Khoa học, công nghệ và đổi mới ở Ba Lan?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Trong năm 2010, BERD của nước này là 0,20% GDP, thấp nhất trong các nuớc OECD. Liên kết giữa các ngành công nghiệp và khoa học có truyền thống là yếu, đây là “một di sản” của kinh tế kế hoạch hóa của nhà nước. Một tỷ lệ nhỏ nghiên cứu công ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Trong năm 2010, BERD của nước này là 0,20% GDP, thấp nhất trong các nuớc OECD. Liên kết giữa các ngành công nghiệp và khoa học có truyền thống là yếu, đây là “một di sản” của kinh tế kế hoạch hóa của nhà nước. Một tỷ lệ nhỏ nghiên cứu công được tài trợ bởi ngành công nghiệp và rất ít bằng sáng chế được thực hiện bởi các trường đại học và các viện nghiên cứu công, về hội nhập của khoa học Ba Lan trong các mạng lưới quốc tế, khu vực công nghiệp làm tốt hơn khu vực hàn lâm. Ba Lan có ưu thế trong các công nghệ mới nổi như công nghệ sinh học và công nghệ nano, nhưng chưa thực hiện tốt trong công nghệ thông tin. Việc tăng cường nguồn nhân lực sẽ nâng cao năng lực đổi mới: chỉ 23% dân số trưởng thành có trình độ đại học và chỉ có 27% lao động làm việc trong ngành nghề KH&CN. Ba Lan có 4,1 nhà nghiên cứu trên 1.000 việc làm, là một tỷ lệ rất thấp. Tuy nhiên, điểm kiểm tra khoa học PISA của Ba Lan đổi với học sinh 15 tuổi là gần như ở mức trung bình của OECD. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phát triển tốt: Ba Lan có 14 thuê bao băng thông rộng cố định và 51 thuê bao không dây trên 100 dân. Tuy nhiên, chỉ số sẵn sàng chỉnh phủ điện tử là tương đối thấp.
Thay đổi gần đây trong chi tiêu cho KHCNĐM: Trong năm 2010, GERD của Ba Lan bằng 0,74% GDP. Tuy nhiên, GERD cỏ một mức tăng mạnh 10,3% một năm từ 2005 đến 2010. Mục tiêu của Ba Lan là GERD đạt 1,7% GDP vào năm 2020. Trong năm 2010, tỷ lệ tài trợ của ngành công nghiệp tương đổi thấp, chỉ chiếm 24% GERD, trong khi Chính phủ tài trợ 61%. Tỷ lệ tài trợ cùa nước ngoài cho GERD đã tăng gấp đôi, lên 12%.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | 20,7 | +2,9 |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 2,51 | +5,5 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2008 | 0,74 | +10,3 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2008 | 0,47 | +11,3 |
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Ba Lan gần đây đã được cập nhật để bao hàm các mục tiêu dài hạn. Đa Lan đã có những chiến lược dài hạn hơn: Làn sóng thứ Ba của hiện đại hóa và Chiến lược cho Tính đổi mới và Hiệu quả của nền kinh tế (2012-2020), bổ sung cho Chương trình Cải cách Quốc gia (NRP) và Nền kinh tể sáng tạo 2007-2013. Mục tiêu của Chiến lược gắn kết quốc gia (NCS) là để tạo điều kiện thuận lợi cho khả năng cạnh tranh. Chương trình Phát triển Khoa học mới và Chương trinh Phát triển Doanh nghiệp thúc đẩy một nền kinh tế dựa trên tri thức được xây dựng trên sức mạnh hiện tại, các công nghệ mới và chuyên môn hóa thông minh. Chương trình Nhìn trước quốc gia Ba Lan 2020, và Tầm nhìn 2030 phác thảo các kịch bản tiềm năng trong hai thập kỷ tiếp theo.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Từ năm 2010, thay đổi trong quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được đưa ra đề giảm sự phân tán và cải thiện sự phổi hợp. Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học (MSHE) chịu trách nhiệm thiết kế chính sách KH&CN và Bộ Kinh tế phụ trách chính sách đổi mới. Việc thực hiện chính sách KH&CN được chuyển cho Trung tâm NC&PT Quốc gia (NCBiR), được thành lập năm 2007, và Trung tâm Khoa học Quốc gia (NSC), được thành lập vào năm 2010. NCBiR đã được cải cách vào năm 2010 để cải thiện hợp tác công-tư và tăng cường chi tiêu cho NC&PT. Cơ quan Phát triển Doanh nghiệp Ba Lan (PARP), được giám sát bởi Bộ Kinh tế, là đồng chịu trách nhiệm về thực hiện chính sách đổi mới.
Nền tảng khoa học: Mặc dù có truyền thống mạnh mẽ trong khoa học cơ bản, nhumg khu vực nhà nước chi tiêu cho NC&PT của Ba Lan tỉnh theo GDP còn thấp, các trường đại học và các ấn phẩm quốc tế được xếp hạng dưới mức trung bình cùa OECD. Một phần của vấn đề bắt nguồn từ các nguồn tài trợ nghiên cứu phân tán, thiếu cạnh tranh và khuyến khích cho nghiên cứu xuất sắc. Gần đây, ngân sách khoa học đã tăng 29% và sáu luật mới đã được thông qua để phát triển một hệ thống nghiên cứu hiệu quả hơn. Đồng thời, Chính phủ đặt mục tiêu tàng tỷ lệ tài trợ nghiên cứu dựa trên cạnh tranh theo luật định.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Các công ty Ba Lan có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế thể hiện qua hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ. Tuy nhiên, cạnh tranh của họ chủ yểu về giá cả, và ít doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ đầu tư vào NC&PT và các hoạt động đổi mới. Điều này dẫn đến tỷ lệ thấp của BERD và bằng sáng chế so với GDP.
Tinh thần doanh nghiệp: Chính phủ đã đưa ra hàng loạt các biện pháp để làm cho doanh nghiệp khởi sự bớt tốn kém hom và nhanh hơn. Mặc dù còn nhỏ, nhưng thị trường đầu tư mạo hiểm Ba Lan lại lớn nhất ở Đông Âu. Quỹ Đầu tư vốn Quốc gia đã được thành lập năm 2007 để thúc đẩy tăng trưởng. Là một phần của Chương trình Sáng kiến Công nghệ, Ngân hàng Gospodarstwa Krajowego (BGK) cấp các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Chương trình NC&PT công nghệ mới đã nhận được 359 triệu USD tài trợ cho phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin. Lộ trình Ba Lan cho Cơ sở hạ tầng Nghiên cứu được tài trợ lên đến 2,1 tỷ USD. Cuối cùng, sáng kiến Liên kết Đổi mới đã được phân bổ 484 triệu USD để nâng cấp cơ sở hạ tầng nghiên cứu
Chính sách cụm và khu vực: Việc phát triển các cụm đang được hỗ trợ ngày càng nhiều. Chiến lược Tăng Tính đổi mới của nền kinh tế 2007- 2013 kết hợp các biện pháp để hỗ trợ và phát triển các cụm trong các chương trình hành động quốc gia và khu vực (OP). OP hoạt động trong tất cả 16 tỉnh.
Dòng tri thức và thương mại hóa: Để tạo điều kiện cho dòng chảy tri thức và thương mại hóa, Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học đã đưa ra Hướng dẫn Thương mại hóa NC&PT cho các học viên và Cơ quan Sáng chế hỗ trợ các trường đại học. Dự án IniTech, Chương trình Nghiên cứu ứng dụng và Nhà đổi mới sáng tạo, hỗ trợ tài chính cho chuyển giao tri thức giữa các nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp. Chương trình Phiếu Đổi mới nhằm vào mục tiêu hợp tác giừa các doanh nghiệp nhỏ và các tổ chức nghiên cứu. Các Trung tâm NC&PT Quốc gia cũng tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp và các sàn công nghệ thông qua quan hệ đối tác công-tư.
Nguồn nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực là một ưu tiên quốc gia, với vốn đầu tư từ Chương trình hành động nguồn nhân lực. Trong năm 2011, gần 1,4 tỷ USD đã được đưa vào ngân sách cho giáo dục đại học và khoa học. Năm 2011, Khung đánh giá năng lực và Trung tâm Lãnh đạo Quốc gia (KNOW) đã được thành lập. Mobility Plus là một chương trình khuyến khích cạnh tranh cho các nhà nghiên cứu. Chương trình “Top 500 nhà sáng tạo” tài trợ cho trao đổi nhà nghiên cứu trong các tổ chức nghiên cứu hàng đầu thế giới.
Những công nghệ mới nổi: Năm 2011, Trung tâm NC&PT Quốc gia đưa ra các chương trình nghiên cứu chiến lược cho các lĩnh vực công nghệ trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cục Phát triển Doanh nghiệp Ba Lan tài trợ cho việc triển khai và thực hiện các hệ thống hỗ trợ NC&PT doanh nghiệp trong những công nghệ quan trọng và đặc biệt là sự ra đời của một cơ sỡ dữ Iiệu chuyên dụng. Dự án InSight 2030 đã xác định 27 công nghệ chủ chốt chiến lược để dẫn đầu thi trường trong tương lai.
Đổi mới xanh: Ba Lan đã chấp nhận tăng trưởng xanh trong Chương trình Cải cách Quốc gia của mình. Chương trình Quốc gia về Phát triển Nền kinh tế Phát thải thấp đề cập những trọng tâm cho mục tiêu tăng trưởng xanh. Để giảm thiểu tác động môi trưòng của các hoạt động của Chính phủ, Văn phòng Đấu thầu công có nhiệm vụ xây dựng quy trình đấu thầu. Dự án GreenEvo hẫ trợ việc giới thiệu các công nghệ xanh của Ba Lan trên thị trường nước ngoài.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật