18/06/2018, 16:59

Lý triều tân biên: Cao Tông và Huệ Tông

Đặng Thanh Bình Dẫn nhập: Trong các bài trước tôi có đề cập tới các sự kiện liên quan đến Dự Tông, Thần Tông, Anh Tông. Đây là bài cuối trong nhóm các bài về Lý triều tân biên. Bài viết này đề cập đến các sự kiện liên quan tới Cao Tông và Huệ Tông. Chúng ta điểm qua những sự kiện ...

tran chien (1).jpg

Đặng Thanh Bình

Dẫn nhập: Trong các bài trước tôi có đề cập tới các sự kiện liên quan đến Dự Tông, Thần Tông, Anh Tông. Đây là bài cuối trong nhóm các bài về Lý triều tân biên. Bài viết này đề cập đến các sự kiện liên quan tới Cao Tông và Huệ Tông. Chúng ta điểm qua những sự kiện quan trọng dưới thời Cao Tông, để có sự hình dung liên tục. Năm 1175 Anh Tông mất, Tô Hiến Thành và Đỗ Thuỵ Châu đưa Long Trát lên ngôi thành công. Chiêu Linh thái hậu cùng con là Long Sưởng không chịu thế cục. Năm 1179 Tô Hiến Thành chết. Thái hậu dùng em trai là Đỗ An Thuận làm phụ chính. Năm 1186 Cao Tông lập Đàm thị làm An Toàn nguyên phi. Năm 1188 Đỗ An Thuận chết dùng Ngô Lý Tín làm phụ chính. Năm 1190 thái hậu Đỗ thị mất. Sau Ngô Lý Tín cũng chết dùng Đàm Dĩ Mông (em trai An Toàn hoàng hậu, con tướng quân Đàm Thì Phụng) là thái phó làm phụ chính.

(1) Toàn thư chép: “Quý Hợi [1203]Tháng 9, người ở Đại Hoàng giang lại làm phản. Trước đây người Đại Hoàng giang là Phí Lang và Bảo Lương tâu các tội mọt nước hại dân của Đàm Dĩ Mông, Dĩ Mông giận lấy roi đánh. Bọn Lang vì thế chứa chất oán giận, nhân khi thiên hạ sầu khổ muốn làm loạn, mới cùng nhau phản, Vua sai chi hậu Trần Lệnh Hinh làm Nguyên soái đem quân đi đánh. Lại sai Thượng thư Từ Anh Nhữ đem quân phủ Thanh Hóa đồng thời tiến đánh Phí Lang, giao chiến ở cửa sông Lộ Bố bị thua [Lệnh Hinh và Anh Nhữ] đều chết cả (…) Mậu Thìn [1208] Mùa xuân tháng giêng sách lập hoàng tử Sảm làm Hoàng thái tử ở đông cung (…) Kỷ Tị [1209] Bọn [Quách] Bốc phá cửa tiến vào. Vua thấy việc kíp quá, sai đem Bỉnh Di và Phụ vào chỗ bệ đá mát lấy xe ngự chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu ngự bọc xác của Phụ, theo cửa Việt Thành ra bến Đông Bộ Đầu rồi lại trở vào cung Vạn Diên, lập Hoàng tử Thầm làm vua. Bọn Đàm Dĩ Mông, Nguyễn Chính Lại đều chịu nguỵ chức của Thầm. Vua [lánh] đến miền Quy Hóa giang (…) Hoàng thái tử [Sảm] đến thôn Lưu Gia ở Hai Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lý nhờ nghề đánh cá nên giàu, người quanh vùng theo về, nhân có quân chúng, cùng nổi lên làm giặc. Thái tử đã lấy con gái của Lý, trao cho Lý tước minh tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Anh em họ Trần họp hương binh để dẹp loạn, rước vua về kinh, khôi phục chính thống. Trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo mức độ khác nhau (…) Canh Ngọ [1210] Mùa xuân tháng 3 vua sai Thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô Trung Từ đón Hoàng thái tử về Kinh sư, còn người con gái [Trần thị] thì về nhà cha mẹ. [Bấy giờ] Trần Lý đã bị bọn giặc khác giết, con thứ là Trần Tự Khánh thay đem quân chúng về Kinh, được phong là Thuận Lưu Bá (…) Mùa đông tháng 10 vua không khỏe, gọi Đỗ Kính Tu và nhận mệnh ký thác. Ngày 28 Nhâm Ngọ vua băng ở cung Thánh Thọ (…) Hoàng thái tử Sảm lên ngôi ở trước linh cữu bấy giờ mới 16 tuổi. Tôn mẹ là Đàm thị là Hoàng thái hậu, cùng nghe chính sự. Lại đem thuyền rồng đi đón Trần thị. Anh Trần thị là Trần Tự Khánh cho rằng bấy giờ đương lúc loạn lạc, chưa đưa đi ngay được”.

Việt sử lược chép: “Quý Hợi [1203] Tháng 9 người Đại Hoàng là Phí Lang làm phản (…) nhà vua dùng quan chi hậu phụng ngự Trần Hinh làm nguyên soái, lĩnh binh đánh Đại Hoàng. Vua cũng sai quan lại bộ thượng thư là Từ Anh Nhị đem quân ở Thanh Hoá đi đánh Đại Hoàng (…) Trần Hinh dữ Phí Lang ngộ, lưỡng quân giao chiến, Anh Nhị cứu chi, giai bại, vy Lang sở sát (…) Đinh Mão [1207] Mùa thu tháng 8 Đoàn Thượng và Đoàn Chủ làm phản. Nhà vua sai đại binh đi đánh. Quan thượng phẩm phụng ngự là Phạm Bỉnh Di xuất phát đạo Khả Liểu. Quan chi hậu hoả đầu là Trần Hinh xuất phát đạo Phù Đái (…) Kỷ Tị [1209] Nhà vua sai quan chi hậu phụng ngự là Trần Hinh đi triệu Phạm Du về kinh sư (…) Bỉnh Di về kinh (…) Vua thấy sự gấp, triệu Bỉnh Di vào Lương Thạch. Du và em là Kinh từ ngự đường đi ra, giết Di và con là Phụ. Quách Bốc nghe tin Di bị giết, cùng lính đột nhập vào Lương Thạch, dùng xe của vua chở Di, dùng chiếu của vua bọc Phụ, qua cửa Việt Thành xuống bến Triều Đông. Xong quay trở lại cung Vạn Diên, đón Vương tử Thầm, Vương tử Sảm về Hải Ấp. Nhâm Dần, nguyên tổ đại soái dẫn lính giỏi về kinh sư, đón Vương tử Sảm cùng mẹ là nguyên phi Đàm thị và 2 em gái về nhà Đoàn thị ở Hải Ấp, tại đây đưa Vương tử Thầm lên ngôi. Gia thần của Vương tử Sảm là Lưu Thiệu gặp nguyên tổ cùng lúc với người Dao Hào là Phạm Ngu, Ngu nói: Thầm tuy lớn nhưng là thứ, Sảm tuy nhỏ nhưng là đích, chỉ 2 ông là lo liệu được. Nguyên tổ cùng Phạm Ngu đón Sảm về Mang [?] Nhân, lập ngôi xưng Thắng vương, giáng Thầm làm vương. Sau Sảm trở về thôn Lưu Gia ở Hải Ấp, lấy con gái thứ của nguyên tổ. Dùng Đàm Dĩ Mông làm thái uý, Nguyễn Chính làm tam tri chính sự, nguyên tổ làm minh tự, Phạm Ngu làm thượng phẩm phụng ngự, Tô Trung Từ làm điện tiền chỉ huy sứ (…) Thuận Lưu nghe tin Bỉnh Di chết, tấn công kinh sư (…) bị người kinh thành truy sát, chém 300 thủ cấp”.

* Chúng ta dễ dàng nhận ra những thông tin sai biệt trong Toàn thư và Việt sử lược. Tuy Toàn thư chép quan chi hậu Trần Lệnh Hinh, còn Việt sử lược chép quan chi hậu Trần Hinh, nhưng đó chỉ là 1 người. Điều kỳ lạ rằng theo Toàn thư thì Trần Hinh bị Phí Lang giết vào năm 1203 thì làm sao có thể đem quân đánh Đoàn Thượng vào năm 1207 như Việt sử lược chép được ? Phải chăng có tới 2 nhân vật, một người là Trần Hinh, người kia là Trần Lệnh Hinh và cả 2 đều là quan chi hậu ? Mục năm 1207 trong Toàn thư không thấy chép đến việc Đoàn Thượng làm phản, sự kiện châu Hồng làm phản được Toàn thư chép tại mục năm 1212. Rất có thể trong tư duy của Ngô Sĩ Liên vì biết Trần Hinh chết rồi nên không thể đánh Đoàn Thượng được nên không chép. Nhưng nếu như thế thì Sĩ Liên phải chép chuyện Đoàn Thượng làm phản và chỉ bỏ chi tiết Trần Hinh tham gia đánh Đoàn Thượng ? Viết rằng có 2 nhân vật Trần Hinh và Trần Lệnh Hinh thì e rằng cũng không xuôi, bởi vì ngay trong cùng sách Việt sử lược tại 2 mục năm 1203 và 1207 đều chép tên nhân vật là Trần Hinh và đều là quan chi hậu. Cũng thật đáng nghi khi mà tác giả của sách Việt sử lược lại không đặt nghi vấn về việc nhân vật Trần Hình bị Phí Lang giết năm 1203 nay lại đem quân đi đánh Đoàn Thượng năm 1207. Trừ khi trong tư duy của tác giả sách Việt sử lược, quan chi hậu Trần Hinh không chết vào năm 1203 ? Rất có thể khi Phí Lang ở Đại Hoàng làm phản, quan chi hậu Trần Hinh đem binh đến đánh, Từ Anh Nhị cũng đem quân từ Thanh Hoá đến đánh Phí Lang. Ban đầu Trần Hinh và Phí Lang giao chiến, Hinh yếu thế hơn nên Anh Nhị đem quân cứu viện, nhưng cuối cùng vẫn thua, Anh Nhị bị giết còn Trần Hinh thì không. Nhưng khi chép Toàn thư, sử gia Ngô Sĩ Liên đã chép rằng “Trần Hinh và Từ Anh Nhị đều bị giết”. Sách Cương mục chép: “Phù Đái: Tên làng, bây giờ là xã Phù Tải thuộc huyện Vĩnh Lại [Ninh Giang và Vĩnh Bảo] tỉnh Hải Dương”. Quan chi hậu Trần Hinh xuất binh từ Phù Đái, vậy rất có thể Trần Hinh là người có quyền thế ở vùng Phù Đái. Nên tôi nghi ngờ mối quan hệ thân tộc giữa Trần Hinh và Trần Lý ?

Mộ chí của Phụng Thánh phu nhân chép: “Tháng 9 năm Chính Bình Long Ứng thứ 9 [1171] Phu nhân ốm nặng (…) trăm phương cứu chữa mà bệnh không giảm. Sáng sớm ngày Kỷ Mùi 18 tháng 10 năm ấy, phu nhân mất, thọ 63 tuổi (…) ban chiếu cho thái phó họ Trần, nội thị sảnh phụng nghị họ Lê trông coi việc tang”.

Việt sử lược chép: “Kỷ Hợi [1179] Thái uý Tô Hiến Thành từ trần (…) trước đó, khi nằm trên giường bệnh, chỉ có quan tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu cạnh. Quan giám nghị đại phu là Trần Trung Tá vì có nhiều việc quốc gia nên không có thời gian tới thăm. Khi thái hậu hỏi ai có thể thay ông ? Hiến Thành thưa chỉ có Trần Trung Tá mà thôi”.

* Không rõ vị thái phó họ Trần trong mộ chí có phải là giám nghị đại phu Trần Trung Tá hay không ? Nhưng chức thái phó cũng là 1 chức lớn, trong khi đó theo Việt sử lược thì Trần Trung Tá cũng là người bận rộn việc nước. Hơn nữa lại được Tô Hiến Thành tiến cử, thì xem ra Trần Trung Tá cũng không phải là người tầm thường. Toàn thư chép năm 1179 dùng Đỗ An Di làm phụ chính. Việt sử lược cũng chép là thái hậu không nghe lời Tô Hiến Thành, lại cho Đỗ An Thuận tham dự triều chính. Nhưng cũng chính Việt sử lược chép năm 1182 dùng Đỗ An Thuận làm thái sư phụ chính. Xem như thế Việt sử lược chép “lại dùng An Thuận tham dự triều chính” năm 1179 là ý nói sau này (năm 1182) cho An Thuận tham dự triều chính chứ không phải ngay sau cái chết của Hiến Thành năm 1179. Nếu vậy thì khả năng rất lớn là sau cái chết của Hiến Thành, Trần Trung Tá được cất nhắc làm phụ chính như ý nguyện của Hiến Thành, nhưng không bao lâu sau, người thế vai trò của Trung Tá là Đỗ An Thuận. Thế nhưng theo mộ chí thì vị quan họ Trần giữ chức thái phó chứ không phải gián nghị đại phu ? Việt sử lược chép năm 1159, vua hạ chiếu rằng chức quan nội minh tự và và hàng quan đại liêu ban gọi nhau là thái phó. Lại thêm theo Văn bia Lý Trần thì bia khắc đặt ở mộ của phu nhân họ Lê là bia khắc lại. Khi Đỗ Anh Vũ làm thái uý thì Tô Hiến Thành làm thái phó, rồi sau khi Anh Vũ mất thì Hiến Thành thay chức của Anh Vũ, nên khi Tô Hiến Thành làm thái uý, trước khi mất tiến cử người thay thế mình là Trần Trung Tá, thì ngờ rằng Trần Trung Tá cũng giữ chức thái phó. Rất có thể là sử chép nhầm hoặc điều gì chưa rõ chăng ?

* Năm 1209 Lý Sảm lấy con gái thứ của Trần Lý, nếu vậy Trần Lý ước sinh năm 1069. Nghĩa là khi Trần Trung Tá giữ chức gián nghị đại phu thì Trần Lý cũng đã 10 tuổi. Xa hơn Trần Trung Tá, vào năm 1128, sau khi lên ngôi Thần Tông đã tôn mẹ nuôi là Trần Anh làm hoàng thái hậu. Rất xa khoảng năm 968 vùng Bố Hải Khẩu có nhân vật Trần Lãm rất thế lực.

Toàn thư chép: “Nhâm Thìn [1232] Mùa hạ tháng 6, ban bố các chữ quốc húy và miếu húy. Vì Nguyên tổ tên húy là Lý, mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn, vả lại cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý (…) Đinh Mão [1267] Tháng 3, định ngọc diệp phái chính dòng họ vua của vương hầu, công chúa để phong ấm, gọi là “kim chi ngọc diệp”. Cháu 3 đời được phong tước hầu hay quận vương, cháu 4 đời được ban tước minh tự, cháu đời ban tước thượng phẩm. Tước phong theo ngũ phục đồ (…) Giáp Ngọ [1294] Mùa xuân tháng 2 ngày mồng 7 ban bố các chữ quốc huý: chữ huý của vua là Thuyên, của Nhân Tông là Khâm, của Thánh Tông là Hoảng, của Thái Tông là Cảnh, của Thái Tổ là Thừa, của Nguyên Tổ là Lý. Các chữ nội huý: Thánh Từ hoàng hậu là Phong, Thuận Từ hoàng hậu là Diệu, Hiển Từ hoàng hậu là Oanh, Nguyên Thánh hoàng hậu là Hâm (…) Đinh Dậu [1297] Mùa đông tháng 10 sai phủ tông chính khảo phả hệ của họ nhà vua (…) Mậu Tuất [1298] Mùa xuân ban 2 chữ huý là Nguỵ và Châu (…) Kỷ Hợi [1299] Mùa xuân tháng 4 ngày 12 xuống chiếu cấm chữ huý của Khâm Minh đại vương và Thiện Đạo quốc mẫu (Khâm Minh tên huý là Liễu, Thiện Đạo tên huý là Nguyệt, Thiện Đạo là phu nhân của Liễu) khi làm văn không được dùng. Các chữ Nguỵ, Thấp, Nam, Càn, Tô, Tuấn, Anh, Tảng khi làm văn phải viết bớt nét. Nhà Trần kiêng tên huý họ ngoại bắt đầu từ đây (…) Giáp Thìn [1304] Mùa thu tháng 7, xuống chiếu rằng các chữ huý về miếu hiệu, tên vua thì viết bớt nét. Tháng 8 cấm chữ huý miếu hiệu nhà Lý 8 chữ: Uẩn, Mã, Tôn, Đức, Hoán, Tộ, Cán, Sảm viết bớt nét (…) Xuống chiếu cho phủ Tông chính soạn ngọc phả của họ vua”.

* Những vị trí nếu có chép việc kỵ huý chữ Kinh (do tổ đời thứ 5 của nhà Trần có tên là Kinh) đều không thấy ghi chép. Như thế Toàn thư chép rằng tổ tiên nhà Trần người gốc Mân là không đáng tin cậy.

Toàn thư chép: “Tân Mùi [1211] Tháng 2 vua lại sai Phụng ngự là Phạm Bố đi đón Trần thị. Tự Khánh bèn sai bọn Phùng Tá Chu đưa Trần thị đi (…) Trần thị vào cung, lập làm nguyên phi; cho Trung Từ làm Thái uý phụ chính; phong Thuận Lưu bá Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu (…) Quý Dậu [1213] Mùa xuân tháng 2, Trần Tự Khánh đem quân xâm phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Vua lấy làm ngờ, xuống chiếu lấy quân các đạo đi bắt Tự Khánh, giáng nguyên phi làm ngự nữ (…) Giáp Tuất [1214] Mùa xuân, tháng giêng, Trần Tự Khánh đem quân đến [bến] Triều Đông, tự vào quân môn tạ tội, lại xin đón xa giá. Vua càng ngờ, bèn cùng với thái hậu và ngự nữ chạy đến núi Trĩ Sơn ở châu Lạng. Tự Khánh nghe tin xa giá long đong mà ngự nữ thì lâu nay bị thái hậu làm khổ, lại đem quân đến xin đón xa giá như trước. Vua cũng chưa tin, lại cùng với thái hậu và ngự nữ chạy sang huyện Binh Hợp”.

Việt sử lược chép: “Canh Ngọ [1210] Tô Trung Từ kín đáo nhận tước phong của Vương tử Sảm, sợ bị tội nên ép lính đánh người châu Khoái, nhân đó tiến về Hải Ấp đón Vương tử Sảm về kinh sư (…) Vua sai Đỗ Quảng sang nhà Tô Trung Từ đón Vương tử Sảm, các quan viên tạm thời của Vương tử Sảm đều trốn cả”.

* Năm 1207 người vùng Hồng là Đoàn Thượng làm phản, vua Lý Cao Tông sai ngoại thích Đàm Dĩ Mông, Bảo Trinh hầu, Phạm Bỉnh Di, Trần Hinh, Phạm Du đi đánh. Đoạn Thượng đút lót cho Phạm Du xin rút quân. Vì thế mà Đàm Dĩ Mông, Phạm Bỉnh Di, Phạm Du mẫu thuẫn. Năm 1209 Phạm Bỉnh Di xuất người ở Đằng Châu và Khoái Châu đánh Phạm Du, buộc Du chạy về vùng Hồng. Phạm Bỉnh Di lại đánh Đoàn Thượng vùng Hồng. Vua sai Trần Hinh triệu Phạm Du về kinh sư. Phạm Bỉnh Di trở về kinh sư, bị vua bắt giam, Phạm Du giết Bỉnh Di nên bộ tướng của Di là Quách Bốc tấn công kinh sư, vua chạy về Quy Hoá giang. Quách Bốc đưa Vương tử Thầm, Vương tử Sảm về Hải Ấp. Sau đó Trần Lý đến kinh sư đưa Vương tử Sảm cùng mẹ là Đàm thị và 2 người em gái về nhà Đoàn thị ở Hải Ấp. Tại đó, đưa Vương tử Thầm lên ngôi. Gia thần của Vương tử Sảm là Lưu Thiện gặp Trần Lý. Phạm Ngu có ý phế Thầm đưa Sảm lên ngôi. Trần Lý cùng Phạm Ngu đưa Vương tử Sảm về Lý Nhân lập làm vua, giáng Thầm làm vương. Sau đó Vương tử Sảm trở về Hải Ấp, trú ở thôn Lưu Gia, lập con gái thứ 2 của Trần Lý làm Nguyên phi. Dùng Đàm Dĩ Mông làm thái uý, Nguyễn Chính làm tham tri chính sự, Trần Lý làm minh tự, Phạm Ngu làm thượng phẩm phụng ngự, Tôn Trung Từ làm điện tiền chỉ huy sứ.

* Toàn thư chép vua Lý Cao Tông chạy về Quy Hoá giang, sách An Nam chí lược chép thêm “nương tựa nhà Hà Vạn”. Thế nhưng sách Việt sử lược thì không nói đến việc vua Cao Tông chạy loạn. Không những thế vua Cao Tông còn lệnh cho Phạm Du đến Hồng Lộ để huấn luyện quân sĩ chuẩn bị đánh Thuận Lưu. Sau đó giặc ở Thuận Lưu nghe tin Bỉnh Di bị giết, đã tấn công kinh sư, nhưng bị người ở kinh thành đuổi đi. Khi Quách Bốc dẫn quân tấn công kinh sư, tuy rằng Bốc không có chuẩn bị trước, nhưng buộc được vua phải chạy về Quy Hoá giang thì rõ là Bốc đang giánh ưu thế. Nhưng nếu vậy thì vì sao Bốc phải đưa Vương tử Thầm về Hải Ấp mà không lập Thầm làm vua ở kinh sư. Theo sách Việt sử lược chép thì ban đầu Quách Bốc chỉ đưa được Vương tử Thầm về Hải Ấp, sau đó Trần Lý tới kinh sư đưa Vương tử Sảm cùng mẹ là Đàm thị về Hải Ấp. Việc Trần Lý đến kinh sư đưa được cả Vương tử Sảm, Nguyên phi Đàm thị và 2 em gái khiến chúng ta nghĩ Trần Lý có nội gián. Sự kiện gia thần của Vương tử Thầm là Lưu Thiện đi theo Trần Lý, cho phép chúng ta suy đoán người nội gián này chính là Lưu Thiện [Vùng Hải Thái Nam họ Lưu được biết đến qua Khánh Đàm và em trai của ngài là Ba] Sau khi Quách Bốc rút khỏi kinh sư thì ai giữ kinh thành ? Vua Lý Cao Tông sai Phạm Du chuẩn bị quân thảo đánh giặc Thuận Lưu, rồi ngay sau đó giặc Thuận Lưu đánh vào kinh sư, vậy chúng ta có thể đoán rằng. Vua Lý Cao Tông vẫn kiểm soát kinh thành. Có thể khi Quách Bốc tấn công cung điện, vua bị bất ngờ nên lánh ra ngoài kinh sư, sau đó vua chuẩn bị quân để chiếm lại, Quách Bốc tuy buộc được vua rời khỏi kinh thành nhưng do thế cô nên buộc phải rút về Hải Ấp.

* Theo như Việt sử lược thì sau khi Quách Bốc đưa Vương tử Thầm về Hải Ấp, Trần Lý dẫn quân đến kinh sư đưa Vương tử Sảm về Hải Ấp. Rồi tại nhà Đoàn thị, lập Thầm làm vua. Rõ ràng là Thầm đang ở với Quách Bốc! Rồi Đoàn thị là ai ? Có phải là Đoàn Thượng không ? Theo văn bản của Việt sử lược thì việc đưa Thầm lên ngôi được chép sau khi Trần Lý đưa Sảm về Hải Ấp. Sự kiện Phạm Ngu bàn với Trần Lý phế Thầm dựng Sảm, nhưng 2 người lại phải đưa Sảm về Lý Nhân để lập, cho thấy Đoàn thị gia không phải là đất của Trần Lý và Phạm Ngu. Tôi đang nghĩ đến 1 kịch bản: Phía đông có nhiều thế lực, Phạm Bỉnh Di xung đột với Phạm Du, buộc Du dựa vào Đoàn Thượng. Trần Hinh theo lệnh vua triệu Du về kinh sư. Cái chết của Bỉnh Di khiến bộ tướng của ngài là Quách Bốc tấn công kinh thành, buộc vua Lý Cao Tông lánh ra ngoài kinh sư. Bốc tính đưa Thầm và Sảm về Hải Ấp nhưng cuối cùng chỉ đưa được Thầm. Trần Lý đem quân về kinh sư đưa Sảm và Đàm thị về Đoàn thị gia ở Hải Ấp. Tại Đoàn thị gia, Quách Bốc, Trần Lý, Phạm Ngu, Đoàn Thượng đưa Thầm lên ngôi. Vua Lý Cao Tông trở về kinh sư sai Phạm Du chuẩn bị quân đánh giặc Thuận Lưu. Xảy ra xung đột quyền lợi giữa Quách Bốc, Trần Lý, Phạm Ngu, Đoàn Thượng. Nên Phạm Ngu cùng Trần Lý đưa Sảm về Lý Nhân tôn làm vua, giáng Thầm làm vương.

* Sách An Nam chí lược chép “nhờ ngoại thích anh em họ Trần hợp hương binh dẹp loạn, rước vua về cung”. Toàn thư chép “anh em họ Trần hợp hương binh dẹp loạn, khôi phục chính thống, trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo mức độ khác nhau”. Thế nhưng sách Việt sử lược không thấy chép đến cái chết của Quách Bốc. Cũng không thấy nhắc đến công lao của anh em họ Trần dẹp loạn, khôi phục chính thống, rước vua về cung. Việt sử lược chép em vợ của Trần Lý là Tô Trung Từ đem quân về Hải Ấp đưa Vương tử Sảm về kinh sư. Vua sai Đỗ Quảng sang nhà Tô Trung Từ đón Vương tử Sảm. Năm 1210 vua Lý Cao Tông chết truyền ngôi cho Hạo Sảm, con trai của Trần Lý là quan minh tự ở Thuận Lưu là Trần Tự Khánh đem thuyền đóng ở Tế Giang, mới cậu là Tô Trung Từ cùng đến viếng Cao Tông, nhưng Tô Trung Từ ngờ vực nên Tự Khánh đành kéo quân về. Rõ ràng họ Trần ở Hải Ấp cũng chỉ là 1 thế lực vừa phải. Sách Việt sử lược có nhắc đến quan minh tự ở Thuận Lưu là Trần Tự Khánh, như thế phải chăng vua Lý Cao Tông sai Phạm Du đi huấn luyện quân sĩ để đánh Trần Lý ở Thuận Lưu chăng ? Do Việt sử lược chép thời nhà Trần nên tác giả muốn tránh nên không chép rõ giặc ở Thuận Lưu là nguyên tổ Trần Lý [Việt sử lược chép mục năm 1209 chỉ chép Thuận Lưu. Chẳng hạn như: thu bát nguyệt, thuận lưu, khoái dĩ bỉnh di chi tử, đại suất chu sư công kinh sư]

Bài ký bia chùa Báo Ân [Yên Lãng, Vĩnh Phú] viết: “Nguyễn công là cháu trưởng Đề công dưới triều Cao Tông hoàng đế, gặp thời thịnh trị đã làm cho cửa nhà rạng rỡ, tháp đất xuân tươi nhuần. Nguyễn công sâu sắc khéo giữ phép nhà, nên được giao xem xét thị vệ ở Long cung, cùng công chúa bắc cầu, xây tháp. Ngày tháng năm ấy sinh con trai, được Tín quận công Phạm Công Trác lập đàn cầu mát. Tiếp đó có chỉ thăng hàm Trung siêu quận quốc. Khi ấy, Nguyễn Bá Công là Công Lượng, Tể tướng Phạm Côn, người Ninh-ơn, trúng ất khoa, được vào chầu sân rồng, hàm tòng nhị phẩm, vâng lệnh hoàng đế và thái thượng hoàng cất nhắc ông làm võ tướng (…) Nguyễn công trước kia tới thăm chùa (…) Nguyễn công vừa tới chủ trì, chùa đã nổi danh (…) Vâng mệnh trên, người người gấp rút lo toan, khắp cả quan ty bốn bộ, mọi kẻ thừa hành răm rắp (…) Chuông to gác phương, chẳng bao lâu tu tạo đã xong (…) Trước hết chúc đương kim hoàng đế và thái thượng hoàng, vâng mệnh trời mà trị vì, nối Thuấn Nghiêu mà giữ nghiệp. Sồng muôn năm để trị dân đen, thọ nghìn tuổi để hộ trì Phật pháp. Thứ đến chúc tất cả các vị công hầu khanh tướng, ngọc vàng giàu có, lộc vị cao thăng, giúp thánh chúa ngày ngày đổi mới, trồng thiện nhân mãi mãi không ngừng. Tôi nay tài mỏng cánh ve, lạm dùng chữ nghĩa rông dài, thẹn không ý đẹp lời hay, gượng thuật đạo trời cao cả (…) Trấn ti viên ngoại lang Nguỵ Tự Hiền soạn. Trị Bình Long Ứng ngũ niên thập nhị nguyệt cốc nhật lập” [dẫn theo thơ văn Lý Trần]

Mục khảo đính trong Thơ văn Lý Trần viết: “Để khảo đính bài bia này, chúng tôi dựa vào bản dập mang ký hiệu 4102-4103 của thư viện khoa học xã hội (…) bia ghi rõ “dựng ngày tốt tháng chạp năm Trị Bình Long Ứng thứ năm” mười tháng trước khi Cao Tông mất. Như vậy bài văn chắc chắn phải viết xong trước thời điểm đó. Vậy mà trong bia lại có câu “cháu trưởng đề công đời Cao Tông”. Cao Tông là thuỵ hiệu, mà ai cũng biết thuỵ hiệu chỉ được đặt sau khi vua đã chết. Có nghĩa là có sự mâu thuẫn giữa ngày tháng đề trên bia và sự kiện trong bài văn (…) chúng tôi thấy có thể có 2 nguyên nhân dẫn đến sự khập khiễng trên: 1/ thường thường từ bài văn bia viết xong đến lúc tấm bia hoàn thành phải trải qua một thời gian, cho nên có thể bài văn bia do Nguỵ Tự Hiền viết xong năm Trị Bình Long Ứng thứ 5, nhưng lại khắc sau khi vua mất, nên người khắc tự tiện thay đại từ chỉ Cao Tông bằng thuỵ hiệu đã ban bố. 2/ Cũng có thể sự sửa đổi này xảy ra vào lần bia khắc lại, mà khắc lại khá muốn”.

Chú  thích  số (9) trong Thơ văn Lý Trần viết: “Hoàng đế và thái thượng hoàng: chế độ vua và thái thượng hoàng cùng coi chính sự là đặc điểm của nhà Trần. ở thời Lý sử sách chỉ ghi có hai trường hợp: Lý Thần Tông (1128-1137) sau khi lên ngôi tôn Sùng hiền hầu là thái thượng hoàng. Lý Huệ Tông (1211-1224) sau khi nhường ngôi cho Lý Chiêu Hoàng cũng xưng là thái thượng hoàng. Tuy nhiên, bài văn bia này được viết vào năm Trị Bình Long ứng thứ năm (1209) lúc tình hình chính sự rối ren. Theo Việt sử lược và Ðại Việt sử ký toàn thư, lúc đó có các cuộc chống đối của Quách Bốc, Phạm Du, Trần Tự Khánh làm cho triều đình ly tán. Lý Cao Tông chạy ra Quy Hóa, hai con trai chạy về mạn Lưu Gia. Một trong hai con trai đó là Lý Hạo Sảm được bọn Trần Lý tôn lên ngôi, xưng là Thắng Vương, có phong chức tước cho một số người và lập nguyên phi. Trước sự kiện đó, có lẽ nhiều người đã coi Lý Cao Tông là thái thượng hoàng chăng”.

* Trong phần khảo đính các tác giả của Thơ văn Lý Trần đưa ra 2 nguyên nhân dẫn đến việc xuất hiện thuỵ hiệu Cao Tông vào năm 1209. Nhưng cuối bia văn có ghi rất rõ rằng “Nguỵ Tự Hiền soạn” và “cốc nhật lập”. Như thế chắc chắn rằng ngày lành tháng chạp năm 1209 là ngày dựng bia văn. Theo sách sử thì thời điểm này Long Trát chưa băng như vậy thì chỉ còn khả năng thứ 2 là khi khắc lại người khắc đã thay đại từ chỉ Cao Tông bằng thuỵ hiệu. Hoặc sách sử chép sai, Cao Tông mất trước năm 1209. Thế nhưng văn bia cũng khắc rất rõ rằng “trước hết chúc đương kim hoàng thượng và thái thượng hoàng”. Như thế rõ là tại thời điểm Nguỵ Tự Hiền soạn bài văn, đã tồn tại chế độ hoàng thượng và thái thượng hoàng. Nhưng Nguỵ Tự Hiền soạn bài văn vào thời gian nào ?

* Việt sử lược và Toàn thư chép thống nhất thời điểm xảy ra sự biến Quách Bốc là vào tháng 7/1209, như thế việc tự lập Hạo Sảm lên ngôi phải diễn ra sau tháng 7/1209. Đến mùa xuân năm 1210, Hạo Sảm về lại kinh sư. Như thế bài văn trên bia phải do Nguỵ Tự Hiền soạn từ tháng 7/1209. Hoàng thượng và thái thượng hoàng được nhắc đến 2 lần trong bia văn. Lần đầu là khi Nguyễn Công Lượng và Phạm Côn trúng ất khoa, vâng mệnh hoàng thượng và thái thượng hoàng cất nhắc Nguyễn công làm võ tướng. Nếu như người khắc lại bia tự ý thay đại từ chỉ Cao Tông bằng thuỵ hiệu, thì tại vị trí thái thượng hoàng người khắc văn bia cũng nên làm tương tự mới phải ? Hơn nữa, dù có tự ý thay đổi hay không tự ý thay đổi thì đúng lý, tại vị trí hoàng thượng và thái thượng hoàng trước thì văn bia chỉ nên là hoàng thượng (hoặc thái thượng hoàng) mà thôi. Trừ khi chế độ hoàng thượng và thái thượng hoàng đã xuất hiện. Văn bia cũng chép rất rõ rằng “vâng mệnh hoàng thượng và thái thượng hoàng” như thế rõ rằng hoàng thượng và thái thượng hoàng cùng xem triều chính, chứ không phải như các tác giả của Thơ văn Lý Trần giải thích rằng: Hạo Sảm được tôn lên làm hoàng thượng, thì người trong thiên hạ mặc nhiên coi Long Trát là thái thượng hoàng. Tôi cho rằng Cao Tông đã chủ động nhường ngôi cho Hạo Sảm để lên làm thái thượng hoàng. Nhưng thời điểm nhường ngôi này diễn ra khi nào ?

Thiền uyển tập anh chép: “Hệ phái của thiền sư Thảo Đường (…) Thế hệ thứ 5: Thiền sư Hải Tịnh. Hoàng đế Lý Cao. Xướng nhi quản giáp Nguyễn Thức [3 vị đều thừa kế Trương Tam Tạng] Phụng Ngự Phạm Đẳng”.

Toàn thư chép: “Đinh Mão [1207] Mùa xuân tháng giêng, giặc cướp nổi như ong. Xuống chiếu chọn các đinh nam, người nào khoẻ mạnh, sung vào quân ngũ, sai quan các lộ thống quản để bắt [giặc cướp] (…) Mậu Thìn [1208] Mùa xuân, tháng giêng, sách lập hoàng tử Sảm làm Hoàng thái tử, ở đông cung (…) Cho Phạm Du coi việc quân ở Nghệ An, Du bèn làm phản, thu nạp bọn vong mệnh, chia đi cướp bóc các nơi, người châu Quốc Oai đến đóng ở Tây Kết”.

Việt sử lược chép: “Đinh Mão [1207] Mùa thu vua thấy giặc cướp nổi lên như ong mới hối hận về những việc đã qua, những lỗi lầm về trước. Vì thế vua mới xuống chiếu rằng: Trẫm đang lúc còn nhỏ mà phải gánh vác cái sự nghiệp lớn lao, ở chỗ kín tầng sâu xa mà không biết được những việc gian khổ của dân, lại tin dùng lời tâu của kẻ tiểu nhân để rước lấy sự oán trách của lớp người ở dưới. Dân chúng đều trách oán, Trẫm biết trông cậy vào ai ? Bây giờ, Trẫm xin cái hối, tự sửa chữa lỗi lầm để bắt đầu sống cũng dân chúng (…) Mậu Thìn [1208] Tháng chạp nhà vua dùng Phạm Du làm tri châu Nghệ An lãnh đạo việc quân. Phạm Du tấu: nay thiên hạ nhiễu loạn, giặc nổi lên như ong, kẻ cùng với tôi mà ghét thương theo cái lẽ tình riêng, nên đầu tôi còn khó giữ huống chi ơn đức của bệ hạ. Xin bệ hạ cho tôi được chọn lựa kẻ cường tráng, dũng mãnh để tự phòng, tránh mối lo về hiểm hoạ. Vua cho là phải. Vì thế Du chiêu nạp bọn vong mệnh, tụ họp lũ giặc cướp, công khai cướp bóc nên Quốc Oai cũng đốc xuất đồ đảng đến đóng ở Tây Kết”.

* Thật đáng tiếc là tôi không thể tra được về 2 nhân vật Nguyễn Công Lượng và Phạm Côn. Côn giữ chức tể tướng, đó là 1 chức lớn, những không thấy sách sử chép, hay là sử sách chép Côn dưới 1 cái tên khác chăng ? Tuy nhiên qua chi tiết “vâng mệnh hoàng thượng và thái thượng hoàng cất nhắc Nguyễn công làm võ tướng” thì chúng ta biết rằng Nguyễn Công Lượng và Phạm Côn cất nhắc Nguyễn công là vì vâng mệnh của hoàng thượng và thái thượng hoàng, hiểu nôm na là hoàng thượng và thái thượng hoàng ra lệnh tuyển võ tướng và giao cho Phạm Côn làm công việc tuyển chọn ấy. Toàn thư chép năm 1207 triều đình có đợt tuyển quân lớn, tuy nhiên Việt sử lược lại không chép, Toàn thư còn chép năm 1208 Phạm Du tuyển quân, nhưng Việt sử lược chép rằng việc Phạm Du tuyển quân đã được vua phê chuẩn, nghĩa là Phạm Du đại diện cho triều đình tuyển quân và Du nắm số quân tuyển thêm này. Hai đợt tuyển quân năm 1207 và 1208 khá gần nhau, nên xem ra 1 trong 2 sách đã chép nhầm năm chăng ? Vì Việt sử lược chép rõ việc tuyển quân xuất phát từ lời thỉnh cầu của Phạm Du, nên tôi cho rằng Việt sử lược chép có căn cứ hơn Toàn thư.

* Việt sử lược chép mùa thu năm 1207 vua thấy giặc cướp nổi lên rất nhiều nên đã tự trách, Toàn thư chép mùa xuân năm 1208 lập Hạo Sảm làm hoàng thái tử ? Hạo Sảm sinh năm 1194, vào thời điểm lập làm thái tử là 15 tuổi. Có khi nào năm 1208 vua nhường ngôi cho Hạo Sảm sau đó lên làm thái thượng hoàng nhưng bị Toàn thư chép nhầm thành vua lập làm thái tử ? Theo Thiền uyển tập anh thì rõ ràng vua Cao Tông có tu hành, là đệ tử đời thứ 5 của phái Thảo Đường. Có khi nào vào năm 1207 vua hối lỗi, sau đó trả hết lại đất đai, sản nghiệp cho người dân mà quan lại cướp chiếm, sau đó nhường ngôi cho Hạo Sảm, rồi thọ giới Trương Tam Tạng của hệ phái Thảo Đường không ? Theo trình tự của văn bia thì sau khi Nguyễn công được tuyển làm võ tướng một thời gian thì được giao chủ trì chùa Báo Ân, khi vừa tới Nguyễn công đã tiến hành tu tạo chùa, theo như mô tả về công việc, cùng như huy động về tài lực thì công việc tu tạo cũng chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, lại thêm Nguyễn công làm rất nhiều hiện vật như cột sơn hoa thắm, cung điện huy hoàng, tượng phật trang hoàng, chuông to gách phượng, khánh quý khám rồng. Xem những công việc đã làm thì đoán rằng việc soạn văn và dựng bia cũng được thực hiện liền sau đó. Nếu tháng 7/1209 xảy ra biến Quách Bốc, Cao Tông không kiểm soát được kinh sư, buộc phải chạy về Quy Hoá giang thì xem ra rất khó để thực hiện công việc tu tạo chùa Báo Ân như mô tả trong văn bia. Như thế rõ là Cao Tông vẫn kiểm soát được kinh sư sau khi Quách Bốc buộc phải rút khỏi Thăng Long, nhưng việc tu tạo chùa với khối lượng công việc rất nhiều thì e rằng nửa năm cũng không xong được. Lại thêm Nguyễn công phải được tuyển làm võ tướng trước khi tu tạo chùa Báo Ân và Cao Tông còn làm thái thượng hoàng trước cả khi có chiếu tuyển hoàng nam làm lính. Như thế thời điểm phù hợp theo tôi xác định là vào mùa đông năm 1207 hoặc mùa xuân năm 1208. Có lẽ chính Hạo Sảm được chọn làm người kế thừa và đã được tham gia chính trường nên khi Quách Bốc chỉ bắt được nhân vật phụ là Thầm, thì người xứ đông đã không hài lòng, nên Trần Lý phải mạo hiểm về kinh sư để bắt nhân vật chính là Sảm. Và tất nhiên là chúng ta không thể dùng khái niệm hoàng thượng và thái thượng hoàng thời nhà Trần để quy chiếu cho trường hợp này.

* Toàn thư và Việt sử lược chép rằng năm 1208 Phạm Du lộng quyền thì người Quốc Oai tới đóng tại Tây Kết, khiến giao thông bị chia cắt, vua sai Phạm Bỉnh Di lấy người ở Đằng Châu đánh giặc. Phạm Du về Cổ Miệt hợp binh với Đoàn Thượng ở châu Hồng đánh Phạm Bỉnh Di. Cuộc chiến giằng co đến năm 1209 Bỉnh Di đánh bại Du, buộc Du phải chạy về nương tựa Đoàn Thượng, Bỉnh Di tịch biên nhà cửa của Phạm Du đem đi đốt. Xem như thế thì ngờ rằng Phạm Du người Cổ Miệt, tuy nhiên Du sống tại Cổ Miệt từ năm 1208 đến năm 1209 thì cũng hẳn là xây dựng được cơ ngơi ở Cổ Miệt, như thế chi tiết tài sản nhà cửa của Phạm Du, không giúp chúng ta xác định chính xác Du người ở đâu. Tuy nhiên khi Du lộng quyền thì vì sao người Quốc Oai lại cả gan đến chiếm đóng tại Tây Kết, giặc Quốc Oai có mối quan hệ gì với Phạm Du không ? Khi Phạm Bỉnh Di vâng mệnh vua lấy người Đằng Châu đi đánh giặc, có lẽ là giặc Quốc Oai ở Tây Kết thì mắc mớ gì tới Du, mà Phạm Du phải đem quân từ Nghệ An về Hưng Yên để đánh Phạm Bỉnh Di ? Phải chăng giặc Quốc Oai ở Tây Kết cầu cứu Phạm Du nên Du đem quân đến cứu ? Điều thú vị là vị tể tướng Phạm Côn trong văn bia chùa Báo Ân là người Ninh Ơn thuộc lộ Quốc Oai ?

* Toàn thư chép năm 1194 mùa thu hoàng tử Sảm sinh, Việt sử lược chép năm 1193 mùa hạ đầu rồng bằng vàng ở điện Vĩnh Thọ phát sáng. Toàn thư chép năm 1202 mùa thu hoàng tử Thẩm sinh, Việt sử lược không chép năm 1202 có rồng vàng hiện, nhưng lại chép rất nhiều chi tiết rồng vàng xuất hiện ở gác Thánh Nhật, điện Thánh Thọ và điện Thiên Thuỵ vào năm 1204. Việt sử lược chép lời của Phạm Ngu mục năm 1209 rằng “Thầm tuy lớn nhưng là thứ, Sảm tuy nhỏ nhưng là cả”. Rõ rằng ở đây có sai lệch, theo như Toàn thư thì Sảm nhiều tuổi hơn Thầm. Nhưng cũng chính Việt sử lược chép năm 1226, Thái Thượng vương Lý Hạo Sảm mất thọ 33 tuổi, như thế Sảm phải sinh năm 1194, phù hợp với ghi chép của Toàn thư. Việt sử lược chép rằng “Huệ Tông tên huý là Hạo Sam, con thứ 3 của Cao Tông, mẹ là nguyên phi Đàm thị” trong khi Toàn thư chép “Huệ Tông tên huý là Sảm, con trưởng của Cao Tông”. Long Trát sinh năm 1174, đến khi sinh Hạo Sảm là 21 tuổi.

(2) Toàn thư chép: “Bính Tý [1216] Mùa xuân, sách phong ngự nữ làm Thuận Trinh phu nhân. Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ phu nhân mà nói là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Vua biết mới ngăn lại. Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nữa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Thái hậu lại sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải chết. Vua lại ngăn không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn đi đến chổ quân của Tự Khánh”.

Việt sử lược chép: “Nhâm Thân [1212] Tháng 2 Nguyễn Tự đi đánh người Cát Lợi là Ngô Thưởng Vu và Võ Cao, bị tên bắn trúng bèn trở về ở ngõ Tây Dương. Hơn một tuần [10 ngày] thì vì lầm lỡ ăn nằm với đàn bà nên khí độc lại phát lên mà chết (…) Kỷ Mão [1219] Lúc trước thái uý [Trần Tự Khánh] sai bọn Vương Lê đem binh về Nam Sách để cùng họp binh [với Phạm Dĩ] mà mưu đánh Nguyễn Nộn. Gặp lúc Phạm Dĩ đau nặng, Trần Tự Khánh sai thầy thuốc là Thạch Chương đến trị bệnh. Nhưng thầy thuốc chưa đến nơi thì Phạm Dĩ đã lìa trần”.

Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên trừng viết: “Ông tổ bên ngoại của Trừng là Phạm công, húy Bân, gia nghiệp nghề y, thờ Trần Anh Vương, chức Thái y lệnh, thường hết tiền của để tích thuốc tốt, trữ lúa gạo. Người nào bị cô khổ bệnh tật, cụ cho ở nhà mình, cấp cơm cháo cứu chữa, tuy máu mũ dầm dề, không chút ghê tởm. Cứ thế, kẻ đến chờ khỏe mạnh rồi đi, trên giường không lúc nào vắng người. Bỗng mấy năm liền đói kém, bệnh dịch lan tràn, bèn dựng nhà cửa, cho kẻ khốn cùng ở, cứu kẻ đói người bệnh hơn nghìn người, đương thời trọng vọng. Sau, có người gõ của mời gấp nói “Nhà có người vợ bỗngbị máu ra như xối, mặt mày nhợt nhạt”. Cụ nghe xong, đi ngay. Ra cửa, gặp người do vua sai tới nói “Trong cung, quí nhân lên cơn sốt rét, triệu ông vào xem”. Đáp “Bệnh ấy không vội. Nay có người tính mệnh chỉ còn chốc lát, tôi đi cứu đã, chốc nữa vào ngay”. Trung sứ giận nói “Lễ kẻ bề tôi, sao được như vậy ? Ông muốn cứu tính mệnh người, không cứu tính mệnh mình ư ?” Đáp “Tôi thật có tội, chẳng biết làm thế nào, nhưng không cứu người ta, chết trong chốc lát, trông mong vào đâu. Tính mệnh tiểu thần trông vào Chúa thượng, may ra khỏi chết, còn xin chịu tội”. Rồi đi cứu chữa, quả nhiên khỏe lại. Liền đó, vào cung. Vương quở trách. Cụ bỏ mũ tạ tội, giãi bày thực tâm. Vương mừng nói “Người thật là lương y, đã giỏi tay nghề lại có nhân tâm, để cứu con đỏ của ta, xứng đáng lòng ta mong mỏi”. Sau con cháu cụ là lương y, làm quan tứ ngũ phẩm có đến hai ba người, người đời ai cũng khen là không để mất nghiệp nhà”.

* Cuối thời Lý đầu thời Trần, nghề thuốc và việc sử dụng độc đã khá thịnh hành.

Toàn thư chép: “Bính Tý [1216] Vua có bệnh trúng phong, chữa thuốc không khỏi mà chưa có thái tử, trong cung chỉ sinh công chúa mà thôi (…) Đinh Sửu [1217] Mùa xuân tháng 3, vua dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không nghỉ, khi thôi đùa nghịch thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay kẻ khác (…) Mậu Dần [1218] Tháng 9 hoàng thứ nữ sinh, sau phong làm công chúa Chiêu Thánh (…) Canh Thìn [1220] Mùa xuân tháng 3, Nguyễn Nộn giữ hương Phù đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song vì vua có bệnh phong, không thể chế ngự được (…) Tân Tị [1221] Mùa xuân tháng giêng, tìm khắp thầy thuốc trong nước để chữa bệnh cho vua, nhưng không hiệu nghiệm gì. Vua thì ở tít trong cung, giặc cướp bừa bãi, nhân dân ở ngoài thành lưu ly cực khổ lắm (…) Quý Mùi [1223] Tháng 12 (…) Trần Tự Khánh chết, truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương; lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái uý, khi vào chầu không xưng tên (…) Giáp Thân [1224] Bệnh của vua ngày càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, uỷ nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình (…) Mùa đông tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội (…) Ất Dậu [1125] Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Cháu gọi Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục cục chi hậu, Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ. Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, chực hầu ở bên ngoài. Một hôm phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: “Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây ?”. Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: “Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh”. Chiêu Hoàng cười và nói: “Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó”. Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: “Bệ hạ đã có chồng rồi”. Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy [10] ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng: “Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói “Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay”. Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết”. Tháng 12, ngày mồng 1 Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế (…) Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ nói: “Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thựng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn cũng chưa dẹp yên. Nhà Lý suy yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi, mới uỷ thác cho nhị lang. Nhưng nhị lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chổ thiếu sót, vận nước mới mở, lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không biết chữ nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không gì bằng mời thánh phụ làm thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang”. Các quan đều cho là phải, mời thánh phụ Trần Thừa nhiếp chính (…) Bính Tuất [1266] Mùa xuân tháng giêng, sách phong Chiêu Hoàng làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh. Phong Trần Thủ Độ làm Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư. Phế thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư (…) Mùa thu tháng 8 ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo. Trước đó, Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo; bề ngoài giả vờ là để phụng sự, mhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ chặt. Có lần Thủ Độ qua trước cửa chùa, thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu”. Huệ Tông đứng dậy, phủi tay nói: “Điều ngươi nói, ta hiểu rồi”. Đến nay, sai người bày biện hương hoa đến bảo [Huệ Tông]: “Thượng phụ sai thần đến mời”. Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử”. Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”. Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa. Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa (người bấy giờ gọi là “cửa khoét”) đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu lạng làm ấp thang mộc (…) Đưa các cung nhân và con gái họ hàng nhà Lý Huệ Tông gả cho các tù trưởng người Man (…) Mùa đông tháng 10, tôn cha là Thừa làm Thượng hoàng, ở cung Phụ Thiên, phường Hạc Kiều phía bên tả. Hễ khi nước có việc lớn, thì ở trong đó xem xét, quyết định. Tôn mẹ là Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu”.

Bài Thử lật lại vụ án Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý của tác giả Hoàng Hải Vân viết: “Thứ nhất, từ hai câu đối đáp giữa Trần Thủ Độ và Lý Huệ Tông, đến Lý Huệ Tông tự tử, để nói Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông là không thỏa đáng. Thứ hai, lời khấn của Lý Huệ Tông trong phòng ngủ nếu có thì chỉ có Lý Huệ Tông biết và chắc chắn không đem ra kể lại, thế thì tại sao có người biết mà ghi ? Hơn nữa, Trần Thái Tông là con rể của mình, con cháu họ Trần sau này cũng chính là con cháu của Lý Huệ Tông, sao ông nỡ có lời khấn như vậy được. Cả hai câu đối đáp ở trên cũng có khả năng là sự đồn đại, không thể có xuất xứ từ một tài liệu tin cậy. Cần biết, do bối cảnh Đại Việt sử ký toàn thư được biên soạn vào thời Lê sau khi nhà Minh tiêu hủy gần hết sách vở tài liệu của các đời trước, vua Lê Thánh Tông đã cho phép sử quan tập hợp tất cả truyền thuyết, dã sử và các câu chuyện kể trong dân gian vào sử sách, nên có khả năng những đoạn như thế này được lấy từ những câu chuyện hư cấu”. 

Bài Bệnh điên của vua Lý Huệ Tông của ký giả CPL viết: “Chứng điên khùng của Lý Huệ Tông thực ra xuất phát từ sự phẫn uất, ức chế và bất lực của ông trước thời cuộc khi chứng kiến cơ nghiệp dòng họ dần dần bị thôn tính, mà không làm gì được. Vua điên mà tỉnh ? Minh chứng cho điều này là Lý Huệ Tông vẫn một mặt ra lệnh các quan ủng hộ họ Trần, mặt khác ngầm liên minh các sứ quân khác để chống họ Trần. Vậy, vua Huệ Tông hoàn toàn có toan tính “hai mặt” của một nhà chính trị, chứ không phải là người ngây ngô, đần độn như Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung. Rồi tới khi làm sư Huệ Quang, ông vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Theo sử sách năm 1226, Trần Thủ Độ sợ lòng dân nhớ vua cũ, bèn chuyển Huệ Quang vào chùa Chân Giáo. Một lần Thủ Độ thấy Huệ Tông nhổ cỏ ở vườn, Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu”. Vua Lý Huệ Tông đáp: “Điều ngươi nói, ta hiểu rồi”. Sau đó, vua tự tử ở sau vườn, trước khi chết còn khấn: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”. Chứng tỏ Lý Huệ Tông đã nhận thức được thâm ý độc ác của quyền thần. Nếu là người thực sự bị tâm thần thì sẽ không thể nào hiểu được và có lẽ sẽ dốc sức cắm cúi nhổ cho được cái rễ cỏ mà thôi. Như vậy, chứng điên khùng của vua Lý Huệ Tông phần do phẫn uất, phần do phe cánh họ Trần nói vu ra cho nặng thêm để người ngoài nghĩ rằng vua không còn đủ “năng lực hành vi” để trị quốc”.

* Chiêu Thánh sinh năm 1218, lên ngôi năm 1225. Xem lời đối đáp giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh thì những lời ấy rất khó là của cô bé 7 tuổi ? Những lời ấy chẳng qua được thêm vào! Khi Chiêu Thánh lên ngôi, Trần Thủ Độ sắp xếp thân thuộc của mình vào các chức tước quan trọng, người cháu 8 tuổi là Trần Cảnh được làm Chính thủ, sau đó Chiêu Hoàng thích và lấy Cảnh làm chồng, rồi truyền ngôi lại cho Trần Cảnh. Rõ là Trần Thủ Đỗ đã dựng kịch bản này! Năm 1194 Lý Hạo Sảm sinh, năm 1225 thì nhường ngôi cho con gái 7 tuổi là Chiêu Thánh. Nếu vua Lý Huệ Tông không bị buộc phải nhường ngôi thì hẳn là ngài vẫn tiếp tục cai trị, tuyển thêm cung nữ, tích cực đi chùa cầu đảo xin con trai. Tuy sách Việt sử lược và Toàn thư chép sai khác nhau nhiều về Lý Hạo Sảm nhưng cả 2 sách đều chép Huệ Tông không phải là người vô trách nhiệm, nhiều lần vua cảm thán vì không vực được cơ nghiệp của họ Lý. Vậy nên việc Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Hoàng vẫn do Thủ Độ dàn dựng. Vậy nếu Lý Huệ Tông không gặp vấn đề về sức khoẻ thì ngài có nhường ngôi cho Chiêu Hoàng không ? Họ Trần kiểm soát kinh sư lại muốn có ngôi hoàng đế nên Lý Huệ Tông buộc phải bị bệnh điên! Sau nhiều lần đánh Trần Tự Khánh nhưng không thắng, mùa xuân năm 1216 Lý Huệ Tông về với Trần Tự Khánh. Theo Toàn thư mùa đông năm 1216 Huệ Tông mắc bệnh phong, rồi bệnh ngày càng nặng, thế nhưng sách An Nam chí lược và Việt sử lược không chép vua mắc chứng bệnh điên! Việt sử lược chép năm 1217 vua ngự ở toà Lương Thạch để nghe bại quân Phạm Ân biện bạch, năm 1218 mùa hạ vua đi Cứu Liên xem bắt cá, thăm kinh đô cũ ăn trái vải [?] năm 1219 tháng 2 vua nghe việc kiện tụng ở Đô hộ phủ, tháng 6 vua đi bến Triều Đông thuộc kinh đô cũ để xem các đạo quân đánh Nguyễn Nộn, tháng 8 vua ngự ở cửa Trường Quảng xem lễ Thư xã, tướng của Nguyễn Nộn là Phí Thám đưa thái hậu và các con của vua là các công chúa ra hàng, năm 1221 mùa thu vua đi thăm nhà thái uý ở Mỹ Lộc, mùa đông vua và thái hậu ngự ở điện Thiên An xem con của thái uy dâng lễ vật, năm 1223 Trần Tự Khánh chết, nhà vua và thái hậu đến viếng tang rồi khóc rất thê thảm, năm 1225 vua ngự ở cửa Đại Hưng xem hội lễ Tàng Câu, vua hạ chiếu cho thục nữ đến xem. Theo An Nam chí lược Hạo Sảm không có con trai, lập Chiêu Thánh nối ngôi, lui ở chùa Chân Giáo học phật rồi mất.

* Rõ ràng thông tin Lý Huệ Tông mắc chứng bệnh điên sẽ rất có lợi cho họ Trần khi chuyển giao quyền lực, nhưng lại không thấy các sách sử thời Trần chép đến. Theo Toàn thư mùa đông năm 1216 vua bị bệnh phong, năm 1217 bệnh trầm trọng thêm, nhưng tháng 9/1218 hoàng thứ nữ sinh. Rồi trước khi chết, vua chỉ nghe Trần Thủ Độ nói đã hiểu ra thâm ý sâu xa. Thật khó giải thích cho những thông tin này ? Tôi ngờ rằng chuyện vua Lý Huệ Tông mắc bệnh điên và những đối thoại của Chiêu Hoàng với Trần Cảnh là do người đời sau thêm vào. An Nam chí lược chép “Chiêu Thánh lên ngôi được 1 năm, năm Canh Dần trao quốc chính cho chồng là Trần Nhật Cảnh, tất cả tôn thất nhà Lý và bình dân họ Lý đều khiến đổi ra họ Nguyễn để dứt lòng dân trông nhớ”. Sau khi buộc Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Hoàng, Trần Thủ Độ phế Chiêu Hoàng đưa Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Để dứt lòng trông nhớ của dân, Thủ Độ đã hạ sát Huệ Quang đại sư năm 1226, buộc người họ Lý trong thiên hạ đổi ra họ Nguyễn. Nhưng dựa vào đâu mà họ Trần bắt người họ Lý trong thiên hạ đổi sang họ Nguyễn ? Cách tốt nhất phải chăng là dùng phép kiêng kỵ huý ? Trần Thừa và Trần Cảnh thì đương thời đã rõ ? Nên câu hỏi là Nguyên tổ Trần Lý vốn có phải tên là Lý không ? Hay là để đạt được mục đích chính trị mà vua Trần bày đặt chuyện, nguyên tổ của họ Trần tên là Lý, do đó mà cấm người trong thiên hạ dùng chữ Lý, bằng cách đó buộc người họ Lý đổi sang họ Nguyễn ?

* Mục năm 1226 trong Toàn thư chép Trần Thủ Độ sai người bày biện hương hoa đến bảo Lý Huệ Tông “thượng phụ sai thần đến mời”. Lý Huệ Tông nói “ta tụng kinh song sẽ tử tự”. Nói rồi vào buồng khấn và thắt cổ tử tự ở vườn sau chùa. Thủ Độ lệnh các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam, đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu. Qua đối thoại giữa Trần Thủ Độ và Lý Hạo Sảm thì rõ là Hạo Sảm không bị mắc bệnh điên. Nhưng tôi ngờ rằng cuộc đối đáp giữa Thủ Độ và Huệ Quang cũng như lời khấn của đại sư do người đời sau thêm vào. Việc Thủ Độ muốn sát hại Huệ Quang thì rõ rồi. Nhưng Thủ Độ sẽ dùng cách nào ? Huệ Quang có thắt cổ tự vẫn ở vườn sau chùa không ? Chi tiết Thủ Độ sai người bày biện hương hoa và lệnh cho các quan đến than khóc thì rõ là Thủ Độ biết về cái chết của Huệ Quang. Nhưng vì sao Thủ Độ phải khoét tường thành phía nam để đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu ? Có thể dân chúng biết chuyện Lý Huệ T

0