Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Áo?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Hội nhập quốc tế của Áo khá toàn diện với : 57% số bài báo khoa học và 26% đơn xin cấp bằng sáng chế PCT của nước này (trên mức trung bình của OECD) là kết quả đạt được thông qua hợp tác quốc tế. Số lượng tương đối bằng sáng chế PCT được cấp cho các ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Hội nhập quốc tế của Áo khá toàn diện với: 57% số bài báo khoa học và 26% đơn xin cấp bằng sáng chế PCT của nước này (trên mức trung bình của OECD) là kết quả đạt được thông qua hợp tác quốc tế. Số lượng tương đối bằng sáng chế PCT được cấp cho các trường đại học và phòng thí nghiệp công gần với tỷ lệ trung bình của OECD. Đơn xin cấp bằng sáng chế PCT được đánh giá làm một ưu thế công nghệ trong các ngành công nghệ có liên quan đến môi trường (tuy đã sụt giảm phần nào trong những năm gần đây), ở mức trung bình trong các công nghệ mới nổi, nhưng kém trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Mặc dù chỉ có 19% người dân trưởng thành có trình độ đại học, nhưng tỷ lệ lực lượng lao động làm việc trong các ngành nghề KH&CN là tương đối cao, 32%. Áo chỉ có 8,7 nhà nghiên cứu trong tổng số 1000 lao động, tuy nhiên điểm số khoa học PISA ở lứa tuổi 15 gần tương đương với điểm số trung bình của OECD. Chỉ số cơ sở hạ tầng CNTT-TT thay đổi xung quanh mức trung bình. Áo có 25 thuê bao băng thông rộng cố định và 33 thuê bao không dây trên 100 dân. Số lượng các mạng riêng ở nước này là tương đối lớn. Chỉ số sẵn sàng chính phủ điện tử dưới mức trung bình, tương đương với Aixơlen và Tây Ban Nha.
Những thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: GERD của Áo đạt tỷ lệ 2,75% trong GDP năm 2011, cao hơn mức trung bình của OECD. GERD đã tăng trưởng 3,6%/ năm kể từ năm 2005 đến năm 2011, coi là tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong số các nước EU. Mục tiêu của Áo là tăng GERD lên mức 3,76% GDP vào năm 2020, và với một tỷ lệ lý tưởng là 70% được tài trợ bởi khu vực tư nhân. Trong năm 2011, tài trợ của khu vực công nghiệp trong GERD chiếm tỷ lệ tương đối cao 45%, trong khi chính phủ tài trợ 39%, GERD được tài trợ từ vốn nước ngoài (16% trong năm 2011) là một trong những tỷ lệ cao nhất trong số các nước OECD.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | 49,6 | +1,5 |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 5,16 | +5,7 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2009 | 2,75 | 3,6 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 0,97 | +7,0 |
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Trong tháng 3 năm 2011, Hội đồng Bộ trưởng Áo công bố một Chiến lược mới về Nghiên cứu, Công nghệ và Đổi mới: Con đường để trở thành người đi đầu trong đổi mới giai đoạn 2011-2020. Chiến lược tập trung cải thiện mối quan hệ giữa giáo dục và đổi mới, phát triển vốn đầu tư rủi ro và mạo hiểm, khuyến khích cạnh tranh, nâng cao quản lý đổi mới sáng tạo, đồng thời thực hiện thay đổi cơ cấu nhằm khuyến khích nghiên cứu, sáng tạo và các ngành công nghiệp thâm dụng tri thức.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Chính sách KHCNĐM tiếp tục được xây dựng và thực hiện bởi ba Bộ chủ chốt. Bộ Khoa học và Nghiên cứu Liên bang (BMWF) chịu trách nhiệm quản lý giáo dục đại học và nghiên cứu cơ bản, Bộ Giao thông vận tải, Đổi mới và Công nghệ Liên bang (BMVIT) chịu trách nhiệm quản lý ngân sách công trong nghiên cứu ứng dụng và Bộ Kinh tế, Gia đình và Thanh niên Liên bang (BMWFJ) chịu trách nhiệm quản lý Hiệp hội Nghiên cứu Christian Doppler (CDO) và các Trung tâm Ressel Josef. Bộ Tài chính Liên bang có trách nhiệm phân bổ kinh phí. Công tác đánh giá chính sách ở Áo rất tốt. Những đánh giá gần đây bao gồm Hội thảo khoa học, các dự án Mạng CIR-Ce, Trung tâm Chuyên môn Bassi Laura và các Trung tâm Ressel Josef.
Nền tàng khoa học: Áo có một nền tảng khoa học vững chắc, với mức chi tiêu NC&PT công tương đối cao, các trường đại học được xếp hạng cao và xuất bản phẩm quốc tế tốt.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Áo có khu vực định hướng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, gồm các DNVVN sáng tạo với hiệu suất mạnh mẽ trong các thị trường thích hợp, và Áo kết hợp cân bằng giữa hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cho NC&PT doanh nghiệp. Nhìn chung, hỗ trợ công có xu hướng thiên về khu vực doanh nghiệp. Năm 2011, phiếu đổi mới (innovation voucher) đã tăng gấp đôi lên mức 13.891 USD và các khấu trừ thuế đã được thay đổi thành thưởng ưu đãi thuế đơn giản hơn và tăng từ 8% lên 10%. Số lượng công ty thực hiện NC&PT dự kiến sẽ tăng lên 10% trong giai đoạn 2010-2013 và 25% vào năm 2020. Trong giai đoạn 2011-2014, Áo sẽ có thêm 1 tỷ USD để hỗ trợ hệ thống nghiên cứu, công nghệ và đổi mới thông qua thưởng ưu đãi thuế.
Tinh thần doanh nghiệp: Chiến lược nghiên cứu, công nghệ và đổi mổi nhằm mục đích tăng 3% số công ty tập trung nghiên cứu (đặc biệt là các DNVVN) trong trung hạn. Để giải quyết sự mất cân bằng giới, chương trình Huấn luyện BM WF Forte (Phụ nữ trong Nghiên cứu và Công nghệ) cung cấp các khóa học nhằm hỗ trợ phụ nữ về những đề xuất tài trợ và tài chính.
Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Phát triển một xã hội thông tin là một ưu tiên quốc gia. Kompetenzzentrum Internetgesellschaft là một trung tâm thẩm quyền về Internet, được thành lập vào năm 2010 và chịu trách nhiệm đưa ra những khuyến nghị cho việc phát triển cơ sở hạ tầng CNTT. Sử dụng Internet đã gia tăng: hơn 90% số người trong độ tuổi 16 đến 24 thường xuyên truy cập vào máy tính cá nhân và mạng Internet.
Các cụm ngành và chính sách khu vực: Một nền tảng quốc gia dành cho các cụm ngành đã được thành lập vào năm 2008, hiện nay có khoảng 50 sáng kiến cụm ngành, với sự tham gia của 3.500 doanh nghiệp, và 20 khu công nghệ. Hầu hết mỗi bang điều hành một sáng kiến cụm ngành hay vườn ươm nhằm liên kết các công ty và tổ chức nghiên cứu xung quanh các chủ đề ưu tiên. Hiện trên toàn quốc có hơn 100 cơ sở hạ tầng đổi mới.
Dòng tri thức và thương mại hóa: Do sự yếu kém về hợp tác NC&PT chiến lược trong những năm qua giữa khu vực nghiên cứu hàn lâm và khu vực công nghiệp, những chương trình nhằm mục đích cải thiện sự hợp tác đã được thiết lập như: các trung tâm công nghệ xuất sắc (COMET), mạng lưới đổi mới và hợp tác (COIN-Net), và các sáng kiến cùa Hội Cơ đốc giáo Doppler và các Trung tâm Ressel Josef. Các trung tâm chuyên môn Laura Bassi hỗ trợ một diễn đàn trong đó các nhà nghiên cứu nam và nữ có chuyên môn cao từ khu vực nghiên cứu và khu vực tư nhân làm việc cùng nhau. Những sáng kiến gần đây bao gồm những quy định và hướng dẫn mới về quyền sở hữu và cấp phép cho các kết quả nghiên cứu được tài trợ công cũng như hẫ trợ chuyển giao tài sản sở hữu trí tuệ cho các viện nghiên cứu công.
Nguồn nhân lực: Giáo dục là một phần quan trọng trong Chiến tược nghiên cứu, công nghệ và đổi mới. Việc hướng tới một nền giáo dục tết hơn là rất quan trọng cho việc cải thiện hệ thống đổi mới và nâng cao mức sống của người dân ở Áo. Chương trình Giáo dục Trung học cơ sở mới được coi là một sự cải cách giáo dục quan trọng và sáng kiến MINT ra đời nhằm mục đích nâng cao giáo dục toán học, tin học, khoa học tự nhiên và giáo dục công nghệ. Forschungskompetenzen für die Wirtschaft là một sáng kiến nhằm mục tiêu xây dựng những kỹ năng về NC&PT. Chiến lược Học tập suốt đời và Chiến lược Hướng dẫn suốt đời nhằm mục đích nâng cao vốn con người ở tất cả các cấp.
Toàn cầu hóa: Mục tiêu của chương trình vươn ra quốc tế của Phòng Thương mại Áo là nhằm cải thiện vấn đề quốc tế hóa và chuyển giao công nghệ; Một chương trình trị giá 54 triệu USD giúp các nhà xuất khẩu và đầu tư của Áo duy trì cạnh tranh.
Đổi mới xanh: Căn cứ vào Chiến lược Năng lượng năm 2010, Sáng kiến Nghiên cứu Năng lượng đã được xây dựng nhằm hỗ trợ phát triển các công nghệ, đặc biệt là cho sản xuất các nguồn năng lượng tái tạo và lưu trữ CO2. Sáng kiến Công nghệ sạch đã được triển khai nhằm cung cấp vốn rủi ro cho các doanh nghiệp đổi mới hoạt động trong lĩnh vực công nghệ năng lượng và môi trường. Ưu tiên cũng được dành cho phát triển hệ thống giao thông bền vững và hiệu quả hơn mặc dù các sáng kiến như E-Mobility.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật