1. Nguyễn Bính trong mỗi chúng ta

Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào đó. Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung cứ thế mà thức dậy, mà da diết. Tôi thường nhớ tới Nguyễn Bính mỗi độ xuân về. Nhất là lúc mưa xuân. Đấy cũng là lúc rời phố xá, tôi trở về quê nhà ăn tết với người thân. Tôi cứ thấy Nguyễn Bính về theo từng chấm mưa rắc bụi lên cỏ cây hoa lá, lên những võng tơ nhện óng ánh sương giăng mắc vệ đường, vệ đê, bụi hoang nơi đồng nội. Bấy giờ những nẻo đường quê dường như mềm hơn, mịn hơn. Những làn bụi từng bị rang khô dưới nắng hè, từng lầy lụa trong mưa dầm tháng bảy, từng xáo cuộn cùng xác lá trong gió heo may tháng mười giờ đã yên nằm trên mặt đường ẩm mát. Lấy móng tay gợi lên thì xốp tơi như lòng khoai lang bột đồng màu. Những hàng xoan se mình tím tái trong suốt mùa đông bỗng tươi da, nhựa đang chuyển mình lên những chồi hẹn nhú. Nước giếng khơi như bỗng trong đầy. Hoa bưởi rắc phấn vàng xuống tóc người dừng bước... Ở đâu tôi cũng thấy Nguyễn Bính. Cái gì cũng nhắc về Nguyễn Bính. ấy là lúc đã về tới cố hương, về với tuổi thơ xưa. Nguyễn Bính cứ lãng đãng theo tôi trên mỗi bước đường làng. Tôi trò chuyện cùng ông như với một cố nhân, một người vẫn ở mãi chốn quê, chỉ có mình là bỏ quê phiêu dạt. Nguyễn Bính là làn mưa xuân rắc mình lên chốn hương thôn, là lá dâu xanh dập dờn bướm vàng cuối bãi. Nguyễn Bính là chiếc lá lìa cành đầu ngõ, là chiếc mo cau rụng vội góc vườn. Nguyễn Bính là sắc nắng chiều man mác trên mỗi thân cau, là ngọn mồng tơi ngập ngừng nơi lưng giậu. Nguyễn Bính là tiếng trống chèo động lòng đêm hội, là cỗ tam cúc thắc thỏm giao thừa. Nguyễn Bính là mảnh khăn điều trẩy hội chùa, là cây lụa trắng đang về chợ làng xa. Nguyễn Bính là nỗi hờn tủi của những con đò. Nguyễn Bính là tiếng thở than của mỗi tấm liếp. Nguyễn Bính là những mảnh đời lỡ làng sau mỗi luỹ tre lối xóm. Nguyễn Bính là nỗi đoái trông của mỗi vườn cam mái gianh. Nguyễn Bính là đôi mắt đau đáu trong thẳm sâu lòng người xa xứ... Tôi nhớ Nguyễn Bính như là khắc khoải về xa xưa, về hiện tại của chính mình. Tôi, một đứa con sống trong lòng Tổ quốc còn thế. Trách chi cái anh chàng Việt kiều Hoàng Chính nào kia ở cuối thế kỉ hai mươi lênh đênh xứ người, nhớ về Tổ quốc là nỗi nhớ Tiếng Việt, nhớ tiếng mẹ đẻ, là nhắc nhau nhớ đến Nguyễn Bính: Mười một năm trời đi biệt xứ / Em còn nhớ tiếng Việt Nam không?/ Lòng còn xôn xao Thơ Nguyễn Bính? / Chuyện"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông" (Gửi vầng trăng lưu lạc). Nguyễn Bính là tiếng vọng cội nguồn trong lòng kẻ lưu lạc. Nguyễn Bính là tiếng trở mình của rặng tre trong lòng kẻ tha hương. Nguyễn Bính còn là cái tiếng Việt trong lòng đứa con xa đất mẹ... Ai đó nói trong mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Sau bấy nhiêu năm, tưởng cũng có thể nói, trong mỗi chúng ta đều có một Nguyễn Bính, kể cả những ai muốn chối bỏ điều đó. Sức đeo bám của Nguyễn Bính trong hồn mỗi người Việt lớn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Sau ca dao có lẽ chỉ Nguyễn Bính mới có nổi sức đeo bám này. Hồn quê trong mỗi chúng ta bây giờ chẳng phải còn có tên là Nguyễn Bính ư?

Và khi rời khỏi cố hương ra với đời sống của mình chốn đô thị, tôi cũng luôn thấy nhớ Nguyễn Bính. Các đô thị càng mọc lên, các cao ốc càng chất ngất, càng thấy nhớ Nguyễn Bính. Nguyễn Bính như là cái gì đang mất lại vừa như một cái gì không thể mất. Là cái vô hình luôn hiện hữu, là cái hiện hữu mà vô hình.


*


Nhưng cái tên Nguyễn Bính đến với tôi từ bao giờ?

Người ta thường thích nhớ về "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy". Tất nhiên, có khi nhớ được, có khi chẳng còn nhớ nổi, tất cả cứ nhoè lẫn nhạt nhoà. Phần mình, với Nguyễn Bính, thì tôi chẳng thể nào quên. U tôi, chị tôi có ru tôi bằng Nguyễn Bính hay không? Kí ức thuở nằm nôi, nằm võng không thấy vọng lên câu nào. Còn như Kiều, Chinh phụ, Trương Chi, Hoàng Trừu, Tống Trân, Phạm Tải... thấy nhiều hơn. Trong tuổi thơ tít tắp của mình ở xứ Thanh, tôi thường đi phụ giúp u tôi làm trên lò gốm. U tôi là thợ vần, cả đời tay thì vo đất sét, chân thì đạp bàn xoay, cùng thợ chuốt làm ra đủ thứ chum, vại, thửng, hũ, cóng, ang... Các bà thợ vần, thợ chuốt vừa làm vừa tán đủ thứ chuyện, rồi hát hò, ngâm thơ, rồi tranh cãi nhau về nghĩa lí của câu tục ngữ này, câu thành ngữ nọ. Hôm ấy, một chị thợ chuốt còn trẻ, sau khi chuyện vãn, đã cất lời ngâm một đoạn khá não nùng mùi mẫn: "Em ơi em ở lại nhà / Vườn dâu em đốn mẹ già em thương...". (Phải khi vào cấp ba tôi mới biết nó là "Lỡ bước sang ngang"). Đến chỗ "đêm nay là trắng ba đêm...", chị ta ngâm tiếp là "Chị thương chị kiếp con chim lạc đàn". Lập tức, tôi nghe thấy tiếng phản đối của một bác thợ lò:"con chim lìa đàn chứ sao lại lạc". Đang ngâm, bị cắt ngang, khác nào bị chẹn họng, và chắc là không chịu được cái giọng chỉnh kẻ cả, chị kia cãi lại gay gắt: Cái ông này, vô duyên! Người ta nói chim lạc đàn chứ ai nói lìa đàn bao giờ! Thế mà cũng đòi sửa! Bác thợ lò thấy cần phải đè bẹp đối thủ, phải thắng triệt để nên ra điều sành sỏi chữ nghĩa: Lạc thì thường, thì non nghĩa. Lìa mới lạ, mới già nghĩa, chữ mới chín. Đang bay cùng mà phải lìa khỏi đàn, thì mới đau chứ ..". Rồi bác ta còn bảo, nếu không chịu, mai sẽ mang nguyên văn lên cho xem. Chị ngâm thơ đành ấm ức mà im lặng.

Cũng mãi sau này, tôi mới ngớ ra rằng, đó có lẽ là cuộc tranh luận về ngôn ngữ thơ đầu tiên mà mình được chứng kiến.

Bởi cái lẽ "đầu tiên" ấy mà găm rất sâu vào lòng trí non nớt của tôi cái hình ảnh con chim lìa đàn. Nó cô lẻ. Nó côi cút. Thoi thót suốt tuổi thơ tôi. Lúc bấy, tôi không ngờ, và có lẽ ngay cả Nguyễn Bính khi viết câu ấy cũng không thể ngờ "con chim lìa đàn" đã thành chân dung tự hoạ (hay tự ám?) da diết nhất của Nguyễn Bính.

Thực ra, khi đọc thi sĩ này, thấy bướm trắng bướm vàng bay loạn trong thơ ông, một đôi người bèn coi bươm bướm là biểu tượng chuẩn nhất cho Nguyễn Bính. Đúng là hồn thơ này cũng có ngất ngây chuyện bướm hoa, cũng sinh ra những bóng bướm quyến rũ. Nhưng cũng tựa như dáng chập chờn của nó, bươm bướm chỉ thuộc vào cái phần tình tang lẳng lơ, phần bâng quơ phù hoa của vườn thơ Nguyễn Bính thôi. Một lúc khác, Nguyễn Bính có ví nỗi cô đơn nhục nhằn trên đường đời của mình với con ngựa và người chị với chiếc thuyền nan - Em vốn đường dài thân ngựa lẻ / Chị thì sông cái chiếc đò nan / Quê người đứng ngóng mây lưu lạc / Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng. Nguyễn Bính sinh năm Mậu Ngọ (1918). Ví mình như con ngựa không chỉ là ý thức về thân thế long đong của mình, mà trong đó còn chứa cả một ý niệm về cái bản mệnh giời đày của mình nữa. Vẫn biết thân ngựa lẻ kia cũng chỉ là biến thể của cùng một cái tôi Nguyễn Bính. Song con chim lìa đàn vẫn cứ ám hơn cả. Nó vận vào thân phận nhiều trái ngang của thi sĩ. Nó mới thực sự là chân dung tinh thần chan chứa những sầu tủi của Nguyễn Bính. Mà trước hết là chân dung tự hoạ của cái Tôi trữ tình thi sĩ. Đó chẳng phải là một cá nhân đang tách ra khỏi bầy đàn, một cá thể đang tách khỏi đoàn thể, cái Tôi đang tách khỏi cái Ta? Nhưng với con chim kia, đó không phải là một cuộc vùng lên cao ngạo, bứt phá bướng bỉnh, vượt thoát bất cần. Mà đó là sự chia lìa. Nó không thể không tách ra, nhưng cái nó cảm thấy rõ khi vừa tách ra không phải vũ trụ dành riêng cho sự tung hoành, trái lại, là sự chơi vơi, là nỗi đơn côi. Lìa đàn là đánh mất điểm tựa vững chắc, mất vòng tay ôm ấp chở che. Lìa đàn, chưa tìm thấy mình đã đánh mất mình. Lìa đàn, bơ vơ giữa cõi, lưu lạc tìm đàn. Và hình ảnh con chim lìa đàn ấy thực sự là một ám ảnh trong tâm thức thi sĩ. Nó còn bay mãi trong hồn thơ Nguyễn Bính với những bóng dáng khác nhau: "Lẻ loi thân nhạn sang nam ấy", "Thân em chẳng khác con chim non / Bơ vơ trong xứ người xa lạ", "Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ / Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng?"...


2. Ra đời trong biến thiên

Bằng lòng với những ấn tượng chủ quan, xem ra là điều không thể. Cần phải trả Nguyễn Bính về với thời đại của ông, về với cuộc biến thiên chưa từng có ở chốn nước non bình lặng này [1] hồi đầu thế kỉ trước. Nguyễn Bính là con đẻ của cuộc biến thiên ấy hay nhân cuộc biến thiên này mà cái anh chàng thôn dân nghìn đời đất Việt đã lỡ bước sang ngang, đã hoá con chim lìa đàn mà thành ra Nguyễn Bính?

Cuộc biến thiên tầm cỡ như vậy, bao giờ cũng vừa là một cơn bão tàn phá vừa là một cơn trở dạ của lịch sử. Nghĩa là bao giờ cũng có hai mặt biện chứng: huỷ diệt và sinh thành. Sức mạnh phá hoại sẽ phá vỡ và phế bỏ nhiều cái cũ, mặt khác cũng nhân đó mà nhiều cái mới nảy nở sinh sôi. Phá huỷ dọn đường cho sinh thành, sinh thành biện minh cho huỷ diệt. Nó chi phối thực tại đời sống như một qui luật không thể cưỡng được. Tất cả đều bị cuốn vào quĩ đạo vừa vô hình vừa hữu hình của nó. Cuộc biến thiên đó muốn đập vỡ một thế giới cũ để cho một thế giới mới ra đời. Nên điều thật khó tránh là, trong những cái bị tàn phá một cách say sưa, sẽ lẫn vào không ít những giá trị thiêng liêng thuộc vào hàng bảo vật của giống nòi. Không chỉ trên qui mô toàn xã hội, mà ngay trong mỗi một con người cũng đương diễn ra một cuộc biến thiên ngấm ngầm: con người mới đang đòi phải phế bỏ con người cũ. Mà chia lìa con người cũ bao giờ cũng đau đớn. Bởi thế trong xã hội cũng như trong mỗi cá thể, đều hình thành hai thế lực: cách tân và bảo thủ, hai ham muốn: một đằng quyết giành quyền sống một đằng quyết giữ quyền sống [2] . Tương ứng với nó là hai thái độ, hai tâm thế thời đại: háo hức cái mới và lưu luyến cái cũ. Trong cái háo hức, bên cạnh sự táo bạo nhạy bén, có cả những nôn nóng vội vàng. Trong niềm lưu luyến, song hành với thái độ thủ cựu khư khư ôm lấy những phản giá trị đã cổ hủ, lỗi thời, kệch cỡm, là nỗi thiết tha đến day dứt khắc khoải trước những giá trị có nguy cơ bị phá phách, tiêu huỷ, biến suy. Mỗi tâm thế đều là một nguồn mạch trữ tình lớn của thời đại. Niềm thiết tha khắc khoải ngấm ngầm trong xã hội và lòng người kia cho đến 1918 đã tìm thấy người thi sĩ của nó. Làng Thiện vịnh, xứ đồng trũng chiêm khê mùa thối Vụ bản, Nam Định đã sinh ra cho nền thi ca Việt một cậu bé mà lớn lên sẽ lãnh cái sứ mạng thi sĩ kia. Nguyễn Bính là sự cất tiếng của con người Việt nghìn đời trong cuộc biến thiên vĩ đại mà đầy đau đớn đó. Và đây cũng là một lí do giúp ta hiểu vì sao, thơ Nguyễn Bính vẫn luôn làm xao động mọi tấm lòng Việt, tâm hồn Việt.


*


Mà con người Việt nghìn đời trong mỗi chúng ta là ai nếu không phải là con người tiểu nông với tất cả ưu nhược của nó? Trong một xã hội mấy nghìn năm "không đổi nhưng mà trôi cứ trôi" đó, anh chàng tiểu nông kia vẫn sống yên ổn. Đến nỗi ta những tưởng đó đã là cái bản thể bất di bất dịch. Nhưng trước cơn biến thiên lung lay đến tận cội rễ, chàng tiểu nông không thể còn yên ổn. Không thể như cũ, lại chưa thể theo mới. Ngậm ngùi với cái cũ, hoang mang trước cái mới. Bồn chồn, xốc xáo, không yên định là cõi lòng của nó. Nguyễn Bính là tiếng lòng bất an của anh chàng tiểu nông, là tiếng lòng bất an của thời đại. Đứt rễ khỏi đất cũ, chưa bén rễ vào đất mới, lòng thời héo hon, lá thời héo úa. Nguyễn Bính là tiếng lòng héo hắt của cuộc biến thiên kia.

Nền tảng tinh thần muôn đời của anh tiểu nông là con người cố kết, ý thức bầy đàn. Bầy đàn là chỗ dựa cho mỗi cá thể. Bầy đàn là vướng víu, nhưng bầy đàn là bình ổn. Bầy đàn là chốn giam thân, bầy đàn cũng là chốn nương thân. Cá thể bay nhanh trong bầy đàn, cá thể bay chậm cùng bầy đàn. Bầy đàn nhất nhất quyết định sức mạnh cá thể. Nhưng cơn biến thiên này đã khiến cá thể không muốn và không thể dựa dẫm vào bầy đàn. Mỗi cá thể cần phải là chính nó. Kẻ háo hức thì hân hoan thấy mình thoát khỏi kiềm toả của bầy. Kẻ nặng căn thì sầu tủi vì thấy mình phải lìa khỏi đàn. Nguyễn Bính là tiếng nói sầu tủi của con chim lìa đàn ấy.

Trong đời sống cổ truyền giá trị cá nhân được xác định dựa vào việc làm tròn bổn phận. Bổn phận là lẽ sống, cũng là điểm tựa bao đời. Bổn phận có thể là một ngáng trở, nhưng cũng là một bấu víu. Bổn phận vừa là cánh tay bó riết vừa là vòng tay âu yếm. Bổn phận khiến cá nhân phải hi sinh, bổn phận cũng làm nên sự cao cả cho cá nhân. Nhưng, trong cơn biến thiên này, tiếng nói của khát vọng nhất tề trỗi dậy. Đôi cánh khát vọng muốn tuông ra khỏi dây nhợ bổn phận. Thời trước, mỗi cuộc giao tranh giữa khát vọng và bổn phận thường được dẹp yên bằng ý thức hi sinh. Còn giờ đây cá nhân lại xác định giá trị của mình ở tầm vóc của khát vọng. Cho nên cuộc giao tranh hoặc biến thế giới tinh thần thành một đấu trường đẫm máu không có hồi kết, hoặc kết thúc bằng thất bại tủi sầu của bổn phận. Khát vọng chiến thắng. Nhưng là một chiến thắng đầy mặc cảm tội lỗi, dai dẳng không nguôi.
Nguyễn Bính là tiếng nói của cái tôi mang nặng mặc cảm đó.

Nội dung bao trùm của mặc cảm kia là gì?

Có thể nói đó là mặc cảm lỡ dở.


2. Cái tôi lỡ dở

Hơn chục năm trước, khi khởi thảo những mẩu đầu tiên về Nguyễn Bính (phân tích bài thơ Xa cách, viết với Nguyễn Đăng Điệp), tôi chủ trương khái quát Nguyễn Bính bằng hai chữ "lỡ làng". Phần vì nó là chữ trở đi trở lại rất nhiều trong Nguyễn Bính, phần vì thấy đây là một bi kịch lớn, bao trùm lên thế giới thơ của thi sĩ này. Giờ đây, đọc vào Nguyễn Bính sâu hơn rồi, nhận rõ hơn tầm vóc của thi sĩ, tôi thấy chữ "lỡ làng" đuối nghĩa, đuối sức như con đò bé không còn chở Nguyễn Bính sang ngang được nữa. Chữ "lỡ làng" hợp với phận gái hơn, lại quá nghiêng về chuyện tình duyên. Trong khi, ngay cả lúc nước mắt lưng tròng - chỉ vài ngày hoen ướt đã hỏng mất một khăn hồng - thì Nguyễn Bính vẫn cứ là phận trai. Với lại, nỗi sầu tủi của Nguyễn Bính phải đâu chỉ có chuyện duyên phận lỡ làng, mà còn cả sự nghiệp dở dang - "Em đi dang dở đời mưa gió / Chị ở vuông tròn phận lãnh cung", "Dang dở một thân nơi đất khách / Tết này ta lại ngắm hoa suông"... Vì thế tôi thấy chữ "lỡ dở" ưu thế hơn. Không phải vì muốn đổi một từ láy sang một từ ghép cho nén, cho đúc. Mà quan trọng là phải chữ ấy mới cưu mang được thân phận Nguyễn Bính, nghĩa là mới gồm được mọi hẩm hiu về cả duyên phận lẫn danh phận của cái tôi kia. Tìm đến chữ này để gọi Nguyễn Bính, tôi giật mình vì thấy: Tạ Tỵ trong cuốn Mười vẻ mặt văn nghệ đầu những năm 70 của thế kỉ trước đã tìm đến nó khi gọi Nguyễn Bính là "thiên tài lỡ dở". Nhưng xem kĩ, thấy chữ Tạ Tỵ nghiêng về cái nghĩa chỉ con người thực: hoàn cảnh đã tạo ra Nguyễn Bính như là một thi tài dở dang, với một thái độ tiếc rẻ gần với Phan Ngọc - "Nguyễn Bính chỉ còn thiếu một hiểu biết Tây học nên không thành nổi nhà thơ đầu đàn..." [3] . Và chỉ có thế.

Phần mình, dùng chữ "lỡ dở", tôi không chỉ muốn nói thơ Nguyễn Bính là sự lên tiếng của những cảnh ngộ oan nghiệt, những thân phận ngang trái. Mà quan trọng hơn, Nguyễn Bính là thi sĩ của cái lỡ dở, như một phạm trù trữ tình vậy. Bởi vì "lỡ dở" đâu chỉ là chuyện của riêng Nguyễn Bính, riêng của thời đại Nguyễn Bính, mà sau này và mãi mãi nó vẫn là một thảm trạng phổ biến của cõi nhân sinh. Có phải trên thế gian, thân phận nào cũng may mắn, cũng vinh hoa cả đâu. Ngay cả những kẻ nhiều hanh thông may mắn, có phải không từng nếm mùi lỡ dở đâu! Song hành với sự thành đạt của nhân gian, bao giờ cũng là sự lỡ dở. Mà đã lỡ dở, làm sao tránh khỏi tủi sầu bi phẫn. Bởi thế, đây quả là một nguồn lệ vẫn ngấm ngầm đây đó trong lòng thế nhân. Có điều, ở Nguyễn Bính, ở thời Nguyễn Bính, bi kịch ấy sắc sói hơn, đắng đót hơn. Ông sinh ra dường như để dành cho sự lỡ dở. Trời đày ông để ông phải làm tròn cái sứ mệnh oái oăm đó. Từ thân thế mình, Nguyễn Bính đã cất lên tiếng nói về một bi kịch trùm cả thời thế, mà mở ra tới cùng, cũng là một bi kịch nhân thế. Nếu thân thế Nguyễn Bính hanh thông, hẳn đã không có nghiệp thơ Nguyễn Bính.


*


Nghiên cứu tiểu sử nhiều nhà văn, lắm lúc thấy nghi ngờ cái tín điều đã thành mặc nhiên trong truyền thống: văn là người. Thực ra, chẳng phải nhọc lòng hoài nghi. Nó vẫn mặc nhiên là tín điều. Có chăng, cần phải hiểu thế nào về người thôi. Sự đồng nhất giản đơn con người sinh hoạt với con người văn chương thì rất dễ gây thất vọng, hẫng hụt. Bởi văn là sự lên tiếng của con người tâm linh, con người khát vọng. Khát vọng chân chính của một con người chính là biểu hiện tập trung cho bản chất của người ấy. Và do đó tầm vóc khát vọng cũng quyết định phần lớn tầm vóc của cá nhân. Tôi chưa biết anh là ai, nhưng hãy bộc bạch khát vọng của mình, tôi sẽ biết anh là ai. Cho nên, văn là người, là cái con người ấy. Tức con người bên trong, con người bề sâu, con người khát vọng. Nhà văn Nguyễn Khải có lần nói, không phải định thanh minh cho mình hay cho ai, rằng: đối với anh nghệ sĩ, phần tốt đẹp, cao quí nhất của tâm hồn đã trút vào văn chương hết rồi. Còn những gì thể hiện trong sinh hoạt đời thường, đôi khi chỉ là phần cặn bã của hắn mà thôi. Nguyễn Bính cũng thế thôi. Người ta đã kể ra chả ít chuyện nhếch nhác, bê tha, lôm loam của Nguyễn Bính trong sinh hoạt, giao du. Đời thường lắm chỗ sao mà trái cựa trái khoáy với con người trong văn chương đến thế. Nhưng bức chân dung tinh thần đích thực là thuộc về cái tôi bề sâu của nghệ sĩ. Cái tôi ấy tự hoạ trong văn chương ngay cả khi nó không hề tự giác. Nguyễn Bính đã trút vào thi ca tất cả những khát vọng sâu kín và cao quí nhất của mình. Cho nên chả vì cái bã bên ngoài mà nghi ngờ cái hồn bên trong. Cũng bởi sự không thể đồng nhất này mà trong nghiên cứu nghệ thuật mới cần phân biệt con người thi sĩ (ngoài đời) và cái tôi thi sĩ (trong văn). Cái tôi ấy là sự chung đúc của khát vọng. Nói cách khác, cái tôi là khát vọng thi sĩ được nhân hình hoá.

Và, theo tôi, cũng như những hình tượng nghệ thuật khác, hình tượng cái tôi là một nhất thể được tạo bởi sự hoà hợp (gồm cả tương tranh và chuyển hoá) của các đối cực.


*


Lỡ dở tạo nên cái tôi kia bắt đầu do sinh bất phùng thời. Hãy xuất phát từ nền tảng nhân cách của cái tôi được gọi bằng anh chàng nhà quê, là gã chân quê Nguyễn Bính: một thôn dân - nho sinh. Nhận diện cái tôi Nguyễn Bính, nhiều người chỉ thấy đó là một thôn dân. Nghĩa là chỉ thấy một phía. Mà chỉ thế thôi, thì chưa ra Nguyễn Bính. Không phải một thôn dân thuần tuý, Nguyễn Bính là thôn dân - nho sinh. Cái ta vẫn gọi là hồn quê Nguyễn Bính không phải một đơn chất. Trái lại, là hợp chất: con người thôn dân và con người nho sinh quyện với nhau trong một điệu hồn chung. Từ con người thực ngoài đời thành cái tôi trong thơ ca, Nguyễn Bính không chỉ mang theo cái lai lịch "con nhà nho cũ", mà chất nho sinh còn hiện rất rõ trong cốt cách của cái tôi ấy. Biểu hiện tập trung nhất của nó hẳn là giấc mơ quan trạng.

Có thể nói, cái tôi ấy suốt đời vương vấn giấc mơ quan trạng. Trong thơ Nguyễn Bính, giấc mơ quan trạng luôn song hành với giấc mơ thanh đạm thanh bình. Bởi thế, nó trở thành giấc mộng đôi: cả con người nho sinh và con người thôn dân cùng mơ chung một giấc mơ về "thời trước". Thời trước với chàng thôn dân là thời "trai hiền bạn với gái đồng trinh", thời của "Hoa và rượu" - "Đời say men rượu thơm hoa rụng", thời "Thanh đạm" vợ chồng thuận hoà, bạn bè tri kỉ: "Nhà gianh thì sẵn đấy / Vợ xấu có làm sao / Cuốc kêu ngoài bãi sậy / Hoa súng nở đầy ao / Mấy sào vườn đất mới / Giồng dâu và giồng cam / Không ngại xa người tới / Thăm tôi tôi cám ơn / Làng bên sẵn rượu ngon / Đêm nay ta đối ẩm / Tre nhà đương cữ ấm / Tha hồ là măng non / Đường làng không tiện xe / Sớm mai người hãy trẩy / Cây nguyệt nằm suông mãi / Tôi xin đàn người nghe"... Cảnh sống êm đềm thế chẳng phải là mơ ước nghìn đời của bất cứ thôn dân nào?

Còn với anh chàng con nhà nho cũ, thì "thời trước" là thời vợ tần tảo tầm tang, chồng dùi mài kinh sử, thời của giấc mơ hồ điệp, thời của hiển đạt vinh hoa. Hoặc trạng nguyên trở thành phò mã:"Ngựa bạch buông chùng áo trạng nguyên... lòng trạng lâng lâng màu phú quí, chờ "công chúa cài trâm thả tú cầu". Hoặc quan trạng vinh qui về làng: "Chồng tôi cưỡi ngựa vinh qui / Hai bên có lính hầu đi dẹp đường / Tôi ra đứng tận gốc bàng / Chồng tôi cưỡi ngựa cả làng ra xem", hạnh phúc thật là trọn vẹn, đã đầy, viên mãn: "Đêm qua mới thật là đêm / Ai đem giăng sáng giãi lên vườn chè"... Đó là cái thời lí tưởng mà nho sinh nào cũng hằng mơ ước, khát khao, hi vọng. Thời ấy đáp ứng được cho con người cả chuyện công danh lẫn chuyện nhân duyên, cả khao khát nhân sinh của một con người, cả nhu cầu thẩm mĩ của một nghệ sĩ.

Dù đã vào thơ theo qui luật điển hình hoá, nhưng một cái tôi bao giờ cũng nảy nở từ con người thực ngoài đời của thi sĩ. Vốn là con nhà nho cũ gắn với thôn quê, "thời trước" đương nhiên là cái mẫu lí tưởng của Nguyễn Bính. Nhưng cái "thời trước" kia chỉ còn trong cổ tích, trong truyện nôm khuyết danh, trong những tích chèo mà không khí thanh bình vinh hoa của nó từng tưới tắm cho mơ mộng của Nguyễn Bính một thời. Ngày thì theo đòi búi tó củ hành với cậu ruột mình một nho sĩ thôn Vân, đêm thì chìm đắm trong những hội chèo thôn Đoài làng Đặng. Giờ đây, cuộc biến thiên lạnh lùng này đã bứt thế giới mộng kia khỏi hiện thời, thẳng tay ném vào dĩ vãng. Nó đã vĩnh viễn thành thế giới của hoài niệm. Bi kịch của cái tôi ấy ở chỗ: là con người của "thời trước", nhưng lại sinh ra ở thời này. Tây học đã trục xuất Hán học khỏi đương thời, Hán học đành ôm hận lủi thủi đi về quá vãng. "Bây giờ thời thế biến thiên / Nhà vua không lấy trạng nguyên nữa rồi". Thậm chí, "Khoa cử bỏ rồi thôi hết trạng / Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên. "Lỡ duyên búi tó củ hành / Trường thi Nam Định biến thành trường bay". Hình ảnh đầy hấp dẫn của những Tống Trân, Nguyễn Hiền vĩnh viễn xa vời. Nhưng điều oái oăm là: Nguyễn Bính chỉ có thể được sinh ra bởi cuộc biến thiên đầy mất mát ấy. Giống như sự hỏng thi trường kì mới sinh ra Tú Xương vậy. Nếu không chúng ta có thể có thêm một quan trạng một ông nghè ông cống nữa để rồi những học vị chức danh ấy tan ra mây khói, và sẽ hoàn toàn không có một thi sĩ chân quê, không thể nào có nổi một tác giả "Lỡ bước sang ngang".

Nhưng cái tôi Nguyễn Bính không chịu lìa bỏ hẳn. Và đây chính là một khía cạnh điển hình cho tâm trạng lãng mạn. Chỗ này, cái nhìn lí giải đòi hỏi chúng ta phải xem xét rộng hơn một chút. Trước kia, người ta thấy mối bất hoà với thực tại chỉ là cơ sở tâm lí riêng của khuynh hướng lãng mạn. Thực ra, bất hoà với thực tại là cơ sở tâm lí phổ biến của nghệ sĩ. Nếu niềm khát khao một hình thái lý tưởng lúc nào cũng thiêu đốt lòng nghệ sĩ, thì cũng có thể nói, bất hoà với thực tại phải được xem như thuộc tính nghệ sĩ. Tất nhiên chữ bất hoà cần được hiểu với các cung bậc khác nhau: không thoả mãn, không bằng lòng, không hoà nhập, không chấp nhận thực tại. Nếu bằng lòng với thực tại, tức là lí tưởng đã bị tiêu tan. Do đó niềm khát khao khiến anh thành nghệ sĩ cũng tiêu tan rồi. Nhưng vì sao bất hoà? vì nghệ sĩ bao giờ cũng thấy thực tại chưa đáp ứng được cả nhu cầu tồn sinh lẫn nhu cầu thẩm mĩ. Nghĩa là chưa đáp ứng được khát khao về hạnh phúc và khát khao về cái đẹp. Thậm chí, trước một thực tại nào đó, ở mức cực đoan tột cùng, nó còn thấy thực tại thù địch với hạnh phúc chân chính của con người, thù địch với cái đẹp. Thế là, từ một gốc chung là mối bất hoà, mà các khuynh hướng nghệ thuật có những ứng xử khác nhau. Sự khác nhau bao trùm của các khuynh hướng, có thể nói, cũng bắt đầu từ những phép ứng xử. Lãng mạn thì đào sâu vào chủ quan vẽ ra một thực tại trong mơ ước để thay thế thực tại bên ngoài. Hiện thực lại đi thẳng vào thực tại ngoài đời để phân tích nó, phanh phui nó, phê phán nó. Trong khi khuynh hướng cách mạng dường như lại muốn cải biến nó. Vậy thực tại một kẻ lãng mạn mơ ước là thế nào? Đó là thực tại trong hồi tưởng, huyễn tưởng, viễn tưởng. Hồi tưởng đưa nó về với quá khứ vàng son, với thời oanh liệt, phục hiện lại những dư âm dư ảnh, những hình sắc còn sót lại của một thời, mà nó cho rằng chỉ ở đó, cái đẹp và hạnh phúc mới tồn tại. Huyễn tưởng dẫn nó vào cõi yêu, cõi tiên, cõi ma, cõi đạo, vào tiền kiếp. Viễn tưởng lại dẫn nó đến một tương lai xán lạn mãi tận tít mù khơi... Cái tôi Lãng mạn Nguyễn Bính thì tìm về đâu? Về "thời trước" - "Thời trước làm sao thật thái bình". "Thời trước" thực là thiên đường đối với một thôn dân - nho sinh. Chàng chỉ còn đến được với cái thiên đường riêng ấy của mình bằng một cách duy nhất: mơ thôi. Nguyễn Bính đã không ít lần ngán ngẩm kêu lên: "Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi!". Tuy nhiên, mơ mộng lại là một đời sống, một lối thoát tinh thần không thể thiếu của gã thôn dân - nho sinh lỡ thời ấy.

Đó mới chỉ là một phía của bi kịch lỡ dở.


*


Không thể thành quan trạng với giấc mộng vinh hoa, không thể ở thôn hương với giấc mơ thanh đạm. Cả gã nho sinh lẫn gã thôn dân đều đã mất đi cái đích của mình. Cả hai nhất trí đồng tâm rời khỏi quê mình, dấn thân vào quê người. Trên con đường tha hương ấy, họ đã hoà vào một nhân cách mới, một diện mạo mới: thi sĩ lãng tử. Và thế là mở ra một bi kịch mới. Nó là bi kịch tiếp nối mà cũng là bi kịch nhân đôi. Gã thi sĩ giang hồ này muốn nhập cuộc mà không xong. Đời sống giang hồ đòi hỏi kẻ lãng tử phải quăng thân vào phong trần cát bụi, lấy lênh đênh làm đời sống, làm hạnh phúc. Muốn thế, phải có máu phiêu lưu. Trong khi đó, phiêu lưu lại không có sẵn trong gien tiểu nông của gã giang hồ bất đắc chí này. Nên tình trạng tinh thần của gã là sợ phiêu lưu mà lại dấn bước giang hồ. Chàng thi sĩ này không tìm thấy chất thơ thông thường của tiêu dao tang bồng, không thấy cái thú siêu thoát lãng mạn của ngao du sơn thuỷ. Trái lại, mỗi bước lênh đênh là một bước long đong. Dù chỉ là "giang hồ vặt", thì kẻ giang hồ vẫn luôn chỉ thấy mình bị vây khốn giữa bao bất trắc, chỉ thấy cám cảnh cho cái phận nổi trôi giời đày của mình, chỉ cảm thấy thật chua chát: giang hồ là một cuộc đày ải - "Cúi mặt soi gương chén rượu đầy / Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ...Không hiểu vì đâu hai đứa lại / Chung lưng làm một chuyến đi đày".

Cũng không có sẵn trong gien tiểu nông kia cái cao ngạo của một cá nhân khi thoát li khỏi bầy đàn. Rời bỏ mái nhà sinh trưởng, cái tôi lên đường, sau cái khoảnh khắc cảm thấy tự do hết sức ngắn ngủi, nó lập tức cảm thấy trống phía sau lưng, hẫng dưới chân bước. Tình trạng của nó là tình trạng của một con diều đứt dây. Bơ vơ là cái thường xuyên dày vò nó. "Bơ vơ trong xứ người xa lạ", "Trơ vơ trên bến nước sông đầy"... Lòng nó không có cái hùng tâm tráng chí kiểu trượng phu hành đạo vì nghĩa lớn, đã đành. Mà ngay cả cái lâng lâng khoái thú của một cái tôi đang lên đường tìm kiếm bản thân cũng không có. Không có phấn hứng thấy thế là mình đã trưởng thành, đã tách khỏi "bầu nước ối" của mái nhà sinh trưởng. Cái mà nó thấy đúng là: Xểnh nhà ra thất nghiệp, như bao người mẹ tiểu nông vẫn ái ngại cho con cái.

Trong cái gien tiểu nông đó cũng không có sẵn cái lạnh lùng của kẻ sẵn sàng khước từ bổn phận để mặc sức đuổi theo khát vọng. Khi ở thì thấy khát vọng là trên hết, bổn phận là vướng víu. Khi đi bỗng thấy khát vọng là ích kỉ, bổn phận mới thiêng liêng. Thế là mặc cảm lỗi đạo hành hạ nó, càng bước đi xa càng nặng nề trầm trọng. Lỗi đạo với quê hương, lỗi đạo với gia đình. Nó thấy mình là kẻ tệ bạc, phụ bạc: "Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh / Tôi đi dan díu với kinh thành", Đứa thương cha yếu thằng thương mẹ / Cha mẹ chiều chiều con nước mây", nhiều khi cái tôi ấy đã nức nở trong day dứt vì té ra mình là đứa con hư đốn bất nghĩa: "Con đi mười mấy năm trời / Một thân bé bỏng nửa đời gió sương / Thầy đừng nhớ mẹ đừng thương / Cầm như đồng kẽm qua đường đánh rơi / Thày mẹ ơi! Thày mẹ ơi / Tiếc công thày mẹ đẻ người con hư...". Tóm lại, là giang hồ trong mặc cảm. Mặc cảm bơ vơ. Mặc cảm lỗi đạo, tệ bạc. Khí chất và lương tâm của con người tiểu nông cổ truyền trong thâm căn cố đế của cái tôi kia bị xốc xáo lên trong cơn biến thiên đó.


*


Có thể nhận rõ hơn diện mạo của cái tôi Nguyễn Bính trong tương quan với đương thời.

Cái Tôi Thơ mới thường nghiêng về sự hả hê bởi được giải phóng khỏi cái Ta. Nếu cô đơn, thì thường là khi phải đối diện với vũ trụ mênh mông, khi không có một cái Tôi khác để gắn bó. Nguyễn Bính khác. Trước hết, về Nguyễn Bính mà nói bằng cô đơn, không ra. Nguyễn Bính là nỗi đơn côi. Khác nhau có một chữ, nhưng là hai hồn vía. Không phải ngẫu nhiên mà mặc cảm chia lìa, mặc cảm bơ vơ lại bám riết lấy tâm tư Nguyễn Bính suốt cả đời không chịu buông tha. Nhìn đâu cũng thấy chia lìa: "Con sào đẩy sóng thuyền nan lìa bờ", "Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn", "Chán chường như lũ tàn quân lìa thành", "Những cuộc chia lìa khởi tự đây", "Anh em li tán lâu dần thành ra", "Lìa cành theo gió lá luồn qua song", "Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ"... Nhìn đâu cũng thấy côi cút, đơn chiếc, vô định: "Hồn đơn chẳng có nơi nương tựa", "Hồn đơn quằn quại xác gầy", "Muôn vàn đơn chiếc đổ vào đầu tôi", "Một người đi mấy mươi người nhớ thương", "Ta đi nhưng biết về đâu chứ", "Anh đi đó ! Anh về đâu?", "Nào biết về đâu kẻ ngước xuôi", "Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng"... Điều này không thể không có nguyên uỷ sâu xa từ ẩn ức mồ côi của Nguyễn Bính (mới ba tháng đã mất mẹ, rồi cha đi bước nữa, phải ở với người cậu, dù có được bù đắp đến đâu thì bản tính đa cảm của thi sĩ vẫn cứ trầm mình trong mặc cảm côi cút, bơ vơ). Nhưng mặc cảm này, oan trái thay, lại khiến cho hồn thi sĩ cảm nhập được và mang chở được nỗi niềm lỡ dở của cả thời đại ấy. Nghĩa là nỗi côi cút đầy bất hạnh kia bỗng trở thành cái giá oan nghiệt mà Nguyễn Bính phải trả cho cái nghiệp thi sĩ của mình. Hay nói theo giọng khách quan thì nhờ bi kịch cá nhân mà Nguyễn Bính đã cảm thông với bi kịch của thời đại. Vì thế, cái Tôi Nguyễn Bính là nỗi đơn côi vì mất đi điểm tựa thiêng liêng nơi cái Ta. Lìa khỏi cái Ta, cái Tôi ấy dày vò về Mất hơn là tự mãn về Được. Đơn côi trong tình ái. Đơn côi giữa xứ người. Đơn côi giữa đô thị. Đơn côi cả khi đã về tới cố hương.

Về bình diện văn hoá, Nguyễn Bính là con đẻ của cuộc hôn nhân đầy lỡ dở giữa nền văn minh đô thị hiện đại với văn minh thôn dã cổ truyền. Khác xa với những cái tôi thuần đô thị, Nguyễn Bính là cái tôi - phản - đô - thị. Lúc nào cũng mang nặng mối "sầu đô thị". Cứ tưởng Nguyễn Bính chỉ là đứa con ra đời từ cuộc hôn phối giữa làn mưa xuân trong lành với giậu mồng tơi dân dã. Nào ngờ lẫn trong làn mưa kia có chút bụi kinh thành. Cái chút bụi mơ hồ đã âm thầm lớn lên thành ý hướng giang hồ. Và chính nó đã xúi giục Nguyễn Bính lên đường dấn thân vào cát bụi với những cuộc giang hồ vặt, khi sa vào bất đắc chí. Sang đò, bước lên bậc bến thứ nhất để vào thế giới đô thị quê người, Nguyễn Bính đã gửi lại bên kia bờ tất cả vườn cam mái gianh, bướm trắng tơ vàng, giàn giầu hàng cau... Nhưng rốt cuộc, Nguyễn Bính lại bắt đầu cuộc tìm kiếm chính những thứ ấy giữa phố xá đô thành mà không tự biết. Hẳn nhiên, làm sao có thể thấy những thứ ấy trong cát bụi chốn này. Con đường kiếm tìm loanh quanh kia tất lại dẫn cái tôi ấy trở về với nơi mình từ giã.

Nhưng, một khía cạnh rất đáng nói là: bi kịch của cái tôi kia không có tận cùng. Sinh ra từ cuộc tình đương giữa hồi dang dở giữa Đô thị và Thôn quê như thế, Nguyễn Bính đã cố chạy theo tìm sự cưu mang của từng phía, nhưng cả hai đều chối bỏ, mỗi bên phụ phàng theo một cách riêng. Thoạt đầu ánh sáng kinh thành huyễn hoặc, anh chàng chân quê đã tưởng có thể gửi mình vào đó, tìm thấy trong hứa hẹn của nó những vinh hoa. Nhưng cuối cùng, chỉ là phù hoa: "Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng / Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị". Chán chường, chàng tìm lại chốn quê. Nguyễn Bính về quê không phải như Đào Uyên Minh "qui khứ lai từ" bởi quá chán ngán cảnh luồn cúi nơi trường đào mận. Không phải như một nhà nho thành đạt và chán ngán, về quê theo lẽ xuất xử hành tàng, về ở ẩn lánh đời. Mà cái Tôi Nguyễn Bính về quê như một người suốt đời băn khoăn đi kiếm cách sống cho mình, suốt đời tìm kiếm công danh và chỗ đứng trong cái cuộc sống văn minh đô thị. Mà cuối cùng tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Công danh dở dang, duyên phận lỡ làng. Cố hương ngỡ bình lặng muôn đời là thế cũng không dung được một kẻ đã ngập hẳn về thôn ổ mà chẳng thể rửa sạch khỏi lòng mối sầu đô thị ăn sâu. Yêu lắm lắm những gì chân mộc của cố hương, nhưng giữa kẻ hồi hương và đất cũ đã có những ngăn cách vô hình không thể vượt qua: Không còn ai ở lại nhà / Hỏi còn ai nữa? để hoa đầy vườn / Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn / Anh về quê cũ có buồn không anh?... Một lần lỡ bước sang ngang là đơn côi vĩnh viễn. Nguyễn Bính là cái lỡ dở muôn đời ấy. Nó là một bi kịch không biên giới.

Trên bình diện đạo đức đơn thuần, cái tôi Nguyễn Bính là con đẻ từ sự lỡ dở của bổn phận và khát vọng, của chữ hiếu và chữ tình. Thời ấy, chữ tình được viết hoa và tô đậm hẳn lên, chữ hiếu mờ hẳn đi lùi lại sau hàng. Chữ tình muốn chia bào giã từ chữ hiếu, "em ơi em ở lại nhà / vườn dâu em đốn mẹ già em thương... Miếu thiêng vụng kén người thờ / Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em". Nhưng vừa quay gót đã gục đầu xuống, úp mặt vào hai bàn tay mà nức nở tức tưởi: "úp mặt vào hai bàn tay / Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm". Cái Tôi muốn khẳng định mình, nhưng khi từ giã mái nhà sinh trưởng, xa rời vòng tay của cái Ta, nó vừa thấy đơn côi yếu ớt lại vừa thấy mình là kẻ phụ rẫy đáng chê trách. Những bổn phận thiêng liêng ngày trước ràng buộc là thế. Mỗi khi cần chọn lựa, bao giờ nó cũng giành được vị thế độc tôn, tất cả những thứ khác đều phải nhượng bộ hi sinh. Nay khát vọng cá nhân bùng nổ, nó thấy mình là hơn hết thảy. Nó đòi phải được sống đã đầy. Nhưng ở trường hợp Nguyễn Bính, nó dứt áo ra đi chỉ để đạt được sự lỡ làng, còn bản thân nó thì luôn luôn dang dở. Lỡ bước sang ngang, bổn phận đã không tròn, khát vọng cũng chẳng thành. Dang dở vĩnh viễn. Nói ý thức cá nhân ở Nguyễn Bính khác xa với những trường hợp khác là thế. Nó không phải tiếng nói tự tôn, tự kiêu, tự đại một chiều cực đoan. Không phải cái Tôi hiếu thắng khi thoát khỏi cái Ta. Mà nó là cái tôi đầy mặc cảm. Lúc nào nó cũng thấy mình là kẻ tệ bạc với cái Ta đó. Thèm được thoát li khỏi cái Ta cố kết. Nhưng chưa thoát li đã lập tức thấy mình là kẻ sao mà bạc tình. "Mẹ cha thì nhớ thương mình / Mình đi thương nhớ người tình xa xôi". Nhưng mà lại không thể khác. Cho nên mỗi bước đi trên đường đời là một bước ngoái lại thăm thẳm phía sau,"Thầy ơi đừng chặt vườn chè / Mẹ ơi đừng bán cây lê con giồng"... mỗi cuộc đi là một cuộc dày vò đày ải chính mình. Hành trình lìa quê cũng là hành trình của ăn năn, của khắc khoải cố hương. Chưa đi đã thấy ngay là mình vừa đánh mất một cái gì thiêng liêng hệ trọng nhất của đời mình, của cuộc sống này.

Tóm lại, cái tôi Nguyễn Bính từ bỏ quê để luôn khắc khoải nhớ quê, tìm vào đô thị để chán chường đô thị, tìm kiếm công danh chỉ gặp dở dang, theo đuổi tình duyên chỉ gặp lỡ làng. Dứt bỏ bổn phận để chạy theo khát vọng: bổn phận không tròn, khát vọng tan vỡ. Cái gì của nó cũng lỡ dở. Cho nên Nguyễn Bính là cái tôi lỡ dở của thời đại ấy. Tôi cho rằng chính Nguyễn Bính, chứ không phải ai khác, mới là nhà Thơ Mới mang đầy đủ tấn bi kịch của thời đại mình. Một tâm trạng bất đắc chí mênh mông dằng dặc.

Cái tôi Nguyễn Bính vẽ ra trong thế giới nghệ thuật của mình là một người cả đời cứ lang thang kiếm tìm chính mình. Càng đi, dường như càng lầm lạc, càng đi càng không thấy. Mọi hứa hẹn đều chỉ là ảo ảnh. Công danh, Hạnh phúc đều không thấy? Đều không dành cho mình? Đều không có? Cuối cùng cái tôi ấy hi vọng tìm thấy mình (tìm thấy mình hay tìm lại được mình? có lẽ là cả hai) khi đã về lại nơi mà mình đã từ bỏ một cách vội vàng nông nổi. Nhưng rồi Nguyễn Bính đã không tìm thấy. Không có chỗ nào cho mình. Đô thị không. Thôn quê không. Quê người không. Quê mình cũng không. Lìa đàn cũng có nghĩa là lạc loài. Nguyễn Bính là sự lỡ dở trọn kiếp con chim lìa đàn không chỉ trong cái thời đại lỡ dở đó.


4. Cố hương, cố nhân, cố viên

Tôi vẫn cho rằng thế giới nghệ thuật của một thi sĩ lãng mạn, xét đến cùng, là sự đan dệt của ba hệ thống hình tượng cơ bản: Tôi - Người tình - Thế giới. Trong đó đóng vai trò trung tâm và quyết định đến toàn bộ diện mạo của thế giới nghệ thuật ấy phải là hình tượng cái Tôi. Bởi vì, cũng lại xét đến cùng, toàn bộ thế giới nghệ thuật của một nghệ sĩ chính là thế giới tâm tình của nghệ sĩ được tượng hình hoá, hình sắc hoá mà thôi. Hình tượng Người Tình, về thực chất là một đối ảnh của chính cái tôi thi sĩ. Còn thế giới xung quanh bao giờ cũng là thế giới thuộc về cái tôi: hoặc cái tôi ấy đang phổ lòng mình vào thế giới, hoặc cái tôi ấy thấy thế giới xung quanh vận vào mình. Đối với một nam thi sĩ, bộ ba ấy là Tôi - Em - Thế giới. Chúng chẳng qua chỉ là tam diện nhất thể mà thôi. Nói một cách khác, thế giới nghệ thuật của nghệ sĩ là một cõi thống nhất, trong đó bất cứ một hình sắc nào cũng mang khí huyết hồn vía của cái Tôi kia. Thế giới Nguyễn Bính không nằm ngoài qui luật chung đó. Cái Tôi Nguyễn Bính sẽ phổ những lỡ dở của nó vào mọi hình sắc của cõi thơ ấy, mà đồng hoá tất cả thành những vang bóng của cùng một cái tôi, kể cả cố nhân, cố hương và cố viên.

Tôi muốn phức tạp hoá một chút xung quanh chữ "cố". Chữ cố đầu tiên với Nguyễn Bính phải là "cố thủ". Phải, thi sĩ của hồn quê đã cố giữ cho được chân quê. Chân quê với hồn thơ Nguyễn Bính tựa như đất mẹ đối với thần Ăngtê vậy. Nó là truyền thống, là giá trị văn hoá, là lẽ sống, là nguồn sống đối với hồn thơ quê. Nó là "của tin còn một chút này", là vật thiêng, là bảo vật của đất quê. Cố giữ với hi vọng nó sẽ thoát khỏi cơn biến thiên. Vật đổi sao dời, tao đoạn qua đi, rồi vẫn sẽ còn chân quê thuần khiết. Nhưng ngay cả lúc "van em em hãy giữ nguyên quê mùa", thi sĩ cũng đã thấy thật khó tin là nó không thay đổi. Trong cơn biến thiên ấy, "cả đến ông giời cũng đổi thay”.... kia mà! Nếu quả có một đức tin bất di bất dịch rằng chân quê bất chấp thời thế, dù có biến thiên thế nào, nó vẫn cứ là một hằng số, thì chắc chắn đã không có Nguyễn Bính. Thơ Nguyễn Bính là tiếng nói của lo âu chứ không phải của đức tin. Nó nghiêng về bồn chồn, phấp phỏng, hoang mang hơn là đinh ninh, xác tín, kiên định. Cơn biến thiên đang làm cho tất cả những gì Nguyễn Bính cố níu giữ trở thành xưa cũ. Nó gỡ khỏi tay, giằng khỏi tay Nguyễn Bính tất cả những gì thân thương nhất ném trả vào dĩ vãng.

Vì thế, mới có chữ "cố" thứ hai. Cố là "cũ", là"xưa". Phải, nói đến Nguyễn Bính là phải nói đến "Cố hương", "cố nhân". Mà nằm sâu trong lòng cố hương là "cố viên" (vườn cũ, vườn xưa), và nơi lưu giữ những kỉ niệm từng có với cố nhân cũng là "cố viên". Cố hương, cố nhân và cố viên là những hình bóng da diết nhất trong cái vẫn được gọi bằng chân quê của Nguyễn Bính.


*


Một trong những nét giúp chúng ta phân biệt rất rõ Nguyễn Bính với các nhà Thơ Mới khác là quan niệm luyến ái. Quan niệm luyến ái của Nguyễn Bính nghiêng về truyền thống: tình yêu gắn liền, thậm chí đồng nhất với hôn nhân. Nhân duyên trong thơ Nguyễn Bính không có chủ trương những cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngoài thiên thu [4] ... theo điệu sống hiện đại mà những cái tôi thuần đô thị bấy giờ chủ trương và hăng hái. Trái lại, chưa gì đã toan tính chuyện trăm năm. Cứ thích trói buộc nhau vào hôn nhân với những cau trầu "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông / Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào!". Vì thế mà, phải đận cau héo, giầu vàng thì đôi bên trầm luân trong nước mắt của mặc cảm phụ phàng. Thế giới tình yêu của chàng thôn dân - nho sinh là một thế giới hoà hợp êm đềm dựa trên một luyến ái quan truyền thống. Nhưng cơn biến thiên đã làm cho cái thế giới tình yêu cổ truyền kia bị vỡ vụn. Cái tôi thành một tình nhân lỡ dở. Thế là tất tật mọi thứ đều lỡ dở theo.


*


Ngoài hình tượng cái tôi, nhân vật của Nguyễn Bính thuộc về hai đối tượng lớn: tình nhân lỡ dở và những thân phận lỡ dở khác. Nghĩa là, thế giới Nguyễn Bính đều là những mảnh đời lỡ dở. Tình nhân lỡ dở có hai dạng: thứ nhất, không có được - do lỡ dở mà giai nhân chẳng thành tình nhân; thứ hai, không giữ được - do một lỡ dở nào dó mà tình nhân đã trở thành cố nhân. Tất cả khiến cho mọi cuộc tình của cái tôi ấy [5] đều dang dở lỡ làng.

Này là những giai nhân có tên: nào Oanh (Oanh, Nhớ Oanh), nào Dung (Oan nghiệt), nào Nhi (Hoa và rượu)... Này là những giai nhân không tên: nào cô hái mơ già, người con gái ở lầu hoa, những cô gái miền sông Hương núi Ngự, người hàng xóm, người con gái vườn Thanh... Có những trường hợp do nàng lạnh lùng quá, giấc mộng nhân duyên cứ thế trôi xuôi rồi tuột mất: "Cô hái mơ ơi / Chẳng trả lời nhau lấy một lời / Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng / Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi", "Rồi như sông Nhuệ lạnh lùng trôi / Cô lạnh lùng đi chẳng trả lời / Những tiếng lòng chàng tha thiết gọi / ở trên gác vắng lạnh lùng ơi !". Có lúc chính những dẩm dở không đâu đã làm ra dang dở. ấy là cái đám cô nàng nhà lắm bưởi nhiều hoa. Ngày nào cũng cất công "đường gần tôi cứ đi vòng cho xa" rồi, thế mà ma xui quỉ khiến thế nào lại "lên cơn sĩ diện hão", suy bụng ta ra bụng người: "Một hôm thấy cô cười cười / Tôi yêu yêu qúa nhưng hơi mất lòng /Biết đâu rồi chẳng nói chòng: / Làng này khối đứa phải lòng mình đây", thế là lỡ duyên: "Từ ngày cô đi lấy chồng / Gớm sao có một quãng đồng mà xa / Bờ rào cây bưởi không hoa / Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo". Cũng có khi do nàng bèo bọt quá "Nàng bèo bọt quá em lăn lóc","Em đi dệt mộng cùng người / Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh", vả chăng, em cũng không phải là không bèo bọt: "Hàng xóm có người con gái lẻ / ý chừng duyên nợ với nhau đây / Chao ôi ba bốn tao ân ái / Đã đủ tan tành một kiếp trai / Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ / Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày / Khăn gói gió đưa sang xứ lạ / Ai cười cho được lúc chia tay". Mà thường khi là do những cách trở xa xôi "Nhớ Oanh tôi nhớ cô Oanh / Xa xôi cách trở hỏi tình thắm phai". Rất nhiều khi là bởi những cách trở không đâu: "Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn". Có thế thôi mà hai người đành sống giữa cô đơn, và rồi cuối cùng mùng tơi cách trở đã hoá thành âm dương cách trở: "Đêm qua nàng đã chết rồi / Nghẹn ngào tôi khóc qủa tôi yêu nàng". Họ vĩnh viễn chẳng thể thành đôi lứa. Đau đớn tiếc thương thì đà quá muộn. Cũng không ít cuộc họ đã có được nhau, họ đã thề thốt đủ đằng, nhưng rồi những dự cảm mơ hồ về rủi ro, những ám ảnh khôn nguôi về nghèo túng, lo sợ vì đồng tiền làm cho khốn đốn, hay đơn giản chỉ vì những xui khiến tối tăm nào đó... thế là kẻ lỡ duyên, người lỡ thì, đâm ra lỡ cả đôi đường. Giai nhân lỡ dở hoá thành cố nhân: "Xây bao nhiêu mộng thế mà / Đến nay phải gọi người là cố nhân".

Không biết do mình lỡ dở nên chỉ toàn chú ý đến những phận lỡ dở - đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu? đồng bệnh tương liên? "cùng một lứa bên trời lận đận"? - hay do những kiếp lỡ dở cứ ám vào mình, mà thế giới nhân vật Nguyễn Bính toàn những mảnh đời lỡ dở. Người mẹ goá này tiễn con đi lấy chồng (Lòng mẹ), người mẹ goá khác đang dằn lòng uỷ thác bầy con dại cho đứa con gái lớn để mình đi bước nữa (Bước đi bước nữa), ông chồng chết non trăng trối người vợ trẻ những lời đắng chát (Giối giăng), cô gái miền rừng van xin người yêu:"Nhà em cách bốn quả đồi / Cách ba ngọn suối cách đôi cánh rừng / Nhà em xa cách quá chừng / Em van anh đấy anh đừng thương em". Cô gái phải cầm lòng từ chối lời ngỏ của người yêu vì gia cảnh nặng nề, "Chưa trọn đạo con, tròn nghĩa chị / Lòng nào dám tưởng đến duyên tơ". Rồi thì cô lái đò, anh lái đò dang dở giấc mộng tình duyên, dở dang giấc mơ quan trạng, dở dang đến mọi toan tính đường đời: "Lang thang anh dạm bán thuyền / Có người giả chín quan tiền lại thôi". Rồi nàng trinh nữ vội lìa đời khi mới chớm xuân xanh, ngang trái tang thương đến nỗi cái tôi ấy tưởng như cả "kinh thành Hà nội chít khăn xô"... Nhưng có lẽ điển hình nhất cho những mảnh đời lỡ dở đó phải là cô gái trong "Mưa xuân" và người chị "Lỡ bước sang ngang" (Nhiều bài khác Nguyễn Bính sẽ gọi đích danh là chị Trúc - Thư gửi chị Trúc, Khăn hồng, Xuân Tha Hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương). Một cô bé vừa mới thành thiếu nữ khi những hạt mưa xuân đầu tiên lất phất bay về, lòng phơi phới nhận lời hẹn đầu tiên, vội vàng đến với cuộc hò hẹn đầu đời. Thế mà lỡ: "Chờ mãi anh sang anh chả sang / Thế mà hôm nọ hát bên làng / Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn / Để cả mùa xuân cũng lỡ làng". Thật là sái! Cuộc lỡ dở đầu đời ấy rồi sẽ như cái điềm chẳng lành, cái dớp định mệnh dễ làm dang dở cả những mùa xuân sau. Mình em lầm lụi trên đường về / Nào ngắn gì đâu một dải đê / áo mỏng che đầu mưa nặng hạt / Một mình thêm tủi với canh khuya". Một người chị "đã liều nhắm mắt đưa chân" đến hai lần sang ngang mà lỡ bước vẫn hoàn lỡ bước. Cuộc tình thứ nhất kết thúc bằng: "Mười năm gối hận bên giường / Mười năm nước mắt bữa thường thay canh /Mười năm đưa đám một mình / Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên / Mười năm lòng lạnh như tiền / Tim đi hết máu cái duyên không về". Thế rồi một chàng nghệ sĩ xuất hiện. Và chị lại quyết định sang ngang. Nhưng rồi tình cũng đoạn: "Rồi đêm kia lệ ròng ròng / Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về / Tháng ngày qua cửa buồng the / Chị về nhặt cánh hoa lê cuối mùa", "Thế là tàn một giấc mơ / Thế là cả một bài thơ não nùng"... Những mảnh đời lỡ dở, ngang trái, oan nghiệt cứ châu tuần xung quanh cái tôi ấy. Mỗi bước đi trên đường đời là lại gặp những số phận dang dở lỡ làng. Thế giới thơ Nguyễn Bính chan đầy nước mắt đau thương. Đọc thơ Nguyễn Bính ai cũng phải mủi lòng cám cảnh.

Nhìn kĩ có thể thấy họ vừa là nạn nhân của cơn biến thiên trong thời ấy, vừa là nạn nhân của một thứ tiền duyên nghiệp chướng nào đó. Trong những năm được học chữ Hán cùng người cậu, hẳn các môn "nho y lý số", chẳng ít thì nhiều, cũng đã nhập tâm vào cái anh chàng con nhà nho cũ kia. Để rồi lớn lên, cái nhìn lí số cũng nhuốm lên nhỡn quan của Nguyễn Bính, khiến thi sĩ nhìn nhận và lí giải cả mình và những thân phận lỡ dở như là bi kịch trớ trêu của số mệnh: "Trót đà mang số sinh ly / Bao giờ tôi mới được về cố hương?", "Còn tôi giời bắt làm thi sĩ", "Mẹ thì mất sớm giời đày làm thơ", "Ai bảo mắc vào duyên bút mực / Suốt đời mang lấy số long đong"... Tất cả những con người ấy đều bị số phận đày đoạ trong nỗi lận đận bởi chữ tình chữ duyên. "Đoái thương thân chị lỡ làng / Đoái thương phận chị dở dang những ngày", "Mẹ cũng không mong sướng lấy mình / Nhưng mà số phận bắt điêu linh"... Điều này cho thấy bi kịch lỡ dở biểu hiện trong thế giới thi ca Nguyễn Bính dường như vượt ra ngoài vòng thời thế, mà nó là chuyện của nhân thế. Nói cách khác, định mệnh đã chọn cái thời ấy để đày họ vào vòng trầm luân của cơn biến thiên.


*


Cũng phải thấy thêm rằng, thế giới nhân vật Nguyễn Bính rất gần gũi với những thân phận đau khổ trong văn học dân gian, đặc biệt là bao người phụ nữ tủi phận tủi duyên trong những bài hát than thân. "Thân em như hạt mưa sa / Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày", "Em như giếng nước bên đàng / Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân", "Thân em như miếng cau khô / Người thanh tham mỏng người thô tham dày","Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc / Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay", "...", ...Các môtip dân gian đã từ ca dao dân ca nhập thân vào thơ Nguyễn Bính. Những mảnh đời lỡ dở hôm nay như là sự nối dài