Trần Thiện Chánh

Trần Thiện Chánh tự Tử Mẫn, hiệu Trừng Giang, người thôn Tân Thới huyện Bình Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh). Có lẽ ông sinh ra trong một gia đình khá giả, nên sau này mới có thể "xuất ngàn vàng mộ quân" (Mộ sĩ vạn kim) như Phạm Phú Thứ tán tụng hay "Phá gia tài mộ quân ra sức chống Pháp" (Phá gia một sĩ lực ngự Hồ) như Miên Thẩm ngợi ca. Liệt truyện chép ông mất năm 1874 (Giáp Tuất, Tự Đức thứ 27), lúc 53 tuổi, và căn cứ vào lối tính "tuổi ta" ngày trước, có thể xác định rằng ông sinh năm 1822.(...) Theo Đại Nam Thực lục và Hương khoa lục, Trần Thiện Chánh đậu thứ 4 trong 16 cử nhân khoa thi hương trường Gia Định năm 1842 (Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ 2). Đầu tiên nhận chức Hậu bổ Khánh Hoà, một thời gian sau ông được bổ làm Huấn đạo Long Xuyên, kế được thăng làm Tri huyện.(...) Sau đó ông bị cách chức không rõ nguyên nhân. Ngày 17.2.1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Giữa lúc quan quân triều đình chạy tan tác - Hộ đốc Võ Duy Ninh chạy về Cần Giuộc, Đề đốc Trần Tri, Bố chánh Vũ Thực, Lãnh binh Tôn Thất Năng chạy qua Hóc Môn...thì Trần Thiện Chánh cùng một viên Suất đội bị thải hồi là Lê Huy tập hợp hơn 5800 nghĩa dũng - nông dân từ Hóc Môn kéo về Sài Gòn chặn giặc. Trong lịch sử chống Pháp ở Gia Định, sự kiện này có ý nghĩa quan trọng tới mức về sau một tác giả thân Pháp cũng phải nhắc tới mặc dù với thái độ cố tình bôi bác, chê bai: Còn quan Bố Thực nan phân Trần Tri Đề đốc nương lân tiền hành Thuỷ sư Phó Lãnh Nguyễn Sanh Lãnh binh Tôn Thấn danh Năng đồng đoàn Hiệp nhau Tây Thới luận bàn Bố, Đề, Chánh, Phó tính đàng qua Biên Thới Tây Tân Phú tiếp liền Tại quê Phủ Chánh gần miền Phủ Doi Hai ông chạy đến loi ngoi Xin quan ẩn trú hai tôi giúp giùm Thúc thôi Tổng lý xã trùm Sức chiêu tàn tốt cho sung viên biền Chiêu quân khí giới thành tuyền Cậy lương dân xã tương liền dưỡng binh (Thơ Nam Kỳ, ou lettre Cochinchinoise sur les évenements de la guere Franco - Annamite, traduite par M.D., Chaigneau, Imprimerie Nationale, Paris, 1876) Cần lưu ý rằng ngay sau ngày 17.2.1859, quân đồn điền của Trương Định, quân nghĩa dũng của Dương Bình Tâm, Phạm Tấn Phát... đều chưa kịp có mặt ở Sài Gòn, quân triều đình từ Huế thì càng chưa kịp kéo vào, trong khi đó Tổng đốc Long Tường Trương Văn Uyển đã lập tức rút quân cứu viện Gai Định về giữ Vĩnh Long, còn Vũ Thực, Trần Tri thì theo tác giả Thơ Nam Kỳ đã định rút quân sang Biên Hoà tránh giặc... Cho nên, Trần Thiện Chánh với gần 6000 chiến sĩ dưới quyền đã không chỉ làm riêng việc "hộ về cho Đề đốc Trần Tri rút về bảo Tây Thới" như các sử thần triều Nguyễn sẽ viết trong Thực lục, Liệt truyện... sau này, mà còn đã thực sự trở thành lực lượng chủ yếu bảo vệ mặt trận Sài Gòn trong những ngày đầu chống Pháp. Và hai tháng sau, có lệnh cho ông được phục hàm Tri huyện theo giúp việc quân ở Gia Định - lần này thì triều đình Tự Đức đã phải thừa nhận rằng viên Tri huyện bị cách kia quả có một "thực trạng hơn người"... Theo Liệt truyện, sau đó Trần Thiện Chánh được thăng chức Đồng Tri phủ, đến năm 1864 (Giáp tý, Tự Đức thứ 17) được thăng hàm Hàn lâm viện Thị độc lãnh chức Phó Quản đạo Phú Yên, ít lâu sau lại được thăng hàm Hồng lô tự khanh, đổi giữ chức Biện lý bộ Hộ sung kinh kỳ Thuỷ sư Hiệp lý (Chỉ huy phó lực lượng thuỷ quân ở Huế).(...) Ở chức vụ Kinh kỳ Thuỷ sư Hiệp lý, Trần Thiện Chánh bị phạt một năm lương vì chiến thuyền tuần biển trở về trễ hạn. Năm 1866 (Bính Dần, Tự Đức thứ 19) ông được cử vào phái bộ Việt Nam qua Hương Cảng thương lượng đổi mua chiếc tàu máy Thuận Tiệp. Tháng 5 năm Đinh Mão 1867, không rõ vì lý do gì, ông bi "miễn chức chờ xét", đến tháng 6 thì bị cách chức nhưng chỉ 13 ngày sau lại được phục hàm Hàn lâm viện Kiểm thảo lãnh Tri phủ Hàm Thuận tỉnh Bình Thuận; và cứ theo hai câu "Lòng trung cô độc vua lưu luyến, Lời nghị cao xa chúng ngại ngùng" (Cô trung yêu chủ quyến, Cao luận hãi nhân văn) trong bài thơ của Nguyễn Thông đưa ông về kinh năm sau thì rất có thể sự kiện trên có liện hệ trực tiếp với việc quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ tháng 6.1867, Khoảng cuối năm 1868 (Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21), quan coi Hàn lâm viện là Vũ Phạm Khải tiến cử Trần Thiện Chánh có tài thơ văn nên ông được thăng hàm Hàn lâm viện Tu soạn về làm việc ở Viện. Vài tháng sau, vào đầu năm 1869 (Kỷ Tị, Tự Đức thứ 22), ông được thăng hàm Hồng lô tự thiếu khanh, giữ chức Biện lý bộ Binh, đến giữa năm ấy sung chức Tán tướng quân thứ Sơn Tây, tham gia đánh dẹp các toán phỉ Trung Quốc tràn qua cướp bóc ở miền Bắc lúc bấy giờ. Từ khi ra Bắc, Trần Thiện Chánh bị thăng giáng nhiều lần, đến cuối năm 1872 thì bị cách chức vì cấp phát tiền lương trái quy định, hút thuốc phiện và giả ốm để cưới vợ lẽ. Năm 1873, ông được tạm giữ hàm Tán lý cùng Thanh đoàn Lưu Vĩnh Phúc tiễu phỉ ở Tâm Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang), thắng liên tiếp 5 trận nên được thưởng quân công một cấp. Kế tiếp chiếm lại được huyện lỵ Phù Ninh tỉnh Sơn Tây nên được phục hàm Hồng lô tự khanh. Sau đó, ông được lệnh cùng Tôn Thất Thuyết chuyên lo việc tiễu phỉ ở Tam Tuyên để Hoàng Kế Viêm về Hà Nội giúp Nguyễn Tri Phương chuẩn bị chống Pháp. Tháng 11.1872, tên lái buôn thực dân Jean Dupuis đã gặp gỡ Senez (đặc phái viên của tướng D''Arbaud từ Sài Gòn ra), trên vùng biển Bắc Bộ bàn bạc kế hoạch đánh chiếm miền Bắc, và sau đó nhiều lần gây hấn để tạo điều kiện cho bọn thực dân ở Nam Kỳ. Và đến tháng 10.1873, đước chiêu bài "giải quyết vụ Jean Dupuis", Thống đốc Nam Kỳ Dupré đã phái thiếu tá Francis Garnier đem quân ra Bắc. Ngày 3.11, Francis Garnier tới Hà Nội và sau đó lần lượt đánh chiếm các thành Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định. Triều đình Tự Đức liên tiếp cử các phái đoàn Trần Đình Túc, Nguyễn Văn Tường ra thương thuyết, nhưng ngày 21.12 quân dân Hà Nội phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc đã phục kích ở Cầu Giấy giết chết Francis Garnier. Ngày 31.12, Pháp phải giao trả thành Hải Dương, kế đó là thành Ninh Bình (8.1.1874) và Nam Định (10.1). Lúc bấy giờ tình hình chính trị-xã hội ở những nơi này rất rối ren, trong đó nổi bật là vấn đề Thiên chúa giáo: ngày 3.1.1874 Nguyễn Văn Tường và Philastre trong pháp đoàn hiệp thương Việt Pháp đã thoả thuận giải tán 12000 tên lưu manh và giáo dân phản động vừa qua theo quân của Francis Garnier đi quấy phá các nơi. Vì vậy mà Trần Thiện Chánh liên tiếp được cử giữ chức Khâm phái Nam Định rồi Khâm phái Hà Nội, nhưng vẫn còn ở Sơn Tây thì lại được lệnh lấy hàm Hồng lô tự khanh đổi sung Hộ lý Tuần phủ Ninh Bình sau khi quan tỉnh này là Đặng Văn Huấn, Bùi Văn Dị tâu rằng không đủ khả năng giải quyết vấn đề giáo dân ở tỉnh. Một thời gian sau ông được thăng hàm Thị lang, chính thức giữ chức Tuần phủ Ninh Bình. Ngày 26 tháng 5 năm Tự Đức thứ 27 (9.7.1874), Trần Thiện Chánh ngã bệnh vì chứng khối u ở dạ dày (thượng tiêu yết cách) rồi qua đời sau khoảng 1 tháng mỏi mòn trên giường bệnh, để lại cho người quen một niềm thương tiếc xót xa. Được tin, Tự Đức cũng rất thương xót, ra lệnh cho các tỉnh từ Ninh Bình tới Huế tuỳ nghi điều động người và phương tiện đưa linh cữu ông về quàn tạm ở kinh. Theo Liệt truyện, Trần Thiện Chánh nổi tiếng hay thơ, có sáng tác các tập Trừng Giang thi văn tập, Nam hành thi thảo và Bách chinh thi thảo. Con ông là Trần Thiện Cốc sau làm quan ở Bình Thuận, giữ chức Tri huyện Tuy Phong. Theo "Thơ Trần Thiện Chánh", Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, NXB Khoa học xã hội, 1995 (do Diệp Đồng gửi, lược đi chú thích và một số đoạn) Trần Thiện Chánh tự Tử Mẫn, hiệu Trừng Giang, người thôn Tân Thới huyện Bình Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh). Có lẽ ông sinh ra trong một gia đình khá giả, nên sau này mới có thể "xuất ngàn vàng mộ quân" (Mộ sĩ vạn kim) như Phạm Phú Thứ tán tụng hay "Phá gia tài mộ quân ra sức chống Pháp" (Phá gia một sĩ lực ngự Hồ) như Miên Thẩm ngợi ca. Liệt truyện chép ông mất năm 1874 (Giáp Tuất, Tự Đức thứ 27), lúc 53 tuổi, và căn cứ vào lối tính "tuổi ta" ngày trước, có thể xác định rằng ông sinh năm 1822.(...) Theo Đại Nam Thực lục và Hương khoa lục, Trần Thiện Chánh đậu thứ 4 trong 16 cử nhân khoa thi hương trường Gia Định năm 1842 (Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ 2). Đầu tiên nhận chức Hậu bổ Khánh Hoà, một thời gian sau ông được bổ làm Huấn đạo Long Xuyên, kế được t…

Trần Thiện Chánh tự Tử Mẫn, hiệu Trừng Giang, người thôn Tân Thới huyện Bình Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh). Có lẽ ông sinh ra trong một gia đình khá giả, nên sau này mới có thể "xuất ngàn vàng mộ quân" (Mộ sĩ vạn kim) như Phạm Phú Thứ tán tụng hay "Phá gia tài mộ quân ra sức chống Pháp" (Phá gia một sĩ lực ngự Hồ) như Miên Thẩm ngợi ca. Liệt truyện chép ông mất năm 1874 (Giáp Tuất, Tự Đức thứ 27), lúc 53 tuổi, và căn cứ vào lối tính "tuổi ta" ngày trước, có thể xác định rằng ông sinh năm 1822.(...)

Theo Đại Nam Thực lục và Hương khoa lục, Trần Thiện Chánh đậu thứ 4 trong 16 cử nhân khoa thi hương trường Gia Định năm 1842 (Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ 2). Đầu tiên nhận chức Hậu bổ Khánh Hoà, một thời gian sau ông được bổ làm Huấn đạo Long Xuyên, kế được thăng làm Tri huyện.(...) Sau đó ông bị cách chức không rõ nguyên nhân.

Ngày 17.2.1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Giữa lúc quan quân triều đình chạy tan tác - Hộ đốc Võ Duy Ninh chạy về Cần Giuộc, Đề đốc Trần Tri, Bố chánh Vũ Thực, Lãnh binh Tôn Thất Năng chạy qua Hóc Môn...thì Trần Thiện Chánh cùng một viên Suất đội bị thải hồi là Lê Huy tập hợp hơn 5800 nghĩa dũng - nông dân từ Hóc Môn kéo về Sài Gòn chặn giặc. Trong lịch sử chống Pháp ở Gia Định, sự kiện này có ý nghĩa quan trọng tới mức về sau một tác giả thân Pháp cũng phải nhắc tới mặc dù với thái độ cố tình bôi bác, chê bai:

Còn quan Bố Thực nan phân
Trần Tri Đề đốc nương lân tiền hành
Thuỷ sư Phó Lãnh Nguyễn Sanh
Lãnh binh Tôn Thấn danh Năng đồng đoàn
Hiệp nhau Tây Thới luận bàn
Bố, Đề, Chánh, Phó tính đàng qua Biên
Thới Tây Tân Phú tiếp liền
Tại quê Phủ Chánh gần miền Phủ Doi
Hai ông chạy đến loi ngoi
Xin quan ẩn trú hai tôi giúp giùm
Thúc thôi Tổng lý xã trùm
Sức chiêu tàn tốt cho sung viên biền
Chiêu quân khí giới thành tuyền
Cậy lương dân xã tương liền dưỡng binh

(Thơ Nam Kỳ, ou lettre Cochinchinoise sur les évenements de la guere Franco - Annamite, traduite par M.D., Chaigneau, Imprimerie Nationale, Paris, 1876)

Cần lưu ý rằng ngay sau ngày 17.2.1859, quân đồn điền của Trương Định, quân nghĩa dũng của Dương Bình Tâm, Phạm Tấn Phát... đều chưa kịp có mặt ở Sài Gòn, quân triều đình từ Huế thì càng chưa kịp kéo vào, trong khi đó Tổng đốc Long Tường Trương Văn Uyển đã lập tức rút quân cứu viện Gai Định về giữ Vĩnh Long, còn Vũ Thực, Trần Tri thì theo tác giả Thơ Nam Kỳ đã định rút quân sang Biên Hoà tránh giặc... Cho nên, Trần Thiện Chánh với gần 6000 chiến sĩ dưới quyền đã không chỉ làm riêng việc "hộ về cho Đề đốc Trần Tri rút về bảo Tây Thới" như các sử thần triều Nguyễn sẽ viết trong Thực lục, Liệt truyện... sau này, mà còn đã thực sự trở thành lực lượng chủ yếu bảo vệ mặt trận Sài Gòn trong những ngày đầu chống Pháp. Và hai tháng sau, có lệnh cho ông được phục hàm Tri huyện theo giúp việc quân ở Gia Định - lần này thì triều đình Tự Đức đã phải thừa nhận rằng viên Tri huyện bị cách kia quả có một "thực trạng hơn người"...

Theo Liệt truyện, sau đó Trần Thiện Chánh được thăng chức Đồng Tri phủ, đến năm 1864 (Giáp tý, Tự Đức thứ 17) được thăng hàm Hàn lâm viện Thị độc lãnh chức Phó Quản đạo Phú Yên, ít lâu sau lại được thăng hàm Hồng lô tự khanh, đổi giữ chức Biện lý bộ Hộ sung kinh kỳ Thuỷ sư Hiệp lý (Chỉ huy phó lực lượng thuỷ quân ở Huế).(...)

Ở chức vụ Kinh kỳ Thuỷ sư Hiệp lý, Trần Thiện Chánh bị phạt một năm lương vì chiến thuyền tuần biển trở về trễ hạn. Năm 1866 (Bính Dần, Tự Đức thứ 19) ông được cử vào phái bộ Việt Nam qua Hương Cảng thương lượng đổi mua chiếc tàu máy Thuận Tiệp. Tháng 5 năm Đinh Mão 1867, không rõ vì lý do gì, ông bi "miễn chức chờ xét", đến tháng 6 thì bị cách chức nhưng chỉ 13 ngày sau lại được phục hàm Hàn lâm viện Kiểm thảo lãnh Tri phủ Hàm Thuận tỉnh Bình Thuận; và cứ theo hai câu "Lòng trung cô độc vua lưu luyến, Lời nghị cao xa chúng ngại ngùng" (Cô trung yêu chủ quyến, Cao luận hãi nhân văn) trong bài thơ của Nguyễn Thông đưa ông về kinh năm sau thì rất có thể sự kiện trên có liện hệ trực tiếp với việc quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ tháng 6.1867, Khoảng cuối năm 1868 (Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21), quan coi Hàn lâm viện là Vũ Phạm Khải tiến cử Trần Thiện Chánh có tài thơ văn nên ông được thăng hàm Hàn lâm viện Tu soạn về làm việc ở Viện. Vài tháng sau, vào đầu năm 1869 (Kỷ Tị, Tự Đức thứ 22), ông được thăng hàm Hồng lô tự thiếu khanh, giữ chức Biện lý bộ Binh, đến giữa năm ấy sung chức Tán tướng quân thứ Sơn Tây, tham gia đánh dẹp các toán phỉ Trung Quốc tràn qua cướp bóc ở miền Bắc lúc bấy giờ.

Từ khi ra Bắc, Trần Thiện Chánh bị thăng giáng nhiều lần, đến cuối năm 1872 thì bị cách chức vì cấp phát tiền lương trái quy định, hút thuốc phiện và giả ốm để cưới vợ lẽ. Năm 1873, ông được tạm giữ hàm Tán lý cùng Thanh đoàn Lưu Vĩnh Phúc tiễu phỉ ở Tâm Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang), thắng liên tiếp 5 trận nên được thưởng quân công một cấp. Kế tiếp chiếm lại được huyện lỵ Phù Ninh tỉnh Sơn Tây nên được phục hàm Hồng lô tự khanh. Sau đó, ông được lệnh cùng Tôn Thất Thuyết chuyên lo việc tiễu phỉ ở Tam Tuyên để Hoàng Kế Viêm về Hà Nội giúp Nguyễn Tri Phương chuẩn bị chống Pháp.

Tháng 11.1872, tên lái buôn thực dân Jean Dupuis đã gặp gỡ Senez (đặc phái viên của tướng D'Arbaud từ Sài Gòn ra), trên vùng biển Bắc Bộ bàn bạc kế hoạch đánh chiếm miền Bắc, và sau đó nhiều lần gây hấn để tạo điều kiện cho bọn thực dân ở Nam Kỳ. Và đến tháng 10.1873, đước chiêu bài "giải quyết vụ Jean Dupuis", Thống đốc Nam Kỳ Dupré đã phái thiếu tá Francis Garnier đem quân ra Bắc. Ngày 3.11, Francis Garnier tới Hà Nội và sau đó lần lượt đánh chiếm các thành Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định. Triều đình Tự Đức liên tiếp cử các phái đoàn Trần Đình Túc, Nguyễn Văn Tường ra thương thuyết, nhưng ngày 21.12 quân dân Hà Nội phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc đã phục kích ở Cầu Giấy giết chết Francis Garnier. Ngày 31.12, Pháp phải giao trả thành Hải Dương, kế đó là thành Ninh Bình (8.1.1874) và Nam Định (10.1). Lúc bấy giờ tình hình chính trị-xã hội ở những nơi này rất rối ren, trong đó nổi bật là vấn đề Thiên chúa giáo: ngày 3.1.1874 Nguyễn Văn Tường và Philastre trong pháp đoàn hiệp thương Việt Pháp đã thoả thuận giải tán 12000 tên lưu manh và giáo dân phản động vừa qua theo quân của Francis Garnier đi quấy phá các nơi. Vì vậy mà Trần Thiện Chánh liên tiếp được cử giữ chức Khâm phái Nam Định rồi Khâm phái Hà Nội, nhưng vẫn còn ở Sơn Tây thì lại được lệnh lấy hàm Hồng lô tự khanh đổi sung Hộ lý Tuần phủ Ninh Bình sau khi quan tỉnh này là Đặng Văn Huấn, Bùi Văn Dị tâu rằng không đủ khả năng giải quyết vấn đề giáo dân ở tỉnh. Một thời gian sau ông được thăng hàm Thị lang, chính thức giữ chức Tuần phủ Ninh Bình.

Ngày 26 tháng 5 năm Tự Đức thứ 27 (9.7.1874), Trần Thiện Chánh ngã bệnh vì chứng khối u ở dạ dày (thượng tiêu yết cách) rồi qua đời sau khoảng 1 tháng mỏi mòn trên giường bệnh, để lại cho người quen một niềm thương tiếc xót xa. Được tin, Tự Đức cũng rất thương xót, ra lệnh cho các tỉnh từ Ninh Bình tới Huế tuỳ nghi điều động người và phương tiện đưa linh cữu ông về quàn tạm ở kinh.

Theo Liệt truyện, Trần Thiện Chánh nổi tiếng hay thơ, có sáng tác các tập Trừng Giang thi văn tập, Nam hành thi thảo và Bách chinh thi thảo. Con ông là Trần Thiện Cốc sau làm quan ở Bình Thuận, giữ chức Tri huyện Tuy Phong.

Theo "Thơ Trần Thiện Chánh", Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, NXB Khoa học xã hội, 1995

(do Diệp Đồng gửi, lược đi chú thích và một số đoạn)
Trần Thiện Chánh tự Tử Mẫn, hiệu Trừng Giang, người thôn Tân Thới huyện Bình Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh). Có lẽ ông sinh ra trong một gia đình khá giả, nên sau này mới có thể "xuất ngàn vàng mộ quân" (Mộ sĩ vạn kim) như Phạm Phú Thứ tán tụng hay "Phá gia tài mộ quân ra sức chống Pháp" (Phá gia một sĩ lực ngự Hồ) như Miên Thẩm ngợi ca. Liệt truyện chép ông mất năm 1874 (Giáp Tuất, Tự Đức thứ 27), lúc 53 tuổi, và căn cứ vào lối tính "tuổi ta" ngày trước, có thể xác định rằng ông sinh năm 1822.(...)

Theo Đại Nam Thực lục và Hương khoa lục, Trần Thiện Chánh đậu thứ 4 trong 16 cử nhân khoa thi hương trường Gia Định năm 1842 (Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ 2). Đầu tiên nhận chức Hậu bổ Khánh Hoà, một thời gian sau ông được bổ làm Huấn đạo Long Xuyên, kế được t…
Bài liên quan

Nguyễn Văn Trình 阮文程

Nguyễn Văn Trình 阮文程 (1872-1949) tự Lục Quang 綠光, hiệu Thạch Thất 石室, Thốc Sơn 簇山, người làng Kỳ Trúc, xã Kiệt Thạch (nay là xã Thanh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh). Ông đỗ Tiến sĩ đời Thành Thái, từng làm đốc học, tế tửu, toản tu quốc sử quán. Sau Cách mạng tháng 8, ông được mời tham gia hoạt động Mặt trận ...

Nguyễn Hành 阮衡

Nguyễn Hành (1771-1824), tên thật là Nguyễn Đạm [1], tự là Tử Kính, hiệu Nam Thúc, biệt hiệu Ngọ Nam và Nhật Nam. Ông được người đương thời liệt vào An Nam ngũ tuyệt [2]. Ông sinh năm Tân Mão (1771), là con thứ của Nguyễn Điều, cháu nội Nguyễn Nghiễm, và gọi Nguyễn Du là chú ruột. Ông người làng ...

Nguyễn Thượng Hiền 阮尚賢

Nguyễn Thượng Hiền 阮尚賢 (1868-1926) hiệu là Mai Sơn, sinh tại làng Liên Bạc, tỉnh Hà Ðông, con quan hoàng giáp Nguyễn Thượng Phiên. Ông rất thông minh, thuở thiếu thời đã nổi tiếng thần đồng. Năm 1884, mới 16 tuổi, ông đi thi Hương lần đầu tiên và đổ cử nhân ở trường thi Thanh Hoá. Năm 1885, ông đỗ ...

Phan Bội Châu 潘佩珠

Phan Bội Châu 潘佩珠 sinh ngày 26-12-1867, là một nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp. Ông đã thành lập phong trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du. Ông tên thật là Phan Văn San, tự là Hài Thu, bút hiệu là Sào Nam, Thị Hán, Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử, v.v... Ông sinh ...

Lý Hạ 李賀

Thi quỷ Lý Hạ 李賀 (790-816) thuộc dòng dõi tôn thất nhà Đường, cực kỳ thông minh đĩnh ngộ, khi mới lên bảy đã biết làm thơ. Danh sĩ đương thời là Hàn Dũ nghe tiếng Hạ bèn cùng Hoàng Phủ Thực đến nhà. Hai người muốn thử tài nên bắt Hạ làm thơ. Hạ thản nhiên cầm bút viết ngay bài Cao hiên quá trình ...

Nguỵ Khắc Tuần 魏克循

Nguỵ Khắc Tuần 魏克循 (1799-1854) là danh sĩ đời Minh Mệnh (1820-1841), hiệu Thiện Thủ, quê xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Năm Bính Tuất 1826, ông đỗ tiến sĩ lúc 27 tuổi, làm Tuần phủ, rồi làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên nổi tiếng thanh liêm. Về sau ông làm đến Thượng thư bộ hộ, kiêm Tổng tài ...

Viên Thành thiền sư 員成禪師

Viên Thành thiền sư 員成禪師 (1879-1928) còn gọi là Viên Thành thượng nhân, thế danh là Công Tôn Hoài Trấp, sinh tại Thừa Thiên Huế. Ông xuất gia năm 1895 khi 16 tuổi tại chùa Ba La Mật và học với thiền sư Viên Giác cho đến khi thiền sư viên tịch vào năm 1900. Năm 1901, ông thọ giới trong giới đàn Phú ...

Nguyễn Văn Lý

Nguyễn Văn Lý 阮文里 (1765-1868) tự là Tuần Phủ 循甫 hiệu là Chí Đình 志亭 biệt hiệu là Đông Khê 東溪. Ông là nhà thơ, nhà văn đời Nguyễn. Tác phẩm có: Đông Khê thi tập, Chí Hiên thi thảo, Đông Khê văn tập. Tác phẩm dịch ra tiếng Việt: - Tuyển tập thơ văn Chí Đình Nguyễn Văn Lý (1795-1868), Nhiều người dịch, ...

Ông Ích Khiêm

Ông Ích Khiêm (1829-1884) quê Phong Lệ, Hoà Thọ, Hoà Vang, Quảng Nam, đỗ Cử Nhân, làm việc tại Nội các, tri huyện Kim Thành, Hải Dương, dẹp tan giặc cướp ở Cao Bằng, thăng chức Tham tri bộ binh. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thán phục nhưng ghen ghét thầm, tìm cách hại ông. Khi bị cách chức ...

Nguyễn Huy Hổ 阮輝琥

Nguyễn Huy Hổ 阮輝琥 (1783-1841) trước có tên là Nguyễn Huy Nhiệm (hay Nhậm), tự Cách Như, hiệu Liên Pha, quê huyện La Sơn (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), con Nguyễn Huy Tự. Ông lấy cháu gái Cảnh Hưng, nên khi nhà Lê mất, ông không đi thi, ở nhà làm thuốc. Nguyễn Huy Hổ lại giỏi thiên văn. Năm ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...