10/01/2018, 19:25
Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập (02 - 9 - 1945)
Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập (02 - 9 - 1945) I. Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền 1. Khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến ...
Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập (02 - 9 - 1945)
I. Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền1. Khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến tháng 8 - 1945)
* Nhật đảo chính Pháp:
- Đầu năm 1945, Hồng quàn Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức. Một loạt nước Đông Âu được giải phóng.
- Ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, quân đồng minh giáng cho Nhật những đòn nặng nề.
- Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ phản công quân Nhật, mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gây gắt.
- Trước tình hình đó, quân Nhật ra tay trước. Vào lúc 20 giờ ngày 09 - 3 - 1945, Nhật đảo chính Pháp - Quân Pháp chống cự yếu ớt một vài nơi rồi mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyên bố cái gọi là “giúp dân tộc Đông Dương xây dựng nền độc lập”. Chúng dựng lên chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm “Quốc trưởng”.
* Chủ trương của Đảng:
- Đêm 09 - 3 - 1945, đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh), ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng những điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp - Nhật” được thay bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
- Hình thức đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang, du kích và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
- Hội nghị chủ trương phát động “cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khỏi nghĩa”.
* Cao trào kháng Nhật cứu nước chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa:
- Ở khu căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt châu, huyện. Tại những nơi này, chính quyền nhân dân được thành lập, các hội cứu quốc được củng cố và phát triển.
- Ở Bắc Kì, trước thực tế nạn đói đã diễn ra trầm trọng do chính sách cướp bóc của Pháp - Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”. Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của nông dân, nên tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.
- Đồng thời với phong trào này, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên mạnh mẽ. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh), Bần Yên Nhân (Hưng Yên)...
- Ở Quảng Ngãi, ngày 11 - 3 - 1945, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức đội du kích Ba Tơ.
- Ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh, nhất là ở Mĩ Tho và Hậu Giang.
2. Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa
- Từ ngày 15 đến ngày 20 - 4 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kì. Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự và chính trị; tích cực phát triển chiến tranh du kích; xây dựng căn cứ địa cách mạng chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Uỷ ban Quân sự cách mạng Bắc Kì được thành lập có nhiệm vụ chỉ huy các chiến khu miền Bắc và giúp đỡ cả nước về mặt quân sự.
- Ngày 16 - 4 - 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam và Uỷ ban Dân tộc giải phóng các cấp.
- Thực hiện quyết định của Đảng, ngày 15 - 5 - 1945, Việt Nam Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.
- Trong tháng 5 - 1945, đồng chí Hồ Chí Minh rời Pắc Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang). Người chọn Tân Trào làm trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước.
- Ngày 04 - 6 - 1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Tân Trào được chọn làm thủ đô khu giải phóng, ủy ban lâm thời giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
Công cuộc chuẩn bị được gấp rút hoàn thành. Toàn dân tộc đã sẵn sàng, đón chờ thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa.
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
a) Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố
- Ngày 09 - 8 - 1945, Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc.
- Ngày 14 - 8 - 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và nội các Nhật họp thông qua quyết định đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Trưa ngày 15 - 8 - 1945, Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh của Nhật.
- Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang. Điều kiện khách quan có lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
- Ngay từ ngày 13 - 8 - 1945, khi nhận được những thông tin về Nhật đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1” chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
- Từ ngày 14 đến ngày 15 - 8 - 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.
- Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17 - 8 - 1945, Đại hội quốc dân được triệu tập ở Tân Trào. Đại hội tán thành Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
b) Diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa
- Đến giữa tháng 8 - 1945, khí thế cách mạng sục sôi trong cả nước. Từ ngày 14 - 8, một số cấp bộ Đảng và tổ chức Việt Minh tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa do thông tin liên lạc khó khăn, nhưng đã căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương và vận dụng chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã phát động nhân dân khởi nghĩa ở nhiều xã, huyện thuộc các tỉnh châu thổ Sông Hồng, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Khánh Hoà...
- Chiều 16 - 8 - 1945, theo lệnh của ủy ban khởi nghĩa, một đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về thị xã Thái Nguyên.
- Ngày 18 - 8 - 1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành được chính quyền ở tỉnh lị.
* Ở Hà Nội:
- Chiều 17 - 8, quần chúng nội, ngoại thành tổ chức mít tinh ở Nhà hát Lớn, sau đó xếp thành đội ngũ, đi từ Nhà hát Lớn qua các trung tâm, hô vang các khẩu hiệu: “ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam độc lập”... Ủy ban khởi nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19 - 8 - 1945.
- Ngày 18 - 8, cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên các thành phố chính của Hà Nội
- Ngày 19 – 8, hàng chục vạn nhân dân nội ngoại thành xuống đường biểu dương lực lượng. Quần chúng cách mạng có sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, lần lượt chiếm các cơ quan đầu não của địch: Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu diện, Trại Bảo an binh... Tối 19 - 8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
* Ở Huế:
Ngày 20 - 8, ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập, ủy ban quyết định giành chính quyền vào ngày 23 - 8. Hàng chục vạn nhân dân nội, ngoại thành kéo về thị uy chiếm các công sở, chính quyền về tay nhân dân.
* Tại Sài Gòn:
- Xứ ủy Nam Kì quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh vào ngày 25 - 8.
- Sáng 25 - 8, các đơn vị “Xung phong công đoàn”, “Thanh niên tiền phong” công nhân, nông dân các tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Mĩ Tho kéo về thành phố. Quần chúng chiếm Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Nhà ga, Bưu điện, Nhà máy điện... và giành chính quyền.
- Khởi nghĩa thắng lợi ở ba thành phố lớn đã tác động quyết định đến các địa phương trong cả nước. Nhiều nơi từ rừng núi, nông thôn, từ thành thị nối tiếp nhau khởi nghĩa. Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là những địa phương giành chính quyền muộn nhất vào ngày 28-8.
Như vậy, trừ mấy thị xã do lực lượng của Tưởng Giới Thạch và tay sai chiếm đóng từ trước (Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên), cuộc tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ ngày 14 đến ngày 28 - 8 - 1945.
II. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập (02 - 9 - 1945)
- Ngày 25 - 8 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội.
- Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong những ngày lịch sử này, Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập, chuẩn bị cho mọi công việc Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân.
- Ngày 02 - 9 - 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội) trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố với quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập. “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập”.
- Bản Tuyên ngôn nêu rõ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà”.
- Cuối bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững nền tự do độc lập vừa giành được: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
- Ngày 02 - 9 - 1945 mãi mãi đi vào lịch sử Việt Nam là một trong những ngày hội lớn nhất, vẻ vang nhất của dân tộc.