18/06/2018, 12:08

Nghệ Sĩ Năm Châu

Năm Châu - cuộc đời như sân khấu Trong lịch sử sân khấu cải lương miền Nam, khi nhắc đến tên những nghệ sĩ tiền phong có công khai sáng và vun bồi cho nền ca kịch cải lương, thì tên tuổi của nghệ sĩ Năm Châu phải được kể ở hàng đầu, trước những tên tuổi lẫy lừng của các nghệ sĩ tài danh ...

 

Năm Châu - cuộc đời như sân khấu Trong lịch sử sân khấu cải lương miền Nam, khi nhắc đến tên những nghệ sĩ tiền phong có công khai sáng và vun bồi cho nền ca kịch cải lương, thì tên tuổi của nghệ sĩ Năm Châu phải được kể ở hàng đầu, trước những tên tuổi lẫy lừng của các nghệ sĩ tài danh cùng thời.

Nhắc tới anh Năm Châu thì hầu như trên lĩnh vực nào của sự hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu cải lương, cũng được người trong giới nghệ sĩ nhìn nhận anh là người đầu đàn, đã khai sáng và đóng góp công lao nhiều nhất. 

Anh vừa là một diễn viên kỳ tài, có nhiều vai tuồng để đời, vừa là một soạn giả có nhiều tuồng hay, vừa là đạo diễn sân khấu đầu tiên áp dụng kỹ thuật tân tiến của sân khấu phương Tây vào nghệ thuật sân khấu Việt Nam.

Anh Năm Châu là bầu gánh nhiều đoàn hát lớn, đã đào tạo nhiều thế hệ nghệ sĩ kế thừa, những hạt ngọc của sân khấu cải lương, kịch nói, phim ảnh trong các thập niên 1950, 1960, 1970, 1980. Anh cũng là giáo sư kịch nghệ đầu tiên của trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn, phân khoa kịch nghệ từ khi ông Nguyễn Phụng đảm nhiệm chức vị giám đốc trường này (1962). Và dĩ nhiên, không thể không nhắc tới những thành công của anh trên lĩnh vực phim ảnh, phim tuồng cải lương và trong việc chuyển âm, lồng tiếng cho các phim nước ngoài khi nghệ thuật này mới phôi thai ở nước ta trong những năm 1950-1960.

Năm Châu, tên thật Nguyễn Thành Châu, sinh ngày 9 tháng 1 năm 1906, tại tổng Thuận Trị, làng Điều Hòa, tỉnh Mỹ Tho. Thân phụ của anh là một công chức Tòa Bố, tỉnh Mỹ Tho, vì làm mếch lòng Tỉnh trưởng nên bị thuyên chuyển ra làm việc ở đảo Phú Quốc, tỉnh Rạch Giá.

Lúc anh Năm Châu học năm thứ hai Ban Thành Chung trường Trung học Mỹ Tho, nhân dịp nghỉ hè, anh ra Phú Quốc thăm cha. Đến ngày tựu trường, vì bão tố, tàu bè không trở về đất liền kịp ngày nhập học, anh bị trễ nên bị cúp học bổng và bị đuổi. Gia đình định cho anh tiếp tục học ở trường Taberd, nhưng anh quyết định tự lập, theo nghiệp cầm ca, gia nhập gánh hát thầy Năm Tú năm 1922.

Người vợ đầu tiên: cô Sáu Trâm, nữ diễn viên tài danh của gánh hát Tập Ích Ban. Cô Sáu Trâm là người Hoa lai Việt (Triều Châu), quê ở Thốt Nốt, Long Xuyên. Đại đa số đào kép mà ông bầu Hai Cu quy tụ dưới bảng hiệu Tái Đồng Ban là dân Mỹ Tho, mà trước đó là người đã cộng tác với gánh Nam Đồng Ban, cũng do ông làm bầu. Con trai của ông Hai Cu là kép chính Hai Giỏi chết (Hai Giỏi là người chồng đầu tiên của nghệ sĩ tài danh Năm Phỉ). Ông Hai Cu cho rã gánh hát Nam Đồng Ban. Năm sau, ông lấy xác gánh Nam Đồng Ban, thành lập đoàn Tái Đồng Ban với thành phần đào kép như: Phùng Há, Ba Nhàn, Ba Liên, Ba Điều, Tư Nhỏ, Sáu Trâm, Sáu Tị, và Năm Châu, Tám Mẹo, Ba Du, Tư Út, Từ Anh, Hai Ngởi, Hai Bông, Bảy Nhiêu, Tư Thới. Anh Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung) gia nhập Tái Đồng Ban với tư cách là nhạc sĩ đàn đản.

 

Sáu Trâm thủ vai Bạch Thu Hà và Năm Châu, vai Võ Đông Sơ tuồng Giọt máu chung tình là cặp đào kép ăn khách nhất lúc bấy giờ. Sáu Trâm ca, diễn theo lối hát Tiều, ảnh hưởng cũ của gánh Tập Ích Ban, nhiều động tác tượng trưng “tả ý” như lối hát bội. Anh Năm Châu phải chỉ dẫn, tập luyện lại cho Sáu Trâm để khi ca, diễn chung, ăn ý, rặp ràng với nhau.

Khi Năm Châu và Sáu Trâm trở thành cặp đào kép diễn xuất ăn khách nhất thì mối tình đầu nảy nở, anh Năm Châu và chị Sáu Trâm trở thành cặp vợ chồng xứng lứa vừa đôi nhất trong giới nghệ sĩ cải lương lúc bấy giờ. Lúc đó, anh Tư Chơi, nhạc sĩ, kềm cặp dạy cô Phùng Há ca, luyện giọng cũng yêu nhau. Kết quả: Trương Bửu Chánh ra đời (1927). Cô Bửu Chánh về sau, có về quê nội bên Hạc San (Trung Hoa) và được dì ruột của Bửu Chánh là bà Trương Liên Hảo (có người chồng phú gia họ Lý), nhận Bửu Chánh làm dưỡng nữ và cải họ lại là Lý Bửu Chánh.

Cô Phùng Há ca diễn và sắc vóc đẹp hơn cô Sáu Trâm nên vô tình đẩy cô Sáu Trâm xuống hàng “đào nhì”. Năm Châu lại tỏ ra quá quyến luyến, chỉ lo dạy cho cô Phùng Há nên cô Sáu Trâm ghen, buồn duyên tủi phận, âm thầm rời gánh hát đột ngột. Anh Năm Châu và nhiều bạn bè của anh đổ xô đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng bặt mất dạng cô Sáu Trâm.


Khi có dịp gặp lại cô Sáu Trâm (24 năm sau), tôi tò mò hỏi chuyện ngày xưa. Cô Sáu Trâm kể: “Lúc đó, tôi ghen quá, trở về quê nhà ở Long Xuyên, cũng có ý đợi “ảnh” xuống rước trở lên gánh hát. Nhưng rồi “ảnh” mê sân khấu hơn vợ nhà. “Ảnh” theo gánh hát miết. Tôi cũng không thể tự mình trở lại gánh hát, thành ra tôi ở với má tôi. Khi biết anh Năm Châu sống chung với cô Tư Sạng và có với nhau một đứa con, tôi trở lại nghề hát, trong lòng nuôi ý định là sẽ hát hay hơn chị Phùng Há hay cô Tư Sạng, đó là vì tự ái nghề nghiệp và cũng là cái ý ganh tỵ của một người đàn bà, muốn làm cho mình đẹp hơn, giỏi hơn tình địch của mình.

Tôi đi theo gánh hát Văn Hí Ban, rồi gia nhập lại gánh hát Tập Ích Ban 2, nhưng tôi càng ngày càng hiểu rõ là khi một người đàn ông đã bỏ vợ, có thêm một người vợ khác, đẹp hơn, giỏi hơn người vợ cũ thì người cũ khó bề giành lại được chồng mình. Nhất là trong nghề ca hát, nếu không có thầy tuồng nâng đỡ, dìu dắt, không có bạn đồng diễn đồng sắc, đồng tài thì diễn viên khó có thể thành công lớn. Nghĩ vậy nên tôi giải nghệ, không theo gánh hát nữa, tôi trở về Long Xuyên, giúp má tôi trong việc buôn bán”.

Những khi đoàn Việt Kịch Năm Châu hát ở Cần Thơ, anh Năm Châu và cô Sáu Trâm không trực tiếp gặp nhau mà chỉ gởi quà tặng hoặc những lời thăm hỏi, chứng tỏ là giữa họ chỉ còn lại một chút tình tri ngộ năm xưa. Anh Nguyễn Thành Văn, con của danh ca Tư Sạng, nay lại là người thay mặt cho mẹ, đứng ra phụng dưỡng cô Sáu Trâm, có lẽ là để bù đắp lại những thiệt thòi mà mẹ anh đã gây ra cho cô Sáu Trâm. Dẫu sao, đó cũng là một hành động đẹp giữa những nghệ sĩ với nhau. Người vợ thứ hai: Đệ nhất nữ danh ca tiền phong Tư Sạng

Cô Tư Sạng tên thật là Đoàn Thị Sạng, sinh quán tại làng Điều Hòa, tỉnh Mỹ Tho. Năm 1925, cô gia nhập gánh hát Trần Đắc của ông Trần Đắc Nghĩa, cùng với những nghệ sĩ tài danh Năm Châu, Tư Chơi, Tư Út, Từ Anh, Phùng Há, Năm Kim Thoa. Trên sân khấu, cô Tư Sạng chỉ là đào nhì, đứng sau cô Phùng Há, nhưng trên địa hạt dĩa nhựa thì cô được chủ gánh, hãng dĩa, các giới mộ điệu và khán giả tặng danh hiệu đệ nhất nữ danh ca.

Cô được khán giả lục tỉnh và Sài Gòn biết đến và ái mộ trong các tuồng Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều, Trang Tử Cổ bồn ca, Hạnh Ngươn cống Hồ, Lưu Yến Ngọc cứu cha... trên sân khấu cũng như các dĩa hát của thầy Năm Tú tại Mỹ Tho. Dĩa hát mang nhã hiệu Pathé (78 tours) đường kính khoảng một gang rưỡi, phải dùng kim có gắn hột saphir ở đầu mới hát được. Vô đầu dĩa hát, bao giờ cũng có câu quảng cáo như sau: “Đây, bạn hát cải lương thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, hát cho hãng Pathé - phono nghe chơi, tuồng...”

Trong những thập niên 1930, 1940, vì phương tiện giao thông thiếu kém, các đoàn hát bội và cải lương ít đến được các quận, huyện xa trục lộ giao thông để hát nên ở các vùng đó, khi có tiệc vui, những dịp cưới gả, người ta dùng máy hát dĩa, hát những tuồng bộ và những bài ca vọng cổ để mua vui. Do đó, tuy chưa được biết mặt nhưng họ đã biết danh những giọng ca vàng và rất mến mộ các nghệ sĩ như cô Tư Sạng, cô Tư Được, cô Hai Đá, nghệ sĩ Hồng Châu, Thanh Tao, Tư Út, Năm Châu...

Giọng ca của cô Tư Sạng trong trẻo, dịu dàng nhưng chứa đựng một tình cảm não nùng ai oán, nên khi ca những bài tâm sự của người phụ nữ sầu tình thì bộ dĩa nào cũng bán rất đắt.

Đến nay, đã hơn 60 năm qua, những người từng mê giọng ca của cô Tư Sạng vẫn còn nhắc mãi các bộ dĩa hát của cô ca như: Đêm khuya trông chồng, Mẹ dạy con, Xử tội Bàng Quý Phi. Thời gian này, soạn giả Nguyễn Thành Châu (Năm Châu) sáng tác vở cải lương Giá trị và danh dự, và soạn giả Huỳnh Thủ Trung (Tư Chơi), sáng tác vở Khúc oan Vô Lượng, Lỡ tay trót đã nhúng chàm (Năm Châu, Tư Sạng và cô Năm Kim Thoa thủ các vai chính), ứng dụng bản Dạ cổ hoài lang nhịp tư vào trong tuồng, khiến cho khán giả yêu thích cải luơng càng say mê trước lối diễn cũng như giọng ca của cô Tư Sạng, cô Phùng Há, cô Năm Kim Thoa..

Anh Năm Châu là một diễn viên có tài, sắc vóc đẹp, cao lớn như Tây, lại là một soạn giả có nhiều vở tuồng hay, đích thân chỉ dạy cho các đào kép khác ca, diễn nên anh được các cô đào hát và nữ khán giả si mê, theo đuổi... Có lẽ, anh là người quá say mê nghệ thuật sân khấu nên chỉ có người phụ nữ tài danh, “thinh sắc lưỡng toàn” mới lọt được vào cặp mắt xanh của anh.

Năm 1935, ông Ngô Văn Mạnh (tự Năm Mạnh) thành lập hãng dĩa ASIA. Ông Năm Mạnh ký giao kèo độc quyền với cô Tư Sạng và đã tung ra thị trường bộ dĩa tròng kim nhũ chữ đen với nhan đề là Trảm Trịnh Ân, Đào Tam Xuân báo phu cừu do các danh ca Tư Xe và Tư Sạng ca.

Trong bộ dĩa 20 câu vọng cổ Xử tội Bàng Quý Phi, cô Tư Sạng đã làm rơi lệ biết bao thính giả khắp miền sông nước Cửu Long với một giọng ca âu sầu tha thiết, Bàng Qúy Phi - Tư Sạng van xin chồng là vua Tống Nhơn Tông tha cho cha khỏi chết theo lệnh Tam Ban Trào Điển, đã gợi cho người nghe một mối thương tâm ai oán, não nùng.

Những năm tháng tên tuổi của nam đệ nhất danh ca Út Trà Ôn nổi tiếng qua bộ dĩa Tôn Tẫn giả điên (tròng trắng, chữ đen) nhịp 16 đợt đầu thì nữ đệ nhất danh ca Tư Sạng cũng nổi danh qua dĩa Đêm khuya trông chồng, và nhất là bộ dĩa mà nhạc sĩ Bảy Hàm đờn guitare độc chiếc, dây Rạch Giá cho cô Tư Sạng hát 20 câu vọng cổ Tình mẫu tử, với những lời lẽ vô cùng xúc động khi mẹ dạy con.

Với trên 100 bộ dĩa trong những năm tháng dài cộng tác với hãng dĩa, cô Tư Sạng thật xứng đáng với danh hiệu nữ đệ nhất danh ca thời tiền chiến.

Cô Tư Sạng xa rời sân khấu trình diễn, để có thời gian thu thanh cho hãng dĩa. Và cô đã rời bỏ anh Năm Châu dù hai người đã có chung với nhau năm đứa con. Sau đó, cô Tư Sạng trở thành vợ thứ của ông Năm Mạnh.

Anh Năm Châu rất đau buồn trước sự gãy đổ hạnh phúc gia đình, nỗi đau đớn, hận tình được bộc lộ ngay trong sáng tác của anh.

Xin có điểm lưu ý là từ năm 1923 đến năm 1936, những tuồng cải lương hoặc thoại kịch của anh Năm Châu sáng tác đều mượn cốt chuyện trong truyện Trung Hoa, hoặc phóng tác theo kịch của Pháp, của Anh. Tuồng viết chung với anh Tư Trang là tuồng dã sử, hoặc chuyện tình ở nông thôn giữa kẻ phú hào và người cày thuê cấy mướn.

Sau khi bị cô Tư Sạng phụ tình, đến năm 1937, anh Năm Châu sáng tác vở kịch Phũ phàng sau thành tuồng cải lương Men rượu hương tình, nội dung nói về cô đào hát tham tiền, phụ rẫy người chồng là nghệ sĩ nghèo, để chạy theo kẻ khác giàu sang. Anh chồng kép hát vẫn đeo đuổi theo nghiệp cầm ca, giải buồn bằng men rượu, và gục chết trên sân khấu sau đêm diễn tuồng. Những lời than thân, oán trách người tình được viết rất công phu, nói lên nỗi lòng day dứt giữa sự chọn lựa: đeo đuổi sự nghiệp cầm ca hay bỏ cái nghề ca hát để theo đuổi người tình? Rõ ràng, đây chính là nỗi lòng của tác giả.

Nữ nghệ sĩ Kim Cúc, con gái lớn của nghệ sĩ tiền phong Bảy Nhiêu là người vợ cuối của anh Năm Châu, từ 1948 cho đến ngày anh mãn phần, tháng 5 năm 1977. Anh Năm Châu lớn hơn chị 16 tuổi. Nếu biết gia thế của chị Kim Cúc, biết cả một quá trình lâu dài của chị khi mới chập chững theo đoàn hát cải lương đến khi thành danh, thì đối với một người lớn tuổi hơn mình rất nhiều, đối với một người từng là bạn thân thiết của cha mình mà chị chấp nhận kết hôn, phải thấy đó là do sự thán phục, lòng say mê nghệ thuật đưa đến tình yêu chân chính.

 

Năm Châu và Kim Cúc đều có chung một niềm say mê, một ước vọng chung là xây dựng một nền nghệ thuật cải lương “Đẹp” và “Thật”, một “Thánh đường thiêng liêng”. Năm 1940, Kim Cúc 18 tuổi, nổi danh qua vai Quan Bình trong tuồng Quân Công đắp đập bắt Bàng Đức trên sân khấu Phước Cương và cũng đã làm say lòng khách mộ điệu từ Nam ra Bắc khi đoàn hát này lưu diễn ở Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh miền Trung.

Năm 1941, nghệ sĩ Bảy Nhiêu và hai con gái Kim Cúc, Kim Lan lập gánh hát Nam Phương (Thanh Loan là đào chính). Kim Cúc nổi danh qua vai nữ quí tộc xứ Ba Tư trong vở tuồng màu sắc hương xa Thuyền ra cửa biển.

Tháng 3 năm 1946, nhóm nghệ sĩ chuyên nghiệp gồm Năm Châu, Phùng Há, Ba Vân, Duy Lân, Tư Út, Từ Anh, Hai Tiền, Ba Thâu, Sáu Ngọc Sương lấy xác gánh Nam Phương để thành lập “Nhóm con Tằm”. “Nhóm con Tằm” thu hút thêm nhiều nghệ sĩ tài danh như Bảy Nhiêu, Năm Nở, Tư Chơi, Năm Phỉ, Bảy Nam, Kim Thoa, Kim Cúc, Kim Lan...

Đây là thời kỳ phát triển của sân khấu cải lương theo chiều hướng tuồng xã hội, dựa theo những tiểu thuyết xã hội đang được độc giả miền Nam ưa thích như: Hồn bướm mơ tiên, Một tối tân hôn, Nỗi lòng chị Bếp, Gieo gió gặt bão, Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt...

“Nhóm con Tằm” do Năm Châu đứng đầu, chủ trương xây dựng một sân khấu “Đẹp” và “Thật”. Anh trực tiếp đạo diễn, tập cho các nghệ sĩ ca, diễn theo quan điểm nghệ thuật của anh. Anh được ba soạn giả cùng thời với anh là Tư Trang (Trần Hữu Trang), Tư Chơi, Năm Nở tán thành và ủng hộ. Thành công của các tuồng tích trên sân khấu, nhóm con Tằm đã làm cho tên tuổi nhiều diễn viên tài danh của sân khấu cải lương được giới báo chí mệnh danh là những ngôi sao kịch nghệ, mà sáng chói hơn hết là tên tuổi của nghệ sĩ Năm Châu

Từ nhỏ, Kim Cúc có nhiều dịp gần gũi với Năm Châu, được chú rèn luyện, dạy ca, dạy diễn, tình cảm và thâm tâm Kim Cúc chuộng mẫu người trí thức, giỏi tay nghề, danh tiếng lẫy lừng và đẹp trai như chú Năm Châu. Cuộc hôn nhân tuy có sự chênh lệch về tuổi tác nhưng cả hai chung sống rất hạnh phúc.

Lúc này, Kim Cúc đã 26 tuổi, độ tuổi đủ chững chạc để chọn cho mình một tấm chồng xứng đáng với lòng tin yêu về nghề nghiệp và sự rung động của con tim. Kim Cúc đã không lầm khi chọn người bạn đời như Năm Châu, vì những năm tháng sau đó cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay Năm Châu vẫn cưng yêu vợ, hết lòng giúp đỡ, nâng cao tay nghề và thủy chung gắn bó với Kim Cúc.

Mọi người đều công nhận đó là một cặp vợ chồng lý tưởng, hết lòng yêu thương và luôn luôn bên nhau trong những lúc phong ba bão táp của cuộc đời và trên những bước đường thăng trầm của nghề nghiệp.

Năm 1948, nghệ sĩ Năm Châu thành lập Ban Việt Kịch Năm Châu. Nữ nghệ sĩ Kim Cúc, dưới bàn tay phù thủy của đạo diễn Năm Châu, đã làm rung động trái tim của khán giả hâm mộ qua các vai: Nữ hoàng Túy Hoa trong tuồng Dân chúng trước pháp trường, vai cô Bê trong tuồng Khi người điên biết yêu, vai Hoàng hậu trong tuồng Gió ngược chiều, vai Tây Thi trong Tây Thi - Gái nước Việt, vai Hoàng hậu trong tuồng Hàm Lệ, Thái Tử nước Đan Mạch, vai vợ người chiến binh trong vở Người mặt cháy...

Tôi còn nhớ, năm 1952, Năm Châu mua được trại cưa bên kia cầu Bông, làm thành chỗ ăn ở cho cả đoàn Việt Kịch Năm Châu. Gia đình anh ở cái nhà sàn cất de ra sông phía tay trái mặt của trại. Gia đình của Tư Trang cũng ở trong một cái nhà sàn cất de ra sông phía bên trái của trại, khoảng giữa dành làm sân khấu giả để tập tuồng. Trong trại chia ra từng khoảnh để cho từng gia đình nghệ sĩ trong đoàn ở. Bếp là bếp chung, mỗi ngày nghệ sĩ ăn “cơm hội” như ở các trường nội trú.

Lúc này, ở Sài Gòn đang có phong trào “Truyền bá Quốc ngữ”, anh Năm Châu nhờ các học sinh và giáo sư trường Huỳnh Khương Ninh đến dạy cho các diễn viên và công nhân sân khấu chưa biết chữ, để mọi người biết đọc, biết viết. Những diễn viên dù đã thành danh hay mới vào nghề, một tuần lễ hai ngày đều phải vào đọc sách, phải biết đọc những đoạn văn đối thoại, phát âm đúng giọng, nói rõ, nói lớn và nói đúng theo các dấu chấm, phết, dấu hỏi hay cách buông lửng câu văn...

Anh nói đó là cách hay nhất để diễn viên học đối thoại trên sân khấu, hiểu rõ ý tưởng của tác giả và có nền tảng học vấn tối thiểu để tự nâng cao nghề hát của mình. Ngoài ra, anh còn chủ trương thực hiện cuộc sống mới, cấm cờ bạc, hút sách, nghiện rượu và cấm nói tục, chửi thề, những thói hư tật xấu mà xưa nay vẫn có trong các đoàn kịch hát.

Anh nói: “Muốn cho dân chúng xóa bỏ mặc cảm “xướng ca vô loại” đối với nghệ sĩ thì người nghệ sĩ tự mình phải chứng minh cuộc sống văn minh, có văn hóa. Mình hát trên sân khấu, muốn xây dựng một nghệ thuật “Đẹp” và “Thật”, mà bản thân người nghệ sĩ không “Đẹp” thì khó có thể thuyết phục được khán giả. Thủ một vai chung thủy, hào hiệp, có đạo đức mà bản thân người nghệ sĩ bê bối quá thì khó thành công trong các vai tuồng đó trên sàn diễn”.

Kim Cúc, Kim Lan, hai cô đào chính ăn khách nhất của đoàn cũng là hai người gương mẫu nhất trong việc thực hiện chủ trương sân khấu “Thật” và “Đẹp” của Năm Châu. Gương mẫu trong cuộc sống chung trong đoàn, nhất là đúng giờ tập tuồng, giờ ăn, giờ hát và giờ ngủ. Người ngoài nghề hát không thấy hết sự quan trọng trong việc bắt buộc nghệ sĩ phải tuân thủ đúng giờ giấc quy định.

Khi vãn hát, ăn uống, tắm rửa xong là đã hơn 12 giờ khuya, nếu chung sống trong một trại mà không có quy định giữ im lặng và nghỉ ngơi, họ sẽ không thể nào thức dậy đúng giờ để tập tuồng mới, sẽ không còn sức khỏe để hát những đêm sau, nếu để các tệ trạng cờ bạc, rượu chè, hút sách tồn tại trong cuộc sống của người nghệ sĩ. Đó chỉ mới nói đến vấn đề sức khỏe, chưa nói đến nhân cách của một người nghệ sĩ cần phải giữ gìn, đừng để những tai hại của “tứ đổ tường” lôi kéo đời mình vào cuộc sống sa đọa, chuốc lấy sự miệt khinh của xã hội.

Năm 1952, đoàn Việt Kịch Năm Châu tập tuồng Tây Thi - Gái nước Việt. Các vũ nữ, đúng 8 giờ sáng thì phải sẵn sàng để học các điệu múa trong tuồng. Kim Cúc và Kim Lan phải có mặt để học 72 đường kiếm thuật do một ông thầy võ người Hoa trong Chợ Lớn đến trại dạy. Các diễn viên khác cũng phải sẵn sàng, dò tuồng và học thuộc vai diễn của mình. Đúng 9 giờ thì lên sân khấu giả, ráp tuồng, học ca, học diễn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của anh Năm Châu.

Tuy là tập tuồng nhưng các diễn viên phải diễn như đang hát thật trên sân khấu, không thể làm qua loa lấy có. Kim Cúc, Kim Lan hay Hoàng Kinh, Ngọc Đáng đều phải tuân thủ quy định cách tập tuồng của Năm Châu. Kim Cúc được Năm Châu tập từng bước đi sao cho có vẻ cao sang vương giả, tập từng cách chuốc rượu, liếc mắt đưa tình với Ngô Phù Sai. Anh thường nói: “Diễn xuất hay, không phải chỉ chú trọng nơi động tác hình thể đẹp, mà chính là dùng hình thể đẹp, thật, để nói lên được nội tâm của nhân vật theo đúng lớp tuồng đó”.

Kim Cúc thể hiện một cách tài tình cái tâm lý phức tạp của Tây Thi: vừa hào hùng, vừa thương cảm, vừa lẳng lơ trong nhiều lớp khác nhau. Khi chuốc rượu cho Ngô Phù Sai trên Cô Tô Đài thì lả lơi, uyển chuyển, nũng nịu, liếc mắt đưa tình; cũng ở Cô Tô Đài, gặp Phạm Lãi, Tây Thi hờn dỗi, trách móc sao để nàng chờ đợi mãi, cũng là nũng nịu, tâm tình mà sao có vẻ dịu dàng khả ái.

Tây Thi:

Ôi chờ đợi!... Biết đợi chờ đến bao giờ?
Chờ thời cơ! Chờ cuộc thế thịnh suy!
Chờ lương thực dồi dào! Chờ mưu kế!
Em đợi mãi... phút chờ mong chẳng đến.

Phạm Lãi (do Phùng Há đóng):

Không! Ba ngày nữa quân ta sẽ đồng tiến,
Sẽ đạp bằng thành quách của Phù Sai...
... Em phải hứa, suốt ba ngày mê loạn
Đắm Phù Sai trong những cuộc truy hoan...
Em hứa đi cho non nước reo mừng.

Tây Thi nhìn sững Phạm Lãi, nói rất rõ, lời hứa chắc nịch:

Em xin hứa!

Phạm Lãi quỳ sụp xuống dưới chân Tây Thi:

Tây Thi hỡi! Này lời cảm tạ!
Lòng yêu nước muôn đời ghi mặt đá.
Đức hy sinh truyền tụng mãi ngàn thu!
Tây Thi! Nàng sẽ trả được quốc thù.
Và... Vạn kỷ còn nêu danh gái Việt!

Chỉ một lớp đối thoại trên đây mà Phùng Há và Kim Cúc phải tập đi tập lại mãi, tập hàng tuần vẫn chưa làm hài lòng đạo diễn Năm Châu.

Anh Năm nói: “Nội dung câu văn tuy chỉ nói đến mưu toan mê hoặc Phù Sai để quên quân Việt tiến công nhưng không thể nói mạnh bạo, hào hùng như cách thúc quân xông trận, vì nói với nhau tại Cô Tô Đài, tức là nơi đất giặc thì phải giữ bí mật, nói nhỏ nhưng rất trang trọng; thêm vào đó, lời thoại không nhắc đến tình yêu của Phạm Lãi và Tây Thi, nhưng hai người yêu nhau, xa nhau vì nhiệm vụ, gặp lại nhau, tuy không nói ra lời, nhưng phải diễn bằng hành động, bằng ánh mắt, nụ cười, bằng cái vẻ quyến luyến chẳng nỡ rời nhau.... để khán giả cảm thấy được mối tình cao thượng và đầy ngang trái của Phạm Lãi và Tây Thi”.

Kim Cúc là một nghệ sĩ lớn, rất tôn trọng nghề nghiệp nên khi nhận diễn vai tuồng nào thì chị nghiên cứu kỹ tính cách nhân vật, nghiên cứu từ cách nói năng, đi đứng, hành động của nhân vật, làm cho nhân vật thực sự sống động trên sân khấu. Về ca bài bản trong tuồng, chị cũng bỏ công tập ca nhiều lần với nhạc sĩ, vừa ca đúng hơi Nam, hay Bắc, hay Oán, vừa thể hiện được tình cảm của nhân vật trong câu ca.

Cũng năm 1955, khi đoàn Việt Kịch Năm Châu rã, Tám Kiết và Hai Nữ dùng xác gánh hát này lập thành đoàn hát Phước Chung. Gia đình Năm Châu, Kim Cúc, Kim Lan, ông Bảy Nhiêu tập hợp thành nhóm chuyển âm phim cho hãng phim Mỹ Phương và hãng phim Mỹ Vân.

Về ngành phim ảnh, gia đình Năm Châu không gặt hái được thành công như mong muốn. Cả về sân khấu, những năm cuối thập niên 50, đầu năm 60, sân khấu cải lương có sự chuyển biến lớn: những giọng ca vàng, những ông vua, bà hoàng vọng cổ bắt đầu ngự trị trên sân khấu cải lương. Thế hệ đàn anh, đàn chị, những bậc thầy về diễn xuất phải dần dần nhường bước cho lớp nghệ sĩ trẻ, dù lớp nghệ sĩ này chưa diễn xuất hay, nhưng họ ca vọng cổ được khán giả ưa chuộng.

Các vị khán giả ái mộ cải lương nhớ lại từ những năm 60 trở về sau này, những năm 70, tên tuổi của vua vọng cổ Út Trà Ôn, các giọng ca vàng Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Út Hiền, Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh, Dũng Thanh Lâm, Út Hậu, Phương Thanh, Tấn Tài, Thanh Hải, và các giọng ca vọng cổ mượt mà như sầu nữ Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Mỹ Châu, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Nga, Thanh Kim Huệ, Thanh Nguyệt đã chiếm lĩnh sân khấu cải lương và các hãng dĩa. Khán giả ít thấy xuất hiện những tên tuổi diễn viên lớn trong đợt nghệ sĩ tiền phong.

Năm 1958, Kim Cúc cộng tác với đoàn Thanh Minh, đóng vai sơn nữ họ Nùng trong tuồng Núi Liễu sông Bằng của Thiếu Linh - Thành Phát. Năm 1960, chị dạy cho Thanh Nga hát vai Hoàng hậu trong tuồng Gió ngược chiều của Năm Châu phóng tác Ruy Blas của Victor Hugo.

Từ năm 1962, khi Năm Châu được mời làm giáo sư kịch nghệ của trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn thì Kim Cúc, Duy Lân, Năm Nở, Ngọc Ánh và nhạc sĩ Hai Khuê, Sáu Tửng, cũng được mời làm giáo sư giảng dạy chung trường với Năm Châu.

Sau năm 1975, Kim Cúc được mời làm giáo sư kịch nghệ cho nhà hát Trần Hữu Trang.

Có thể nói, trong ba người vợ của anh Năm Châu từ cô Sáu Trâm (nữ diễn viên tài danh của gánh hát Tập Ích Ban), rồi Đệ nhất nữ danh ca tiền phong Tư Sạng đến Nữ nghệ sĩ tài danh Kim Cúc thì chị Kim Cúc là người đã cùng anh gắn bó trọn vẹn đời sống vợ chồng và cả trong nghệ thuật.

Hai người đều có chung một niềm say mê, một ước vọng chung là xây dựng một nền nghệ thuật cải lương “Đẹp” và “Thật”, một “Thánh đường thiêng liêng”. Có lẽ đến khi nhắm mắt, anh Năm Châu dường như đã mãn nguyện với những gì đã đóng góp cho nền kịch nghệ của nước nhà.

0