24/05/2018, 13:04

Khoa học, công nghệ và đổi mới ở Cộng hòa Slovakia?

Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Triển vọng kinh tế tốt, một lực lượng lao động có tay nghề trung bình, chi phí thấp và vị trí trung tâm đã thu hút lượng lớn FDI, đặc biệt trong các ngành công nghiệp ôtô và thiết bị điện tử. Tuy nhiên, sự tiến bộ hưởng tới một hệ thống KHCNĐM hiệu ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Triển vọng kinh tế tốt, một lực lượng lao động có tay nghề trung bình, chi phí thấp và vị trí trung tâm đã thu hút lượng lớn FDI, đặc biệt trong các ngành công nghiệp ôtô và thiết bị điện tử. Tuy nhiên, sự tiến bộ hưởng tới một hệ thống KHCNĐM hiệu quả hơn vẫn còn chậm. Các công ty ít tham gia vào nghiên cứu và những kết quả NC&PT của doanh nghiệp vẫn ở mức thấp nhất trong số các nước OECD. BERD đạt 0,27% GDP trong năm 2010, mức lương tự như những năm 2000, đã chạm đáy ở mức 0,18% trong năm 2007. BERD tập trung ở một số ngành công nghiệp công nghệ trung bình (máy móc và thiết bị vận tải, 42%, cao su và nhựa, 10%) hoặc trong các dịch vụ NC&PT (25%).

Chỉ tiêu

Giá trị

Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010)

Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010

33,6

+4,25

Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009

3,71

+9,1

GERD, tính theo % GDP, năm 2009

0,63

+9,5

Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010

0,32

+6,5

Liên kết giữa ngành công nghiệp và ngành khoa học yếu; ngành công nghiệp tài trợ chỉ 9% nghiên cứu công. Tuy nhiên, Cộng hòa Slovakia đã hội nhập mạnh mẽ vào các mạng lưới toàn cầu: 48% bài báo khoa học và 48% đơn xin cấp bằng sáng chế PCT là kết quả của hợp tác quốc tế. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông là dưới mức tối ưu, chỉ 13 thuê bao băng thông rộng cố định và 33 thuê bao không dây trên 100 dân và Chính phủ chưa áp dụng nhiều dịch vụ trực tuyến qua Internet. Nguồn nhân lực có kỹ năng chưa cao nhưng đang bắt đầu được cải thiện mạnh mẽ. Chỉ có 17% người lớn là có trình độ đại học. Mặc dù đầu tư cho NC&PT còn thấp, nhưng Cộng hòa Slovakia có tỷ lệ 7,1 các nhà nghiên cứu/1000 lao động, trên mức trung bình của EU27. Tỷ tệ tốt nghiệp tiến sĩ cùa nước này càng cao hơn mức trung bình của OECD, ngang bằng với Áo và Pháp.

Thay đổi gần đây trong chi tiêu cho KHCNĐM: Tổng chi quốc gia cho NC&PT (GERD) của Cộng Hòa Slovakia GERD là 800 triệu USD, tương đương 0,63% GDP trong năm 2010. Đầu tư cho NC&PT của nước này tăng nhanh, ở mức 9,5% mỗi năm trong giai đoạn 2005-2010. Tuy nhiên đầu tư của doanh nghiệp cho NC&PT thực tế lại giảm trong giai đoạn 2005-2009. Từ năm 2000, tỷ trọng đầu tư của khu vực công nghiệp trong tổng đầu tư cho NC&PT giảm từ 54% xuống 35%. Tăng trưởng của GERD đã được thúc đẩy bởi cam kết của Chính phủ (tài trợ của Chính phủ cho NC&PT đă tăng từ 43% đến 50% trong GERD) và dòng vốn lớn tài trợ của nước ngoài (từ 2% đến 15%) đặc biệt là từ các quỹ của EU. Gói kích thích kinh tế được Chính phủ thông qua để giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng năm 2008 đã chi thêm 50 triệu USD trong vòng bổn năm để hỗ trợ NC&PT ở nước này.

Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Cộng hòa Slovakia đã ban hành Kế hoạch dài hạn cho Chính sách KH&CN đến năm 2015 nhằm mục đích tăng cường sự tham gia cùa KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội và tăng GERD lên đến 1,8% GDP. Ngoài ra, nước này cũng có Chiến lược Phoenix (2011) nhấn mạnh các trường đại học như một công cụ để phát triển nguồn nhân lực. Nó thúc đẩy quá trình quổc tế của NC&PT, thúc đẩy hợp tác tốt hơn giữa khu vực đại học và ngành công nghiệp, tạo ra các Cơ sơ hạ tầng kỹ thuật chất lượng cao, phát triển nguồn nhân lực và phổ biến KH&CN.

Chính sách quản trị KHCNĐM: Chiến lược Phoenix xác định một số vấn đề quản trị cần phải được giải quyết: tăng tính minh bạch và hiệu quả của hệ thống KHCNĐM; cải cách cơ chế hỗ trợ của nhà nước cho tài trợ NC&PT hiệu quả; tăng hiệu quả trong quản lý các quỹ tài trợ của EU.

Nền tảng khoa học: Cộng hòa Slovakia có một nền khoa học khiêm tốn, với chi tiêu công cho NC&PT ở mức 0,36% GDP và số lượng ít các bài báo khoa học trong công bố quốc tế. Hệ thống nghiên cứu chủ yếu là các phòng thí nghiệm công và tập trung vào nghiên cứu cơ bản. Việc cải cách quản trị trường đại học và cải cách cơ bản của Viện Hàn lâm Khoa học Slovakia (SAV) đang được tiến hành.

NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Hệ thống NC&PT chủ yếu dựa vào các biện pháp cung cấp tài chính trực tiếp. Tài trợ theo cơ chế dự án cạnh tranh đã trở thành công cụ tài trợ công chính, giá trị ước tính 111 triệu USD năm 2012.

Tinh thần doanh nghiệp: Sáng kiến JEREMIE cung cấp cho doanh nghiệp nhỏ với vốn chủ sở hữu cho trong giai đoạn “hạt giống”, giai đoạn khởi nghiệp và phát triển, với mức đầu tư lên đến 1,8 triệu USD. Ngoài ra, Sáng kiến Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Slovakia (B1SMES) cũng nhằm mục đích cung cấp thông tin, phân tích và tài trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa Quốc gia (NADSME) đã tiến hành hai cuộc điều tra quan trọng để đo lường khả năng đổi mới sáng tạo và dự định của các DNVVN đổi mới sáng tạo. Bộ Kinh tế cũng có những chương trình khuyến khích đổi mới sáng tạo.

Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Cục Nghiên cứu và Phát triển của Slovakia đang hỗ trợ các nhóm nghiên cứu tại các trung tâm xuất sắc. Bộ Giáo dục, Khoa học, Nghiên cứu và Thể thao (MESRS) cũng đang tích cực tham gia vào hỗ trợ cơ sở hạ tầng NC&PT của nước này. Ngoài ra, Hệ thống Thông tin Quốc gia (NISPEZ) đang vận hành một hệ thống hỗ trợ thông tin điện tử cho NC&PT.

Dòng tri thức và thương mại hóa: Slovakia có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cho các khu KH&CN, ươm tạo doanh nghiệp, mặc dù mới phát triển ở giai đoạn đầu. Minerva 2.0 là một chiến lược để đất nước vào nhóm “hạng nhất”, bao gồm một số biện pháp để liên kết khu vực đại học và doanh nghiệp tại các khu công viên khoa học của trường đại học. Một Chương trình vốn đầu tư mạo hiểm đã hoạt động từ năm 2006. Minerva 2.0 và Chiến lược Phoenix có một loạt các công cụ và biện pháp khuyến khích tài chính để cải thiện sự hợp tác giữa ngành công nghiệp và trường đại học và hỗ trợ thành lập một trung tâm chuyển giao tri thức quốc gia. Bên cạnh đó các văn bản này cũng tạo một khuôn khổ tốt hom để bảo vệ sở hữu trí tuệ.

Toàn cầu hóa: Chiến lược Minerva 2.0 ghi nhận một mức độ thấp của sự tham gia trong nghiên cứu quốc tế và Chiến lược Phoenix đặt ưu tiên cho tính di chuyển linh hoạt nguồn nhân lực và thúc đẩy các chương trình nghiên cứu hợp tác với các tổ chức nước ngoài có uy tín. Chương trình học bổng quốc gia hỗ trợ di chuyển nhân lực và các cổng thông tin EURAXESS EC giới thiệu các cơ hội tiếp cận các mạng lưới toàn cầu.

Nguồn nhân lực: Một trong những ưu tiên chính của Chiến lược Phoenix là phổ biến khoa học. Để làm được điều này, Trung tâm Khoa học và Công nghệ Quốc gia đang điều hành một loạt các chiến dịch thông tin. Chiến lược nhắm mục tiêu vào giáo dục trung học hỗ trợ nghiên cứu tiến sĩ thông qua các khoản tài trợ, hỗ trợ đào tạo ngôn ngữ tiếng Anh và khuyến khích theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu. Slovakia cũng đưa ra Chiến lược Học tập suốt đời và các Kỹ năng mới cho các sáng kiến nghề nghiệp mới gắn với thị trường lao động.

Đổi mới xanh: Đổi mới sáng tạo xanh là một phần của Chiến lược Đổi mới sáng tạo và Chính sách đổi mới sáng tạo 2013 của Slovakia. Hỗ trợ cho đổi mới sáng tạo xanh chủ yếu được cung cấp thông qua các khoản tài trụ không hoàn lại từ các quỹ của EO đẽ lảng hiệu quá năng lượng trong sản xuất và tiêu dùng, nâng cấp chiếu sáng công cộng, thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo xanh trong các doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ. Chính phủ Slovakia đã phê duyệt Kế hoạch Hành động Quốc gia về Đấu thầu công xanh năm 2012 để cải thiện việc thực hiện mua sắm xanh trong chính quyền trung ương và địa phương thông qua đào tạo, cung cấp thông tin, phổ biển các mô hình đấu thầu và giám sát.

Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013

Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN

Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

0