Thông tin

Số điện thoại

Email

Website

Địa chỉ

Ngân Giang Đỗ Thị Quế, Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên

Ngân Giang (1916-2002) là một nữ thi sĩ Việt Nam được biết đến với sở trường thơ mang hơi hướng thơ Đường, có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ Việt Nam như "Trưng Nữ Vương", "Xuân chiến địa"... Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Lê Thọ Bình, trong bài viết "Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang" cho biết: "Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất, có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất, hơn 4.000 bài." I. Tiểu sử Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh khác: Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên... Bà sinh ngày 20 tháng 3 năm 1916 trong một gia đình Nho học tại Hà Nội. Bà kể: "Năm lên 6 tuổi, theo người bác ra sân ga, nhìn những con tàu ra vào ga, buồn quá tôi bỗng thốt lên: Tàu về, rồi tàu lại đi, Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga." Từ đó, ông bác dành nhiều thời gian để dạy cháu mình làm thơ, phú, dịch thơ Đường. Năm 8 tuổi, bà đăng bài thơ đầu tiên, "Vịnh Kiều", với bút danh Nguyệt Quyên. Năm 9 tuổi, đọc kinh Phật thấy mình mắc nhiều tội lỗi quá, nên bà quyết định quyên sinh. Rất may, người nhà kịp thời phát hiện và cứu chữa. Năm 16 tuổi, bà in tập thơ đầu tiên, "Giọt lệ xuân", tại NXB Tân Dân. Hiểu rõ tính nết con gái mình, ông đồ nho Đỗ Hữu Tài muốn cho con yên bề gia thất sớm. Không chịu sự sắp đặt của cha, bà cố tình bỏ trốn nhưng không được. Năm 21 tuổi, bà cho xuất bản cuốn "Duyên văn" và rời Hà Nội vào Sài Gònviết cho "Điện Tín nhật báo" và báo "Mai". Sau đó, bà trở ra Hà Nội viết cho "Tiểu thuyết thứ bảy", "Phổ thông bán nguyệt san", "Đàn bà"... Bốn năm sau, tập thơ "Tiếng vọng sông Ngân" ra đời đã đưa bà lên vị trí những người được yêu thích trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1935, bà tìm đến với phong trào cách mạng, bắt đầu bằng việc làm giao thông cho Đoàn Thanh niên. Thế rồi vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì cô "Hạnh Liên (bút hiệu khác của Ngân Giang) đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo hoạ cho cả dòng họ". Vào một đêm, khi đang có thai, Ngân Giang lại gieo mình xuống Hồ Tây; "Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân", sau này nữ sĩ nhớ lại. Bà cũng nói: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp"(theo Lê Thọ Bình, tác phẩm đã nêu trên) Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Ngân Giang hăng hái đeo ba lô, bồng hai con nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc, để rồi hai năm sau đó phải quay trở lại nội thành. Giữa lúc không nơi nương tựa, bà chấp nhận làm vợ con trai tuần phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn che chở an toàn để tiếp tục đóng góp cho cách mạng". Đây cũng là bước ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ. Năm 1954 hoà bình tái lập, Ngân Giang làm việc ở Sở văn hoá Hà Nội một thời gian, rồi không hiểu vì lý do gì, bà bị buộc phải thôi làm nơi ấy khi ở tuổi 41... Ngày ngày, bà ra bãi sông Hồng quét lá khô để bán, tối về rửa bát thuê, nhưng cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho những đứa con lay lắt sống qua ngày. Rồi bà được nhận vào Hợp tác xã thêu ren. "Một bận người ta phát động chống tiêu cực, tôi mạnh dạn vạch mặt kẻ tham ô, nào ngờ tham ô thì không chết mà mình bị đuổi việc", bà kể. Khi không còn đủ sức để ra bờ sông quét lá nữa, bà ra đầu đường mở quán bán hàng nước... Bà mất ngày 17 tháng 8 năm 2002 và được chôn tại làng Hướng Dương, Thường Tín, Hà Tây. Mộ bà lúc nào cũng có hoa tươi của những người yêu mến bà và thơ bà. II. Thiên tài bị bỏ quên Thi sĩ Nguyễn Vỹ viết: "Không giống như Mộng Sơn, Anh Thơ, Ngân Giang nữ sĩ sống rất nhiều về tình yêu, đau khổ rất nhiều về tình yêu. Nhưng chẳng bao giờ nàng có hạnh phúc với tình yêu cả... Và không biết vì lý do gì, Ngân Giang không thích đăng thơ trên báo, nhưng thi thoảng được nghe thơ Ngân giang, chúng tôi cảm động, khoái trá, bởi phong vị sầu mơ da diết, ngào ngạt trong thơ" (Văn thi sĩ Tiền chiến, NXB Văn Học, 2007, tr.449-450) Từ điển Tác gia Văn hoá Việt Nam, NXB VHTT, 1999 đã viết: "Tiếng thơ Ngân Giang một thời vang vọng, như có lần thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) lúc giảng dạy tại Đại học văn khoa Sài Gòn, khi giới thiệu bà Trưng Nữ vương của bà, vừa ngâm xong bài thơ, ông đột quị. Sinh viên đưa đi cấp cứu, nhưng vừa vào đến bệnh viện thì ông ra người thiên cổ. Âu cũng là một thi thoại văn chương đáng trân trọng." Trích 4 câu cuối bài "Trưng Nữ Vương": "Ải bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi. Khác với "Trưng nữ vương", "Xuân chiến địa"... (có giọng điệu trầm hùng), đa phần thơ của nữ sĩ Ngân Giang như "Hình ảnh", "Thôn lạ đêm trăng", "Sau phút biệt ly", "Chiều thu", "Xuân mong đợi", "Mười bài tâm sự"... đều ẩn chứa ít nhiều nỗi ưu tư, quạnh quẽ, chán chường. Hình ảnh Giờ này trăng chửa qua rèm lụa, Nửa nấp hoa quỳnh, nửa nấp mây Tôi đứng bâng khuâng bên ngưỡng cửa, Mắt buồn tha thiết rõi ngàn cây. Tưởng ai thức trắng đêm dài viết, Ánh nến buông xanh, bóng võ gầy Đời muộn mơ gì công nghiệp lớn, Về đi, vường ruộng ngát hương say... Nữ sĩ Ngân Giang nổi tiếng là một nhà thơ nữ thời Tiền chiến và đã để lại nhiều áng thơ hay. Khi thấy bà không có tên trong "Thi Nhân tiền chiến" của Hoài Thanh, Hoài Chân và cũng không có tên trong "Nhà Văn hiện đại" của Vũ Ngọc Phan, hai biên soạn là Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng trong "Việt Nam thi nhân tiền chiến" (quyển trung, NXB Sống Mới, 1968, tr. 151) đã ghi lời than phiền của thi sĩ Thẩm Thệ Hà: "Điều làm cho ngạc nhiên là tại sao các nhà phê bình văn học lại bỏ quên một nữ sĩ tài hoa đến thế?" III. Những tác phẩm - Giọt lệ xuân (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên), NXB Tân Dân 1932 - Tiếng vọng sông Ngân, NXB Lê Cường 1944 - Những ngày trong hiến binh Nhật, NXB Đức Trí 1946 - Những người sống mãi, NXB Sự Thật 1973 - Ba tập "Thơ Ngân Giang" - NXB Phụ Nữ 1989 - NXB Trẻ 1991 - NXB Phụ Nữ 1994 Chú thích về cái chết của Đông Hồ: Các sinh viên dự lớp hôm ấy đều tin rằng khi đang bình giảng bài thơ "Trưng Nữ Vương" (Bài thơ nói về nỗi cô đơn, lạnh lẽo của người nữ anh hùng chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng) của nữ sĩ Ngân Giang, vì quá xúc động trước vẻ đẹp của thơ, nên thầy Đông Hồ đã bị đột tử (tai biến mạch máu não) ngay trên bục giảng đường Đại học Văn khoa Sài Gòn vào ngày 25 tháng 3 năm 1969 Theo"Núi mộng gương hồ", quyển 2, trang 115-116, Mộng Tuyết, NXB Trẻ. Ngân Giang (1916-2002) là một nữ thi sĩ Việt Nam được biết đến với sở trường thơ mang hơi hướng thơ Đường, có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ Việt Nam như "Trưng Nữ Vương", "Xuân chiến địa"... Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Lê Thọ Bình, trong bài viết "Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang" cho biết: "Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất, có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất, hơn 4.000 bài." I. Tiểu sử Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh khác: Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên... Bà sinh ngày 20 tháng 3 năm 1916 trong một gia đình Nho học tại Hà Nội. Bà kể: "Năm lên 6 tuổi, theo người bác ra sân ga, nhìn những con tàu ra vào ga, buồn quá tôi bỗng thốt lên: Tàu về, rồi tàu lại đi,…

Ngân Giang (1916-2002) là một nữ thi sĩ Việt Nam được biết đến với sở trường thơ mang hơi hướng thơ Đường, có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ Việt Nam như "Trưng Nữ Vương", "Xuân chiến địa"... Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.

Lê Thọ Bình, trong bài viết "Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang" cho biết: "Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất, có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất, hơn 4.000 bài."


I. Tiểu sử

Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh khác: Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên... Bà sinh ngày 20 tháng 3 năm 1916 trong một gia đình Nho học tại Hà Nội. Bà kể: "Năm lên 6 tuổi, theo người bác ra sân ga, nhìn những con tàu ra vào ga, buồn quá tôi bỗng thốt lên: Tàu về, rồi tàu lại đi, Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga."

Từ đó, ông bác dành nhiều thời gian để dạy cháu mình làm thơ, phú, dịch thơ Đường. Năm 8 tuổi, bà đăng bài thơ đầu tiên, "Vịnh Kiều", với bút danh Nguyệt Quyên. Năm 9 tuổi, đọc kinh Phật thấy mình mắc nhiều tội lỗi quá, nên bà quyết định quyên sinh. Rất may, người nhà kịp thời phát hiện và cứu chữa. Năm 16 tuổi, bà in tập thơ đầu tiên, "Giọt lệ xuân", tại NXB Tân Dân.

Hiểu rõ tính nết con gái mình, ông đồ nho Đỗ Hữu Tài muốn cho con yên bề gia thất sớm. Không chịu sự sắp đặt của cha, bà cố tình bỏ trốn nhưng không được.

Năm 21 tuổi, bà cho xuất bản cuốn "Duyên văn" và rời Hà Nội vào Sài Gònviết cho "Điện Tín nhật báo" và báo "Mai". Sau đó, bà trở ra Hà Nội viết cho "Tiểu thuyết thứ bảy", "Phổ thông bán nguyệt san", "Đàn bà"...
Bốn năm sau, tập thơ "Tiếng vọng sông Ngân" ra đời đã đưa bà lên vị trí những người được yêu thích trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1935, bà tìm đến với phong trào cách mạng, bắt đầu bằng việc làm giao thông cho Đoàn Thanh niên.

Thế rồi vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì cô "Hạnh Liên (bút hiệu khác của Ngân Giang) đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo hoạ cho cả dòng họ". Vào một đêm, khi đang có thai, Ngân Giang lại gieo mình xuống Hồ Tây; "Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân", sau này nữ sĩ nhớ lại. Bà cũng nói: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp"(theo Lê Thọ Bình, tác phẩm đã nêu trên)

Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Ngân Giang hăng hái đeo ba lô, bồng hai con nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc, để rồi hai năm sau đó phải quay trở lại nội thành. Giữa lúc không nơi nương tựa, bà chấp nhận làm vợ con trai tuần phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn che chở an toàn để tiếp tục đóng góp cho cách mạng". Đây cũng là bước ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ.

Năm 1954 hoà bình tái lập, Ngân Giang làm việc ở Sở văn hoá Hà Nội một thời gian, rồi không hiểu vì lý do gì, bà bị buộc phải thôi làm nơi ấy khi ở tuổi 41...

Ngày ngày, bà ra bãi sông Hồng quét lá khô để bán, tối về rửa bát thuê, nhưng cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho những đứa con lay lắt sống qua ngày. Rồi bà được nhận vào Hợp tác xã thêu ren. "Một bận người ta phát động chống tiêu cực, tôi mạnh dạn vạch mặt kẻ tham ô, nào ngờ tham ô thì không chết mà mình bị đuổi việc", bà kể. Khi không còn đủ sức để ra bờ sông quét lá nữa, bà ra đầu đường mở quán bán hàng nước...

Bà mất ngày 17 tháng 8 năm 2002 và được chôn tại làng Hướng Dương, Thường Tín, Hà Tây. Mộ bà lúc nào cũng có hoa tươi của những người yêu mến bà và thơ bà.


II. Thiên tài bị bỏ quên

Thi sĩ Nguyễn Vỹ viết: "Không giống như Mộng Sơn, Anh Thơ, Ngân Giang nữ sĩ sống rất nhiều về tình yêu, đau khổ rất nhiều về tình yêu. Nhưng chẳng bao giờ nàng có hạnh phúc với tình yêu cả... Và không biết vì lý do gì, Ngân Giang không thích đăng thơ trên báo, nhưng thi thoảng được nghe thơ Ngân giang, chúng tôi cảm động, khoái trá, bởi phong vị sầu mơ da diết, ngào ngạt trong thơ" (Văn thi sĩ Tiền chiến, NXB Văn Học, 2007, tr.449-450)

Từ điển Tác gia Văn hoá Việt Nam, NXB VHTT, 1999 đã viết: "Tiếng thơ Ngân Giang một thời vang vọng, như có lần thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) lúc giảng dạy tại Đại học văn khoa Sài Gòn, khi giới thiệu bà Trưng Nữ vương của bà, vừa ngâm xong bài thơ, ông đột quị. Sinh viên đưa đi cấp cứu, nhưng vừa vào đến bệnh viện thì ông ra người thiên cổ. Âu cũng là một thi thoại văn chương đáng trân trọng."

Trích 4 câu cuối bài "Trưng Nữ Vương":
"Ải bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi.

Khác với "Trưng nữ vương", "Xuân chiến địa"... (có giọng điệu trầm hùng), đa phần thơ của nữ sĩ Ngân Giang như "Hình ảnh", "Thôn lạ đêm trăng", "Sau phút biệt ly", "Chiều thu", "Xuân mong đợi", "Mười bài tâm sự"... đều ẩn chứa ít nhiều nỗi ưu tư, quạnh quẽ, chán chường.

Hình ảnh
Giờ này trăng chửa qua rèm lụa,
Nửa nấp hoa quỳnh, nửa nấp mây
Tôi đứng bâng khuâng bên ngưỡng cửa,
Mắt buồn tha thiết rõi ngàn cây.
Tưởng ai thức trắng đêm dài viết,
Ánh nến buông xanh, bóng võ gầy
Đời muộn mơ gì công nghiệp lớn,
Về đi, vường ruộng ngát hương say...

Nữ sĩ Ngân Giang nổi tiếng là một nhà thơ nữ thời Tiền chiến và đã để lại nhiều áng thơ hay. Khi thấy bà không có tên trong "Thi Nhân tiền chiến" của Hoài Thanh, Hoài Chân và cũng không có tên trong "Nhà Văn hiện đại" của Vũ Ngọc Phan, hai biên soạn là Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng trong "Việt Nam thi nhân tiền chiến" (quyển trung, NXB Sống Mới, 1968, tr. 151) đã ghi lời than phiền của thi sĩ Thẩm Thệ Hà:
"Điều làm cho ngạc nhiên là tại sao các nhà phê bình văn học lại bỏ quên một nữ sĩ tài hoa đến thế?"

III. Những tác phẩm

- Giọt lệ xuân (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên), NXB Tân Dân 1932
- Tiếng vọng sông Ngân, NXB Lê Cường 1944
- Những ngày trong hiến binh Nhật, NXB Đức Trí 1946
- Những người sống mãi, NXB Sự Thật 1973
- Ba tập "Thơ Ngân Giang" - NXB Phụ Nữ 1989 - NXB Trẻ 1991 - NXB Phụ Nữ 1994


Chú thích về cái chết của Đông Hồ: Các sinh viên dự lớp hôm ấy đều tin rằng khi đang bình giảng bài thơ "Trưng Nữ Vương" (Bài thơ nói về nỗi cô đơn, lạnh lẽo của người nữ anh hùng chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng) của nữ sĩ Ngân Giang, vì quá xúc động trước vẻ đẹp của thơ, nên thầy Đông Hồ đã bị đột tử (tai biến mạch máu não) ngay trên bục giảng đường Đại học Văn khoa Sài Gòn vào ngày 25 tháng 3 năm 1969 Theo"Núi mộng gương hồ", quyển 2, trang 115-116, Mộng Tuyết, NXB Trẻ.
Ngân Giang (1916-2002) là một nữ thi sĩ Việt Nam được biết đến với sở trường thơ mang hơi hướng thơ Đường, có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ Việt Nam như "Trưng Nữ Vương", "Xuân chiến địa"... Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.

Lê Thọ Bình, trong bài viết "Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang" cho biết: "Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất, có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất, hơn 4.000 bài."


I. Tiểu sử

Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh khác: Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên... Bà sinh ngày 20 tháng 3 năm 1916 trong một gia đình Nho học tại Hà Nội. Bà kể: "Năm lên 6 tuổi, theo người bác ra sân ga, nhìn những con tàu ra vào ga, buồn quá tôi bỗng thốt lên: Tàu về, rồi tàu lại đi,…
Bài liên quan

Đoàn Thạch Biền Phạm Đức Thịnh, Nguyễn Thanh Trịnh

Đoàn Thạch Biền còn có bút danh Nguyễn Thanh Trịnh, tên khai sinh là Phạm Đức Thịnh, sinh ngày 10/5/1948, quê quán ở Nam Định. Học tiểu học ở Hội An, trung học ở Đà Nẵng, đại học ở Sài Gòn. Dạy học ở Bình Thuận, làm nông dân ở Bảo Lộc, làm công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện đang sống tại 12 Cư ...

Vương Xán 王粲

Vương Xán 王粲 (177-217), tự Trọng Tuyên 仲宣 là một trong thất tử lừng danh thời Kiến An 建安 (cuối thời Đông Hán 東漢). Người đất Lạc Dương, lánh nạn đến nhờ Lưu Biểu 劉表 ở đất Kinh Châu 荊州. Tổ tiên của Vương Xán đều là quan to đời Hán, lúc Hiến Đế dời đô sang phía Tây, ông cũng rời khỏi Trường An. Khi Lưu ...

Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿

Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿 (1355?-1428) tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu là Nhị Khê, đến đầu đời Hồ (khoảng năm 1401) đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, sinh khoảng năm 1355 (?) tại Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, phủ Quốc Oai,trấn Sơn Nam Thượng. Tổ tiên xa đời của ông vốn ở xã Chi Ngại huyện Phượng Nhãn trấn ...

Nguyễn Thiếp 阮浹

Nguyễn Thiếp 阮浹 (25 tháng 8 năm Quý Mão 1723-1804), tên hiệu phổ biến là La Sơn phu tử, huý là Minh, tự là Quang Thiếp, quê làng Mật Thôn, xã Nguyệt Úc hay Nguyệt Áo (tục gọi là Nguyệt Ao), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn. Tổng La Thạch sau này lại thuộc về huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp có ...

Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình

Thâm Tâm (1917-1950) tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh tại thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Là con thứ trong một gia đình nhà nho nghèo và đông con, học hết tiểu học, ông phải ở nhà giúp gia đình đóng sách và nấu bánh kẹo. Năm 1938, chàng nghệ sĩ lên Hà Nội cùng gia đình, ở một phố thuộc ...

Lý Thái Tổ 李太祖, Lý Công Uẩn

Lý Thái Tổ 李太祖 (974-1028), tên huý là Lý Công Uẩn 李公蘊, là vị vua đầu tiên (1010-1028) của triều đại nhà Lý trong Lịch sử Việt Nam. Ông người làng Cổ Pháp, nay thuộc về huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay ở làng Đình Bảng có lăng và đền thờ nhà Lý). Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, ...

Nguyễn Bính Nguyễn Trọng Bính

Nguyễn Bính (1918-1966) tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh tại làng Thiện Vinh, huyện Vụ Bảng, tỉnh Nam Định. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ, tự học ở nhà, bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi, được giải khuyến khích thơ của nhóm Tự lực văn đoàn năm 1937 với tập thơ Tâm hồn tôi . Ông tham gia kháng chiến chống ...

Trí Bảo thiền sư 智寶禪師

Trí Bảo thiền sư 智寶禪師 họ Nguyễn 阮, tên thật và năm sinh đều chưa rõ, người hương Ô Diên, quận Vĩnh Khang, là cậu của thái uý Tô Hiến Thành. Theo Phật từ lúc còn trẻ, tu ở chùa Thanh Tước, núi Du Hí, hương Cát lợi, huyện Thường Lạc. Mới đầu chuyên tâm tu hành khổ hạnh nhưng không nắm được giáo lý ...

Nguyên Hồng Nguyễn Nguyên Hồng

Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918, quê thành phố Nam Định, đảng viên Đảng CSVN, hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Ông mất ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Yên Thế (Bắc Giang). Những năm 1937-1939, tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ ở Hải Phòng. Sáng ...

Tần Gia 秦嘉

Tần Gia 秦嘉 tự Sĩ Hội 士會, không rõ năm sinh và mất, người quận Lũng Tây (nay ở phía nam huyện Lâm Triệu, tỉnh Cam Túc) đời Hán Hoàn Đế 漢桓帝 (132–167). Ông làm quận lại, sau làm quận thượng kế nhập kinh (quan trình sổ sách hàng năm từ quận lên kinh), rồi lưu lại làm Hoàng môn lang, mấy năm thì bệnh ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...