc biệt – một áng văn chính luận bất hủ. Toàn văn bản tuyên ngôn độc lập không dài, chỉ gói gọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ những vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liền mạch với nhau theo một bố cục chặt chẽ mạch lạc. Phần đầu, bản Tuyên ngôn nêu lên những chân lí về nhân quyền và dân quyền. Tác giả trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp là có dụng ý sâu sắc. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ ra đời sau khi nước Mĩ đấu tranh giành độc lập thành công. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cũng ra đời trong chiến thắng của cách mạng Pháp, cuộc cách mạng của những thị dân và nông dân chống áp bức, bất công. Lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn trên tự thân đã nêu lên những chân lí, là kết quả của những cuộc cách mạng có tính chất tiên phong của những nước có ảnh hưởng lớn trên thế giới, khiến cho không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Ta có thể thấy sự hiểu biết và cân nhắc kĩ càng của vị Chủ tịch khi trích dẫn những chân lí đó. Hơn thế Người còn vận dụng sáng tạo: "Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và cũng đầy thuyết phục. Điều đáng nói hơn nữa là ngay ở đoạn đầu này, cũng chính là lời trích dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền đã toả ra chiến đấu mạnh mẽ và tiềm tàng của hành động trái ngược hẳn: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta". Rõ ràng qua cách lập luận như thế, một sự thật được phơi bày cách hiển nhiên là bản chất của thực dân Pháp ở Việt Nam trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Kết thúc phần này là một câu khẳng định ngắn gọn đầy sức thuyết phục: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Mở rộng hơn, phần thứ hai liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất nước ta trong suốt gần một trăm năm đô hộ. Trước tiên, chúng tước đoạt tự do chính trị, “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Kế đó là “chúng thi hành những luật pháp dã man, ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết…” Cả đoạn dày đặc những câu liệt kê định tội rắn rỏi, tố cáo toàn diện tội ác cùa bọn cướp nước. Từng câu, từng chữ đã nêu bật bản chất bọn xâm lược. Thực dân Pháp đã thi hành chính sách ngu dân, tiêu diệt văn hoá, chính là muốn diệt trừ tận gốc bản sắc dân tộc, ý thức lịch sử và truyền thống dân tộc bằng cách “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Chúng đàn áp thẳng tay và dã man những người yêu nước, "tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu", cướp đoạt trắng trợn và bất công quyền thiêng liêng nhất của con người: quyền được sống. Đó là thực chất khai hoá, cái gọi là đem văn minh đến cho người bản xứ mông muội. Chúng còn "bóc lột dân la đến xương tuỷ… cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu… đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta trở nên tin cùng… chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn". Hành động của chúng thật hết sức vô nhân đạo và chánh nghĩa. Hơn nữa, khi bị Nhật tước khí giới, chúng đã bỏ chạy, đầu hàng, bán nước hai lần cho Nhật. Đó là thực chất bảo hộ của chúng, sự thật lịch sử đã tố cáo bản chất dối trá, hèn nhát của bọn xâm lược. Chỉ trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả đã xé toang chiêu bài "khai hoá, bảo hộ" giả dối bịp bợm mà bây lâu chúng dùng để che đậy những việc làm xấu xa độc ác. Tác giả dùng liên tiếp những sắc thái từ cao độ: hắn, tuyệt đối không cho, dã man, thẳng tay chém giết, tắm… trong những bể máu, bóc lột đến tận xương tuỷ…. ngôn ngữ linh hoạt, sắc bén, đầy hình ảnh cụ thể, chính xác, gợi tả, tỏ thái độ căm giận sâu sắc trước những tội ác man rợ đó. Điệp từ chúng xuất hiện dày đặc, lồng trong những câu song hành, đồng nghĩa, như những nhát búa đập thẳng vào lớp vỏ bọc hoa mĩ bọn thực dân vẫn tuôn ra bấy lâu, tạo những âm vang sóng dội, nhấn mạnh và trở đi trở lại, như khắc sâu ghi nhớ, như kết án luận tội đồng thời tỏ ra sức mạnh của chúng ta, sức mạnh của chính nghĩa. Đối lập với những hành động phi nhân đó của thực dân Pháp cuộc đấu tranh đầy nhân đạo chính nghĩa của nhân dân ta. Từ những hành động tàn nhẫn của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh, giết chính trị phạm, tác giả dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo, khoan hồng của quân và dân ta: giúp nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Điệp ngữ Sự thật là… đã khẳng định chiến thắng của ta: ta đã lấy lại đất nước từ trong tay Nhật, đất nước mà thực dân Pháp đã cướp lấy rồi bán cho phát xít Nhật. Chúng ta chiến đấu chống phái xít, đứng về phía mặt trận dân chủ chống phát xít, có vai trò và vị trí xứng đáng trước thế giới chính do sức mạnh tự chủ tự thân của dân tộc. Như vậy các nước tiến bộ trên thế giới phải đồng tình ủng hộ quyền được hưởng tự do độc lập một cách chính đáng của dân tộc ta. Câu tuyên bố “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc tích, nghe như một lời reo vui. Câu này cũng có thể làm một ví dụ tiêu biểu cho văn phong Hồ Chí Minh là ngắn gọn chuẩn xác mà đầy uy lực, giàu ý nghĩa. Tuyên bố với thế giới về việc thành lập của một đất nước mới nhưng đã phải chịu nhiều đau thương, tác giả đã rất đanh thép và triệt để khi dùng những cụm từ thoát li hẳn, xoá bỏ hết, Xóa bỏ tất cả để nhấn mạnh sự phủ định tuyệt đối mọi quan hệ lệ thuộc với Pháp, chặt nốt những mắt xích cuối cùng ràng buộc Việt Nam, để đất nước này đứng lên trong tự do hoàn toàn, xây dựng một chế độ mới. Tự do vừa giành được thật vô giá. Để có được nó, nhân dân ta đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu hi sinh, bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Thế mà vẫn còn bao nhiêu thù trong giặc ngoài lúc bây giờ đang lăm le bóp chết sự sống mới hình thành của nước Việt Nam non trẻ. Hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân nêu lên lời tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đó chính là tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh tất cả để giữ lấy độc lập, tự do. Cụm từ tự do và độc lập được lặp lại ba lần, như khắc sâu vào tâm trí muôn triệu người dân Việt, vang lên mạnh mẽ và rung động như tiếng kèn xung trận hào hùng. Lời tuyên bố nghe như một lời thề sắt đá và thiêng liêng, vừa khích lệ nhân dân la vừa cảnh báo kè thù. Đây là bản Tuyên ngôn độc lập lần đầu tiên tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới, đánh dấu một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do cho một dân tộc bất khuất kiên cường. Nó đánh dấu thắng lợi đầu tiên của một nước ở châu Á. Mặt khác, bản Tuyên ngôn còn là một áng văn chính luận mẫu mực, đanh thép và lôi cuốn ở lí lẽ và lập luận chặt chẽ, ở từ ngữ, hình ảnh dễ cảm, chính xác, mạnh mẽ. Ở câu văn gọn mà sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa cảnh cáo, vạch mặt kẻ thù, vừa khích lệ, động viên tinh thần nhân dân và tranh thủ sự đồng tình quốc tế. Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa được những chân lí cùa lịch sử dân tộc và thế giới vừa mang tính thời đại. Bản tuyên ngôn còn đồng thời mang tính lịch sử và mang tính văn chương. Bởi thế nó mãi mãi là áng văn bất hủ, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam yêu nước. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Văn mẫu lớp 12Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmpháp chạy nhật hàng vua bảo đạu thoái vị đâu là chủ ngữ vị ngữ Có thể bạn quan tâm?Nghị luận xã hội về câu nói: Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới – Văn mẫu lớp 12Nghị luận về chủ đề Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về danh và thực – Văn mẫu lớp 12Phân tích tác phẩm Thuốc (Lỗ Tấn) – Văn mẫu lớp 12Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về ứng xử lịch sự, văn minh – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu nói: Tiền không phải là tất cả – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Giấy rách phải giữ lấy lề – Văn mẫu lớp 12

Phân tích Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Bài số 1

Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận, với những lập luận sắc sảo, khí thế hừng hực, hào hùng, đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Tuyên ngôn độc lập là tác phẩm có giá trị về mặt văn học và chính trị rất lớn, thể hiện tinh thần quyết tâm chiến đấu bảo vệ của dân tộc trước sức mạnh của kẻ thù.

Với với ngòi bút sắc sảo và khả năng thuyết phục của mình, Hồ Chí Minh đã tạo nên những ánh văn tuyệt bút. Sức mạnh ở nó là những lời lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục bằng lí lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái hay, cái tài của Tuyên ngôn Độc lập theo quan niệm đó. Bản Tuyên ngôn Độc lập viết cho ai? Câu hỏi đặt ra có vẻ như thừa. Bởi vì giải đáp có sẵn trong văn bản:

“Hỡi đồng bào cả nước!… Chúng tôi (…) trịnh trọng tuyến bố với thế giới rằng”. Đó là một lời tuyên bố hùng hồn cho toàn dân tộc và thế giới, để toàn thể nhân dân thế giới biết được nhân dân Việt Nam đã dành được độc lập tự do.

Mục đích của bản tuyên bố không phải chỉ dừng ở việc tuyên bố cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Bác đã mở đầu bằng những câu trích trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Mĩ và Pháp từ thế kỉ XVIII. Vậy đối tượng và mục đích của văn kiện lịch sử này phải được tìm hiểu cặn kẽ hơn nữa. Cần thấy rằng khi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn thì ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội Anh thay mặt Đồng minh vào giải giáp quân Nhật đang tiến vào Đông Dương, còn ở phía Bắc thì bọn Tàu Tưởng – tay sai của đế quốc Mĩ, đã trực sẵn ở biên giới. Người viết bản Tuyên ngôn cũng thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh – Mĩ – Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mĩ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương” (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày 15 – 8 – 1945 – Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, 1970). Và tên thực dân này, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai của mình đã tung ra trong dư luận quốc tế những lí lẽ “hùng hồn” của bọn ăn cướp: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công khai hóa đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi phát xít Nhật đã bị Đồng minh đánh bại. Như vậy là bản Tuyên ngôn không chỉ đọc trước đồng bào và một thế giới trừu tượng, cũng không phải chỉ tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối tượng thế giới ở đây trước hết là bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp. Và khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc ở đây đồng thời là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ lí lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Người ta gọi thế là “lấy gậy đập lưng ông”.

Mượn lời khẳng định quyền độc lập, tự do của mỗi dân tộc bằng chính lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp, đã ghi trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang truyền thống tư tưởng văn hóa của những dân tộc ấy. để chứng minh rằng dân tộc Việt Nam cũng phải được quyền lợi cơ bản ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên quyết. Khéo léo vì nó tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ. Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Không chỉ có vậy, việc Bác nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang bằng nhau, ba nền độc lập ngang bằng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn., bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế tương xứng như để đặt ngang hàng triều Đinh, Lê, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc.

Phải công nhận rằng, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thực ra đã giải quyết đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên ngôn đã nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay đã gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là đặt ra yêu cầu của cuộc cách mạng của nước Mỹ: đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mĩ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn cũng viết: “Dân ta đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Đấy cũng là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền và dân quyền của Pháp thế kỉ XVIII.

Tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định, quyền độc lập tự do là quyền cơ bản, tối thiểu của con người: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bác Hồ của chúng ta thật tài năng và sắc sảo khi sử dụng từ ngữ “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình” (Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới – NXB Hà Nội, H, 1979). Vậy thì có thể xem cái luận điểm “suy rộng ra” kia là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm suy sụp chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa năm sau thế kỉ XX.

Lúc đó, bọn thực dân Pháp đang đe dọa nền độc lập của dân tộc, bản tuyên ngôn là một lời cảnh bảo cho Pháp và những nước đang nhăm nhe xâm lược nước ta. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ nhân loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập cơ sở pháp lí của cuộc kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan luận điểm xảo trá của bọn thực dân muốn “hợp pháp hóa” cuộc xâm lược của chúng ta trước dư luận quốc tế. Bản Tuyên ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.

Bằng lời lẽ sắc sảo của mình, bản Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột vơ vét đến tận xương tủy, cuối cùng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai mươi triệu đồng bào bị chết đói”. Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương ư? Bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì “trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”.

Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và có quyền trở lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dương có còn là thuộc địa của chúng nữa đâu? Bản Tuyên ngôn vạch rõ: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Luận điểm này, đứng về ý nghĩa pháp lí cực kì quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên ngôn: “Bởi thế cho nên, chúng tôi lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam. Xóa bỏ mọi, đặc quyền của Pháp trên nước Việt Nam”. Sức mạnh chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có lí lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn lí lẽ của sự thật. Vì thế người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật”: “Sự thật là…”, “sự thật là…”. Và cuối cùng là nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do độc lập…” Đấy là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn. Đây là hệ thông lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc, thực dân. Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do hay không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ không phải để bác bỏ mà để khẳng định:

Bản tuyên ngôn đã chỉ cho thực dân Pháp biết rằng, nếu thực dân Pháp có phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành chủ quyền từ tay phát xít Nhật.

Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng ở hành động “Thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yến Bái và Cao Bằng” thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhận đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: “Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp chạy ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”. Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do,đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”…

Tinh thần khẳng định trong lời kết luận, còn được tăng cấp lên một bậc nữa: hưởng độc lập tự do không chỉ là tư cách cần có, mà đó là một hiện thực: “Nước Việt

0