24/05/2018, 13:03

Khoa học, công nghệ và đổi mới ở Liên Bang Nga?

Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Phần lớn hoạt động NC&PT của Nga vẫn được thực hiện trong các viện nghiên cứu nhà nước, chủ yếu là tách rời hay thiếu tính liên kết với các công ty công nghiệp và trường đại học. Tỷ lệ nghiên cứu công được tài trợ bởi ngành công nghiệp là trên mức ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Phần lớn hoạt động NC&PT của Nga vẫn được thực hiện trong các viện nghiên cứu nhà nước, chủ yếu là tách rời hay thiếu tính liên kết với các công ty công nghiệp và trường đại học. Tỷ lệ nghiên cứu công được tài trợ bởi ngành công nghiệp là trên mức trung bình của OECD, nhưng số lượng tương đối các bằng sáng chế của các trường đại học và phòng thí nghiệm là ngang tầm với các nước OECD, về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN: 31% bài báo khoa học được công bố với đồng tác giả quốc tế và 22% đơn xin cấp bằng sáng chế PCT được thực hiện với sự hợp tác quổc tể, đạt gần với mức trung bình của OECD, nhưng nó cũng phản ánh một phần hoạt động xin cấp bằng sáng chế được thực hiện bởi các công ty quốc tế hoạt động trong nước. Mặc dù các sáng kiến chính sách gần đây đã được đưa ra, nhưng do sự thiếu cạnh tranh nên vẫn không khuyến khích được nhiều đối với doanh nghiệp trong đổi mới. Giáo dục đại học ở người lớn đạt tỷ lệ 54%, mức cao nhất trong OECD, nhưng điểm khoa học PISA ở học sinh còn thấp. Hơn nữa, sự già hóa của các nhà nghiên cứu và kỹ sư làm tăng mối lo ngại về khả năng NC&PT trong tương lai. Nga có những ưu thế công nghệ tiên tiến gần với mức trung bình của OECD, với sự gia tăng rõ rệt trong công nghệ nano trong những năm gần đây. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin được cho là còn yếu với 11 thuê bao mạng băng rộng cố định trên 100 người. Chỉ số sằn sàng chính phủ điện tử là dưới mức trung bình của OECD. Thay đổi gần đây trong chi tiêu cho KHCNĐM: GERD của Nga là 1,16% GDP trong năm 2010, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của OECD. Khu vực doanh nghiệp chi đóng góp 26% của GERD trong năm 2010 và phần của chính phủ chiếm 70% (mức đóng góp này tăng ổn định, từ mức tăng 55% năm 2000). Chi cho NC&PT được tài trợ bởi Chính phủ đã tăng trường với tốc độ hàng năm là 7,9% trong giai đoạn 2005-2010.

Chỉ tiêu

Giá trị

Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010)

Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010

20,6

+3,3

Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009

1,75

+3,1

GERD, tính theo % GDP, năm 2008

1,16

+5,2

Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2008

0,82

+7,9

Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, một cách tiếp cận chiến lược mới cho hiện đại hóa của Nga đã được đề xuất với các ưu tiên dài hạn quan trọng và một khuôn khổ mới cho việc quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia. Đồng thời, một chiến lược rộng hơn về đổi mới sáng tạo cũng đang được xúc tiến, đó là Chiến lược Phát triển Đổi mới sáng tạo của Liên bang Nga đến năm 2020 do Bộ phát triển Kinh tế soạn thảo. Mục tiêu của nó là để phát triển hơn nữa nguồn nhân lực, kích thích hoạt động đổi mới trong khu vực doanh nghiệp, tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự đổi mới trong khu vực công, tăng hiệu quả và năng động của NC&PT và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, Chương trình nhà nước về phát triển KH&CN cho giai đoạn 2012-2020 đã được xây dựng nhầm mục tiêu tập trung nguồn lực vào việc tạo ra một khu vực NC&PT cạnh tranh và hiệu quả như một động lực chính cho hiện đại hóa công nghệ của nen kinh tế. Đặc biệt, nó mở rộng hỗ trợ công cho lĩnh vực công nghệ ưu tiên và cơ sở hạ tầng KH&CN liên ngành .

Chính sách quản trị KHCNĐM: Một số Bộ hỗ trợ NC&PT và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là Bộ Giáo dục và Khoa học, Bộ Phát triển Kinh tế. Đồng thời, đang có sự gia tăng tác động của ủy ban Đổi mới sáng tạo và Công nghệ cao của Chính phủ, cũng như các ủy ban của Tổng thống về Hiện đại hóa và Phát triển Công nghệ của Nền kinh tế Nga. Các Bộ và các ủy ban này có vai trò chính trong các quyết định chính sách, với quyền hạn phối hợp mạnh trong các vấn đề liên quan đến NC&PT và chính sách đổi mới.

Nền tảng khoa học: Nga có nền nghiên cứu khoa học công lập lớn và bị chi phối bởi các viện nghiên cứu theo ngành công nghiệp. Các viện nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nga cũng chiếm một phần đáng kể trong NC&PT khu vực công và tham gia vào hợp tác nghiên cứu cơ bản thực hiện trong các trường đại học ở nhiều nước OECD. Kết quả nghiên cứu, được đo bằng số lượng ẩn phẩm trong các tạp chí khoa học và các đơn xin cấp bằng sáng chế bộ ba, còn tương đối kém. Những nỗ lực để tăng cường nghiên cứu trong các trường đại học đang được thực hiện thông qua các chương trình nghiên cứu và học thuật, giảng dạy về tiềm năng của một nước Nga sáng tạo (triển khai trong giai đoạn 2009-2013) và chương trình hỗ trợ cho mục tiêu trường trung học hàng đầu liên bang (2010-2012). Phần lớn các đầu tư mới nhằm mục đích thiết lập một đội ngũ cán bộ ưu tú trong nghiên cứu ở trường đại học, tương tự như nhiều nước OECD.

NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Hoạt động NC&PT của doanh nghiệp chủ yếu tập trung ở các công ty lớn, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp dựa vào tài nguyên. Bên cạnh các lĩnh vực truyền thống xuất sắc (ví dụ như năng lượng hạt nhân, hàng không vũ trụ), các hoạt động NC&PT chủ yếu là hỗ trợ hiện đại hóa và đổi mới công nghệ để tăng năng suất. Ngoài một số công ty công nghệ cao (đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin), các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng theo đuổi chiến lược đổi mới phi NC&PT bao gồm cả việc áp dụng công nghệ. Việc thực thi chính sách hiện hành để thúc đẩy sự đôi mới đang được tăng cường. Một nhóm các biện pháp đầu tiên tìm cách giảm bớt các rào cản hành chính và cải thiện điều kiện khung (bao gồm cả thuế và các chế độ hải quan) để kích thích đổi mới sáng tạo. Nhóm các biện pháp thứ hai nhằm vào doanh nghiệp nhà nước lớn, đặc biệt là các sáng kiến thực thi đổi mới (2011-2012), buộc các doanh nghiệp phải xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển đổi mới sáng tạo.

Chính sách cụm và khu vực: Hoạt động NC&PT và đổi mới của Nga chủ yếu tập trung trong và xung quanh thủ đô Mát-xcơ-vạ và St. Petersburg. Chính phủ đang có kế hoạch đề thúc đẩy các cụm khu vực, bao gồm đặc khu kinh tế, khu công nghệ và các trung tâm công nghệ và đổi mới. Trong năm 2010, Chính phủ tuyên bố thành lập Thành phố Đổi mới sáng tạo Skolkovo (được vỉ như Silicon Valley cùa Hoa Kỳ), trong đó cung cấp ưu đãi cho việc thành lập chi nhánh nước ngoài.

Dòng tri thức và thương mại hóa: Những hạn chế trong hợp tác giữa khoa học, giáo dục và công nghiệp đang cản trở đổi mới sáng tạo ở Nga. Khuôn khổ pháp lý gần đây đã được sửa đổi để thúc đẩy sự hợp tác này. Một loạt các luật liên bang (từ 2009-2011) khuyến khích việc tạo ra các công ty khởi nguồn (spin-off) từ các trường đại học và các viện nghiên cứu, cung cấp đồng tài trợ cho nghiên cứu hợp tác giữa các công ty và trường đại học và cung cấp hỗ trợ trong việc phát triển cơ sở hạ tầng đổi mới cùa các trường đại học. Sáng kiến Sàn Công nghệ (2011) nhằm mục đich thúc đẩy trao đổi trí thức và hợp tác tiền cạnh tranh của các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và các văn phòng thiết kế cùng lĩnh vục chuyên đề được lựa chọn cạnh tranh.

Toàn cầu hóa: Hệ thống đổi mới của Nga còn nhiều việc phải làm để đạt được sự kết nối quốc tế mạnh hơn. Là nước không phải là thành viên EU, nhưng quy mô tham gia của Nga trong Chương trình khung của EU chi đứng thứ hai, sau Hoa Kỳ. Đồng thời, Chính phủ đã tiếp tục những nỗ lực để khuyến khích FDI vào Nga: trong năm 2011, Chính phủ đã gỡ bỏ các lĩnh vực chiến lược mà trước đây cần phải được phê duyệt trước khi cho nước ngoài vào đầu tư.

Những công nghệ mới nổi: Với thế mạnh truyền thống trong khoa học kỹ thuật và khoa học tự nhiên, Chính phủ Nga đã đặt sự quan tâm rất lớn đối với việc trở thành tiên phong thế giới trong công nghệ nano. Các khoản đầu tư liên bang cho công nghệ nano tăng. Vào năm 2007, Chính phủ thành lập Tổng công ty Công nghệ nano (Rusnano) với số tiền tài trợ lên tới 6 tỷ USD. Sự hỗ trợ đáng kể cho các công nghệ mới nổi cũng đến từ các tập đoàn của nhà nước: Tập đoàn Công nghệ Nga và Tập đoàn Công nghệ Năng lượng Nguyên tử.

Đổi mới xanh: Do cường độ sử dụng năng lượng cao của Nga, Chính phủ đặt mục tiêu thực hiện các biện pháp để giải quyết vấn đề hiệu quà năng lượng. Luật Tiết kiệm năng lượng và Tăng hiệu quả năng lượng liên bang (2009) là bước đầu tiên để thúc đẩy thực hiện các tiêu chuẩn của Cơ quan Năng lượng Quốc tế trong cả nước. Các sáng kiến khác tiếp tục hướng tới một nền kinh tế năng lượng hiệu quả được bao gồm trong Chiến lược năng lượng của Nga đến năm 2030. Đồng thời, đầu tư vào phát triển công nghệ môi trường có liên quan đã tăng lên thông qua các chương trình liên quan như Chương trình Công nghệ năng lượng hạt nhân thế hệ mới (2011-2015).

Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013

Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN

Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

0