24/05/2018, 13:04

Khoa học, công nghệ và đổi mới ở Hàn Quốc?

Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Hàn Quốc có mức chi tiêu NC&PT cao, lực lượng lao động trình độ cao, các điều kiện khung về đổi mới tốt và đang cải thiện, với các công ty lớn có hàm lượng tri thức cao và năng lực cạnh tranh quốc tế, cơ sở hạ tầng CNTT-TT mạnh. Gần ba phần tư ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Hàn Quốc có mức chi tiêu NC&PT cao, lực lượng lao động trình độ cao, các điều kiện khung về đổi mới tốt và đang cải thiện, với các công ty lớn có hàm lượng tri thức cao và năng lực cạnh tranh quốc tế, cơ sở hạ tầng CNTT-TT mạnh. Gần ba phần tư NC&PT của Hàn Quốc được thực hiện bởi các doanh nghiệp, với 88% thuộc lĩnh vực chế tạo năm 2010, đứng thứ hai sau Đức; đặc biệt 48% NC&PT được thực hiện trong lĩnh vực thiết bị thông tin liên lạc, phát thanh và truyền hình, cho đến nay đây là tỷ trọng lớn nhất trong số các nước OECD. BERD tâng 9,5% một năm về giá trị thực trong suốt một thập kỷ đến năm 2010, từ chỗ chiếm 1,70% GDP năm 2000 tăng lên 2,80% GDP năm 2010. Tỷ lệ nghiên cứu công được tài trợ bởi ngành công nghiệp và tỷ lệ số bằng sáng chế cấp cho các trường đại học và phòng thí nghiệm công tính theo bình quân GDP đều cao hơn mức trung bình của OECD. Mức độ hợp tác quốc tế của nước này rất thấp: chỉ có 26% số bài báo khoa học có đồng tác giả quốc tế, và chỉ có 4% đăng ký sáng chế PCT là kết quả của hợp tác quốc tế, một phần nguyên nhân là do cơ cấu các tập đoàn công nghiệp Hàn Quốc có xu hướng muốn giữ phát triển công nghệ trong nội bộ tập đoàn. Hàn Quốc có tỷ lệ dân số trưởng thành có trình độ đại học đạt 39% và điểm số PISA về khoa học ở lứa tuổi 15 đứng thứ 8. Hàn Quốc có ưu thế công nghệ hiện hữu mạnh và ngày càng tăng trong CNTT; nhưng yếu hơn đáng kể trong lĩnh vực công nghệ sinh học và công nghệ nano. Cơ sở hạ tầng CNTT mạnh: đạt tỷ lệ 36 thuê bao băng thông rộng trên 100 dân và 99 kết nối mạng không dây trên 100 dân. Chỉ số sằn sàng chính phủ điện tử của Hàn Quốc là cao nhất trong OECD.

Chỉ tiêu

Giá trị

Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010)

Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010

27,2

+4,4

Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009

2,57

+0,6

GERD, tính theo % GDP, năm 2010

3,74

+10,0

Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010

1,03

+13,2

Thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: GERD của Hàn Quốc đạt 3,74% GDP năm 2010 và đã tăng nhanh với tỷ lệ 9,3% một năm trong thập kỷ qua, và 10% một năm trong vòng 5 năm tính đến năm 2010. Trong năm 2010,72% GERD được tài trợ bởi ngành công nghiệp, 27% bởi chính phủ và chỉ có 0,2% từ nước ngoài.

Chiến luợc KHCNĐM tổng thể: Chương trình Xúc tiến 577 của Hàn Quốc nhằm mục tiêu tăng GERD lên 5% GDP vào năm 2012, phát triển bảy lĩnh vực công nghệ chiến lược, và trở thành “Cường quốc KH&CN” thứ bảy thế giới. Đề đạt được các mục tiêu này, chính phủ đã tăng chi tiêu công cho NC&PT và sử dụng các ưu đãi thuế khác nhau để khuyến khích đầu tư tư nhân vào NC&PT. Song song với xu hướng kéo dài trong suốt thập kỷ này, sự hỗ trợ của chính phủ đang tiếp tục chuyển đổi từ các tập đoàn lớn sang các DNVVN.

Chính sách quản trị KHCNĐM: Năm 2011, ủy ban Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NSTC) đã được tái cơ cấu thành một cơ quan điều phối với trách nhiệm to lớn về các chính sách KHCNĐM quốc gia và cấp kinh phí NC&PT công. Các Bộ tài trợ KHCNĐM chính là Bộ Giáo dục, KH&CN (MEST), Bộ Kinh tế Tri thức (MKE) và Bộ Chiến lược và Tài chính (MOSF). Bộ Giáo dục, KH&CN và Bộ Kinh tế Tri thức có các cơ quan quản lý phần lớn nguồn tài trợ của họ.

Nền tảng khoa học: Mặc dù Hàn Quốc có chi tiêu công tương đối cao cho NC&PT, nhưng kết quả công bố nghiên cứu và của các trường đại học xếp hạng tương đối thấp so với tiêu chuẩn quốc tế. Khối nghiên cứu trong trường đại học gần đây mới bắt đầu thực hiện một phần lớn hơn NC&PT công và vẫn chỉ đào tạo được một số lượng nhỏ tiến sĩ về KH&KT. Hệ thống nghiên cứu thiên về NC&PT theo chủ đề, phần lớn là nghiên cứu ứng dụng và định hướng phát triển với trọng tâm nhằm vào công nghệ công nghiệp. Tuy nhiên, gần đây đã có những dấu hiệu thay đổi: một phần nhờ vào Chương trình Xúc tiến 557, nghiên cứu cơ bản tăng lên chiếm 35% tổng số trong năm 2012 và hỗ trợ chính phủ chú trọng hơn đến nghiên cứu có “rủi ro cao - lợi nhuận cao”.

NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Cơ cấu BERD cho thấy NC&PT chủ yếu được thực hiện bởi các tập đoàn chế tạo lớn. Các công ty nhỏ và trẻ đã đóng góp khá ít cho đổi mới sáng tạo, mặc dù có những dấu hiệu cải thiện. Phần lớn hỗ trợ chính phủ cho khu vực doanh nghiệp được đổ vào DNVVN. Đầu tư NC&PT của Cục Quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ cho những công ty khởi sự tăng 33% trong năm 2012, Bộ Kinh tế trí thức đã công bố tỷ trọng ngân sách NC&PT của cơ quan này dành cho DNVVN sẽ chiếm đến 40% tổng số vào năm 2015.

Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Với sự hiện diện của các công ty CNTT toàn cầu của Hàn Quốc, lĩnh vực CNTT-TT của nước này đặc biệt mạnh. Hiệp hội Công nghệ viễn thông đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu chuẩn hóa CNTT-TT các xúc tiến CNTT-TT khác bao gồm một ngân hàng phần mềm về đổi mới trong hệ sinh thái phần mềm. Hàn Quốc đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng nghiên cứu và đã thành lập Dịch vụ thông tin KH&CN Quốc gia (NTIS), một cơ sở dữ liệu tập trung hóa về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng KH&CN, để giám sát tốt hơn nhữg phát triển này.

Chính sách cụm và khu vực: Khu vực Đô thị Seoul là trọng tâm của nhiều hoạt động KH&CN và đổi mới sáng tạo, điều này đã dẫn đến sự mất cân đối tăng trưởng khu vực. Để khắc phục, chính phủ đã áp dụng một số kế hoạch trong những năm qua. Kết quả là, Hàn Quốc có 105 trung tâm đổi mới sáng tạo vùng và 18 công viên công nghệ trong năm 2010, cũng như xúc tiến 7 chương trình đẩy mạnh năng lực cạnh tranh của các chương trình cụm công nghiệp.

Dòng tri thức và thương mại hóa: Một loạt các  kế hoạch nhằm cải thiện thương mại hóa và chuyển giao tri thức từ nghiên cứu công. Các kế hoạch này bao gồm hệ thống các Công ty cổ phần công nghệ thúc đẩy việc hình thành các doanh nghiệp liên quan giữa các trường đại học và viện nghiên cứu, cũng như Chương trình người dẫn đầu trong liên kết đại học- công nghiệp và Chương trình Trí tuệ Hàn Quốc, cả hai chương trình này đều tìm cách đẩy mạnh hợp tác công nghiệp – khoa học. Theo khía cạnh mạng tính toàn cầu hơn, Hội đồng quản lý tài sản trí tuệ giải quyết các tranh chấp bằng sánh chế ở nước ngoài, trong khi nhiều đạo luật liên quan đến sở hữu trí tuệ đã được sửa đổi vào năm 2011 để bảo vệ các công nghệ cốt lõi quốc gia.

Nguồn nhân lực: Hệ thống NC&PT của Hàn Quốc tồn tại một khoảng cách rộng  về giới tính. Để giảm lỗ hổng này, một số chương trình đã thực hiện nhằm hỗ trợ phụ nữ trong sự nghiệp KH&CN. NC&PT của Hàn Quốc cũng tương đối khép kín, ít người nước ngoài làm việc trong các phòng thí nghiệm của Hàn Quốc. Một số đề án đã được khởi xướng để quốc tế hóa hệ thống nghiên cứu của Hàn Quốc, bao gồm Chương trình Khu Đại học châu Á và Chương trình học bổng Hàn Quốc toàn cầu, cũng như những điều chỉnh các điều luật khác nhau nhằm khuyến khích tính tự do thuyên chuyển của nghiên cứu viên. Dự án Đại học đẳng cấp thế giới được đưa ra vào năm 2008 với kinh phí 143 triệu USD; mục đích để thu hút các nhà nghiên cứu hàng đẩu đến Hàn Quốc. Để khuyến khích tinh thần kinh doanh, Chương trình các trường Đại học đi đầu về tinh thần kinh doanh hỗ trợ giáo dục tinh thần doanh nghiệp bằng nguồn tài trợ trọn gói.

Đổi mới xanh: Hàn Quốc dành ưu tiên đổi mới sáng tạo xanh ở mức cao nhất. Ủy ban trực thuộc Tổng thống về tăng trưởng xanh đã được thành lập để giải quyết những thách thực khí hậu thông qua tăng trưởng xanh cacbon thấp và Viện tăng trưởng xanh toàn cầu đã được thành lập năm 2010 để thực hiện các nghiên cứu chính sách. Chương trình Xúc tiến 557 đã danh 2,4 tỷ USD để đầu tư vào công nghệ xanh.

Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013

Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN

Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

0