Mai Am công chúa

Mai Am (1826-1904) tức Nguyễn Phúc Trinh Thận, tên tự là Thúc Khanh, em cùng mẹ với Miên Thẩm. Năm 24 tuổi, bà kết hôn với ông Thân Trọng Di ở làng Nguyệt Biều (ngoại thành Huế). Thân Trọng cũng là dòng họ nổi tiếng ở Huế, em ông Di thi đỗ tiến sĩ, nhưng ông Di có lẽ không ham chạy theo con đường khoa bảng, thích vui thú điền viên, nên trong Lô giang tiểu sử , ông Nguyễn Văn Mại có nhận xét rằng ông “không ưa từ chương, thật thà như một ông lão nhà quê”. Với đức ông chồng như thế, hẳn là nữ sĩ công chúa ưa ngâm vịnh thưởng ngoạn gió trăng không thể thoả mãn. Nhà thơ Lương An, theo lời kể của cụ Thân Trọng Hy, cũng cho biết “hai người ăn ở với nhau tuy bề ngoài vẫn ấm êm, nhưng bên trong thì không được sắt cầm hoà hợp”. Liệu có phải đó cũng là lý do 13 năm sau khi lập gia đình, bà mới sinh được một đứa con trai? Đã thế, bà lại không được hưởng niềm vui làm mẹ lâu bền. Bà đã gửi gắm biết bao hy vọng vào đứa con sớm tỏ dấu hiệu thông minh, cậu bé mới 3-4 tuổi đã được bà dạy cho đọc thơ Đường, nhưng số phận trớ trêu, chưa đầy 5 tuổi, cậu bé bị ốm nặng và bà đã phải vĩnh biệt đứa con yêu quý. Sau đó, bà không sinh thêm đứa con nào nữa, nỗi đau quá lớn lao chẳng có gì bù đắp được, nhưng với người nghệ sĩ, nỗi đau trần thế lại sinh thành những tác phẩm. Với Mai Am đó là 15 bài thơ khóc con ( Khốc nhi thi thập ngũ thủ ) từng khiến bao thế hệ độc giả rơi lệ: Hoạch sa vãng vãng hiệu nhân thư Thốc quản tuỳ thân nhật bất hư Khổ ức lâm chung vân hiếu học Chư thiên hà xứ mịch đồng sơ (Lương An dịch thơ: Vạch cát học theo người lớn viết Bút cùn tay chẳng buổi nào lơi Lâm chung còn nói con thèm học Con trẻ, tìm đâu giữa các trời?) Chùm thơ viết năm 1868, khi Mai Am 42 tuổi. Đó cũng là lúc nghệ thuật thơ của bà được các danh sĩ đương thời như Miên Thẩm, Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Nguyễn Hàm Ninh hết lời ca tụng nhân tập thơ Diệu Liên thi tập của bà được khắc in lần đầu (năm 1867). Nỗi bất hạnh lớn nhất đến với bà cùng với nỗi đau của cả dân tộc trước hoạ ngoại xâm. Sau khi giặc Pháp chiếm kinh đô Huế (năm 1885), nghe tin vua Hàm Nghi rời kinh đô, ông Thân Trọng Di cũng tìm đường ra Quảng Trị. Ông không theo kịp đoàn xa giá, rồi mất tích giữa núi rừng, mãi về sau vẫn không tìm được hài cốt. Một lần nữa, nỗi đau vò xé gan ruột đã hoá thành mười lăm bài thơ khóc chồng và bà đã cho khắc trên bia mộ – một ngôi mộ trống không ở làng quê Nguyệt Biều! Là một công chúa và với lễ giáo phong kiến khắt khe, Mai Am ít có dịp sống gần gũi với cuộc sống lao động quần chúng và tham dự vào thời cuộc, nên phần lớn thơ của bà là thơ ngâm vịnh phong cảnh, xướng hoạ với người thân cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, khi có dịp, bà cũng thể hiện công việc vất vả của người lao động một cách chân thực và trân trọng. Đánh giá tổng quát về sự nghiệp thơ của Mai Am, nhà thơ Lương An viết: “...thơ Mai Am trước hết là thơ một phụ nữ khuê các, hơn thế, một bà chúa sống giữa một giai đoạn lịch sử mà xã hội đang trải qua những biến động rất lớn, đất nước đang từ tự chủ trở thành lệ thuộc, là thơ của một con người giàu tình cảm, dễ xúc động, lại gặp nhiều bất nghi trong cuộc sống riêng tư. Với thơ của một người như thế, vấn đề lớn nhất không phải là chuyện đề tài, mà là bao nhiêu điều bắt ta phải suy nghĩ, tìm hiểu, thông cảm, thậm chí cả trằn trọc và tin yêu nữa.” Dù sao giá trị chủ yếu thơ Mai Am vẫn là nghệ thuật sử dụng ngôn từ và tình cảm tinh tế, nhân hậu của tác giả trước thiên nhiên, trước cuộc đời. Tác phẩm của bà đều viết bằng chữ Hán, với khả nhiều điển tích, nên thật khó chuyển tải những điều đó đến đông đảo bạn đọc hôm nay - các bản dịch, nhất là dịch thơ, công phu mấy cũng không thể diễn tả hết được tài nghệ và vẻ đẹp của nguyên bản. Mai Am (1826-1904) tức Nguyễn Phúc Trinh Thận, tên tự là Thúc Khanh, em cùng mẹ với Miên Thẩm. Năm 24 tuổi, bà kết hôn với ông Thân Trọng Di ở làng Nguyệt Biều (ngoại thành Huế). Thân Trọng cũng là dòng họ nổi tiếng ở Huế, em ông Di thi đỗ tiến sĩ, nhưng ông Di có lẽ không ham chạy theo con đường khoa bảng, thích vui thú điền viên, nên trong Lô giang tiểu sử , ông Nguyễn Văn Mại có nhận xét rằng ông “không ưa từ chương, thật thà như một ông lão nhà quê”. Với đức ông chồng như thế, hẳn là nữ sĩ công chúa ưa ngâm vịnh thưởng ngoạn gió trăng không thể thoả mãn. Nhà thơ Lương An, theo lời kể của cụ Thân Trọng Hy, cũng cho biết “hai người ăn ở với nhau tuy bề ngoài vẫn ấm êm, nhưng bên trong thì không được sắt cầm hoà hợp”. Liệu có phải đó cũng là lý do 13 năm sau khi lập gia đình, bà mới…

Mai Am (1826-1904) tức Nguyễn Phúc Trinh Thận, tên tự là Thúc Khanh, em cùng mẹ với Miên Thẩm. Năm 24 tuổi, bà kết hôn với ông Thân Trọng Di ở làng Nguyệt Biều (ngoại thành Huế). Thân Trọng cũng là dòng họ nổi tiếng ở Huế, em ông Di thi đỗ tiến sĩ, nhưng ông Di có lẽ không ham chạy theo con đường khoa bảng, thích vui thú điền viên, nên trong Lô giang tiểu sử, ông Nguyễn Văn Mại có nhận xét rằng ông “không ưa từ chương, thật thà như một ông lão nhà quê”. Với đức ông chồng như thế, hẳn là nữ sĩ công chúa ưa ngâm vịnh thưởng ngoạn gió trăng không thể thoả mãn. Nhà thơ Lương An, theo lời kể của cụ Thân Trọng Hy, cũng cho biết “hai người ăn ở với nhau tuy bề ngoài vẫn ấm êm, nhưng bên trong thì không được sắt cầm hoà hợp”. Liệu có phải đó cũng là lý do 13 năm sau khi lập gia đình, bà mới sinh được một đứa con trai? Đã thế, bà lại không được hưởng niềm vui làm mẹ lâu bền. Bà đã gửi gắm biết bao hy vọng vào đứa con sớm tỏ dấu hiệu thông minh, cậu bé mới 3-4 tuổi đã được bà dạy cho đọc thơ Đường, nhưng số phận trớ trêu, chưa đầy 5 tuổi, cậu bé bị ốm nặng và bà đã phải vĩnh biệt đứa con yêu quý. Sau đó, bà không sinh thêm đứa con nào nữa, nỗi đau quá lớn lao chẳng có gì bù đắp được, nhưng với người nghệ sĩ, nỗi đau trần thế lại sinh thành những tác phẩm. Với Mai Am đó là 15 bài thơ khóc con (Khốc nhi thi thập ngũ thủ) từng khiến bao thế hệ độc giả rơi lệ:
Hoạch sa vãng vãng hiệu nhân thư
Thốc quản tuỳ thân nhật bất hư
Khổ ức lâm chung vân hiếu học
Chư thiên hà xứ mịch đồng sơ

(Lương An dịch thơ:
Vạch cát học theo người lớn viết
Bút cùn tay chẳng buổi nào lơi
Lâm chung còn nói con thèm học
Con trẻ, tìm đâu giữa các trời?)
Chùm thơ viết năm 1868, khi Mai Am 42 tuổi. Đó cũng là lúc nghệ thuật thơ của bà được các danh sĩ đương thời như Miên Thẩm, Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Nguyễn Hàm Ninh hết lời ca tụng nhân tập thơ Diệu Liên thi tập của bà được khắc in lần đầu (năm 1867).

Nỗi bất hạnh lớn nhất đến với bà cùng với nỗi đau của cả dân tộc trước hoạ ngoại xâm. Sau khi giặc Pháp chiếm kinh đô Huế (năm 1885), nghe tin vua Hàm Nghi rời kinh đô, ông Thân Trọng Di cũng tìm đường ra Quảng Trị. Ông không theo kịp đoàn xa giá, rồi mất tích giữa núi rừng, mãi về sau vẫn không tìm được hài cốt. Một lần nữa, nỗi đau vò xé gan ruột đã hoá thành mười lăm bài thơ khóc chồng và bà đã cho khắc trên bia mộ – một ngôi mộ trống không ở làng quê Nguyệt Biều!

Là một công chúa và với lễ giáo phong kiến khắt khe, Mai Am ít có dịp sống gần gũi với cuộc sống lao động quần chúng và tham dự vào thời cuộc, nên phần lớn thơ của bà là thơ ngâm vịnh phong cảnh, xướng hoạ với người thân cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, khi có dịp, bà cũng thể hiện công việc vất vả của người lao động một cách chân thực và trân trọng.

Đánh giá tổng quát về sự nghiệp thơ của Mai Am, nhà thơ Lương An viết: “...thơ Mai Am trước hết là thơ một phụ nữ khuê các, hơn thế, một bà chúa sống giữa một giai đoạn lịch sử mà xã hội đang trải qua những biến động rất lớn, đất nước đang từ tự chủ trở thành lệ thuộc, là thơ của một con người giàu tình cảm, dễ xúc động, lại gặp nhiều bất nghi trong cuộc sống riêng tư. Với thơ của một người như thế, vấn đề lớn nhất không phải là chuyện đề tài, mà là bao nhiêu điều bắt ta phải suy nghĩ, tìm hiểu, thông cảm, thậm chí cả trằn trọc và tin yêu nữa.”

Dù sao giá trị chủ yếu thơ Mai Am vẫn là nghệ thuật sử dụng ngôn từ và tình cảm tinh tế, nhân hậu của tác giả trước thiên nhiên, trước cuộc đời. Tác phẩm của bà đều viết bằng chữ Hán, với khả nhiều điển tích, nên thật khó chuyển tải những điều đó đến đông đảo bạn đọc hôm nay - các bản dịch, nhất là dịch thơ, công phu mấy cũng không thể diễn tả hết được tài nghệ và vẻ đẹp của nguyên bản.
Mai Am (1826-1904) tức Nguyễn Phúc Trinh Thận, tên tự là Thúc Khanh, em cùng mẹ với Miên Thẩm. Năm 24 tuổi, bà kết hôn với ông Thân Trọng Di ở làng Nguyệt Biều (ngoại thành Huế). Thân Trọng cũng là dòng họ nổi tiếng ở Huế, em ông Di thi đỗ tiến sĩ, nhưng ông Di có lẽ không ham chạy theo con đường khoa bảng, thích vui thú điền viên, nên trong Lô giang tiểu sử, ông Nguyễn Văn Mại có nhận xét rằng ông “không ưa từ chương, thật thà như một ông lão nhà quê”. Với đức ông chồng như thế, hẳn là nữ sĩ công chúa ưa ngâm vịnh thưởng ngoạn gió trăng không thể thoả mãn. Nhà thơ Lương An, theo lời kể của cụ Thân Trọng Hy, cũng cho biết “hai người ăn ở với nhau tuy bề ngoài vẫn ấm êm, nhưng bên trong thì không được sắt cầm hoà hợp”. Liệu có phải đó cũng là lý do 13 năm sau khi lập gia đình, bà mới…
Bài liên quan

Nguyễn Công Trứ 阮公著

Nguyễn Công Trứ 阮公著 (1778-1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, xuất thân trong một gia đình Nho học, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ cho đến năm 1819, ông sống nghèo khó và chính trong thời gian này, Nguyễn Công Trứ đã có điều kiện tham gia sinh hoạt hát ca ...

Nguyễn Quang Bích 阮光碧

Nguyễn Quang Bích 阮光碧 (1832-1890) vốn họ Ngô, tự là Hàm Hy, hiệu Ngư Phong, người làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Đỗ đình nguyên năm 1868, làm Tuần phủ Hưng Hoá. Pháp chiếm Bắc kỳ (1882), ông tổ chức ...

Phạm Phú Thứ 范富恕

Phạm Phú Thứ 范富恕 (1821-1882) trước tên là Phạm Hào, khi đỗ tiến sĩ được vua Thiệu Trị đổi tên là Phú Thứ, tự Giáo Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên. Ông là một đại thần triều Nguyễn. Ông sinh ở làng Đông Bàn, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm 1842, ông thi Hương đậu Giải nguyên, năm 1843 ...

Trương Quốc Dụng 張國用

Trương Quốc Dụng 張國用 (1797–1864) là nhà văn Việt Nam, nhà sử học, Đông các đại học sĩ triều Nguyễn. Ông cũng là người chủ biên bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục. Ông là người làng Phong Phú, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, hồi nhỏ tên là Khánh, tự Dĩ Hành. Trương Quốc Dụng đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ ...

Nguyễn Thông 阮通

Nguyễn Thông 阮通 (1827-1884) tự là Hy Phần, biệt hiệu Ðôn Am, người huyện Tân Thạnh (Gia Ðịnh). Năm 23 tuổi đậu cử nhân trường thi hương Gia Ðịnh (1849) được bổ làm huấn đạo huyện Phong Phú, tỉnh Gia Định. Năm 1859, quân Pháp đánh Gia Ðịnh, Ông giúp việc quân 2 năm. Sau hàng ước 1862, ông được bổ đốc ...

Tôn Thất Thuyết 尊室說

Tôn Thất Thuyết 尊室說 (1835-1913), đại thần theo xu hướng chủ chiến chống Pháp trong triều đình nhà Nguyễn. Ông là hậu duệ của Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) thuộc dòng tộc Nguyễn Phúc ở Huế. Năm 1869, làm án sát Hải Dương, rồi Tán tương Quân thứ Thái nguyên rồi Tán lý quân thứ Sơn Hưng Tuyên. ...

Phạm Viết Chánh

Phạm Viết Chánh (1824-1886) hay Phạm Hữu Chánh, Phạm Chánh, là một danh sĩ và là quan nhà Nguyễn, người làng Lương Mỹ (tục gọi Mỹ Lồng), huyện Bảo Hựu, phủ Hoằng Trị, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre). Gia cảnh của ông không rõ, chỉ biết vào năm 1846, ông đỗ cử nhân ...

Trần Thiện Chánh

Trần Thiện Chánh tự Tử Mẫn, hiệu Trừng Giang, người thôn Tân Thới huyện Bình Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh). Có lẽ ông sinh ra trong một gia đình khá giả, nên sau này mới có thể "xuất ngàn vàng mộ quân" (Mộ sĩ vạn kim) như Phạm Phú Thứ tán tụng hay "Phá gia tài ...

Nguyễn Văn Trình 阮文程

Nguyễn Văn Trình 阮文程 (1872-1949) tự Lục Quang 綠光, hiệu Thạch Thất 石室, Thốc Sơn 簇山, người làng Kỳ Trúc, xã Kiệt Thạch (nay là xã Thanh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh). Ông đỗ Tiến sĩ đời Thành Thái, từng làm đốc học, tế tửu, toản tu quốc sử quán. Sau Cách mạng tháng 8, ông được mời tham gia hoạt động Mặt trận ...

Nguyễn Hành 阮衡

Nguyễn Hành (1771-1824), tên thật là Nguyễn Đạm [1], tự là Tử Kính, hiệu Nam Thúc, biệt hiệu Ngọ Nam và Nhật Nam. Ông được người đương thời liệt vào An Nam ngũ tuyệt [2]. Ông sinh năm Tân Mão (1771), là con thứ của Nguyễn Điều, cháu nội Nguyễn Nghiễm, và gọi Nguyễn Du là chú ruột. Ông người làng ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...