Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Thụy Điển?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Chi tiêu doanh nghiệp cho NC&PT vẫn ở mức cao, dù đã giảm nhẹ trong những năm gần đây, đạt 2,34% GDP. Tỷ lệ nghiên cứu công được tài trợ từ khu vực công nghiệp gần bằng mức trung bình của OECD. Đăng ký sáng chế của cảc trường đại học và viện ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Chi tiêu doanh nghiệp cho NC&PT vẫn ở mức cao, dù đã giảm nhẹ trong những năm gần đây, đạt 2,34% GDP. Tỷ lệ nghiên cứu công được tài trợ từ khu vực công nghiệp gần bằng mức trung bình của OECD. Đăng ký sáng chế của cảc trường đại học và viện nghiên cứu công chiếm tỷ lệ thấp là do chính sách “đặc quyền của giáo sư’' cho phép các nhà nghiên cứu đứng tên đăng ký sáng chế (thay vì các cơ sở nghiên cứu) cho các phát minh của họ. Các chỉ số hợp tác quốc tế đưa ra một bức tranh hỗn hợp: số bài báo khoa học đồng tác giả quốc tế có tỷ lệ cao tới 55%, trong khi tỷ lệ đăng ký sáng chế PCT có hợp tác quốc tế chỉ đạt dưới mức trung bình 19% cùa OECD. Điều này một phần phản ánh cấu trúc công nghiệp của các công ty lớn ở Thụy Điển, có khả năng duy trì phát triển công nghệ trong nội bộ công ty, về các chỉ số nhân lực, Thụy Điển đạt tỷ lệ người có trình độ bậc đại học là 34% và điểm PISA ở mức trung bình về môn khoa học cho lứa tuổi 15. Quốc gia này có ưu thế công nghệ lớn trong ngành CNTT-TT, nhưng lại rất yếu về công nghệ sinh học và công nghệ nano. Hạ tầng CNTT-TT vững chắc với các chỉ số lần lượt 32 và 94 thuê bao các mạng băng thông rộng và mạng không dây trên 100 dân. Chỉ số sẵn sàng cho chính phủ điện tử của Thụy Điển cao hơn mức trung bình của OECD.
Những thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: Chi tiêu NC&PT của Thụy Điển tăng lên khoảng 12,5 tỷ USD năm 2010, tỷ lệ tổng chi NC&PT trên GĐP đạt 3,4%. Năm 2009, khu vực công nghiệp cấp 59% tổng chi NC&PT, trong khi Chính phủ cấp 27% và 10% là từ nguồn nước ngoài. Kinh phí từ nước ngoài đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua vì hệ thống NC&PT của nước này được quốc tế hóa ngày càng cao.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | 49,9 | +0,4 |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 8,27 | +4,7 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 3,40 | +0,6 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 1,01 | +3,6 |
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Dự luật nghiên cứu và đổi mới đặt ra chương trình khung và kinh phí giai đoạn 2009-2012. Dự luật đã tăng đáng kể kinh phí cùa Chính phủ cho NC&PT, đồng thời đưa ra cách tiếp cận chọn lọc hơn dựa vào chất lượng. Dự luật xác định 24 lĩnh vực chiến lược (với những phân bố ngân sách cụ thể) theo bốn chủ đề. Bộ Giáo dục và Nghiên cứu hiện đang xây dựng kế hoạch cho Dự luật Nghiên cứu và Đổi mới tiếp theo từ 2013-2016. Đồng thời, Bộ Doanh nghiệp, Năng lượng và Truyền thông đang soạn thảo Chiến lược Đổi mới bao trùm toàn bộ hệ thống đổi mới.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Bộ Giáo dục và Nghiên cứu chịu trách nhiệm về nghiên cứu và một số chính sách đổi mới, trong khi Bộ Doanh nghiệp, Năng lượng và Truyền thông phụ trách chính sách đổi mới chủ đạo. Các bộ ở Thụy Điển có qui mô nhỏ và đưa ra các định hướng chính sách rộng lớn. Chúng dựa vào một loạt cơ quan để xây dựng và thực hiện các giải pháp chính sách, trong đó có Hội đồng Nghiên cứu Thụy Điển và Cục Hệ thống đổi mới của chính phủ Thụy Điển (VINNOVA).
Nền tảng khoa học: Tài trợ công cho NC&PT ở Thụy Điển rất lớn, với đa số dành cho các trường đại học, trong đó có một số trường có vị trí cao trong xếp hạng toàn cầu. Mức chi NC&PT ở khu vực đại học bằng 0,9% GDP năm 2010, đạt mức cao nhất trong OECD. Phần lớn tài trợ này được cấp cho nghiên cứu cơ bản. Một dự luật về quyền tự chủ cao hơn cho các cơ sở giáo dục đại học có hiệu lực năm 2011, trao cho họ quyền tự do lớn hơn để tái tổ chức và các đề xuất về trách nhiệm giải trình lớn hơn thông qua đánh giá nghiên cứu. So với các cơ sở giáo dục đại học, khu vực viện nghiên cứu công tương đối nhỏ và tập trung chủ yếu vào đáp ứng nhu cầu NC&PT cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Đầu tư cho NC&PT của ngành công nghiệp tập trung vào các công ty lớn. Thụy Điển là một trong số ít các nước OECD, gồm Đức và Phần Lan, không áp dụng kế hoạch khấu trừ thuế NC&PT. Trước đây, mua sắm công đóng vai trò quan trọng trong phát triển một số công ty đổi mới lớn nhất Thụy Điển nhưng các quy định hỗ trợ của nhà nước hiện nay lại ngăn cấm các phương thức trước đây. Đến nay, các sáng kiến thúc đẩy mua sắm định hướng đổi mới hình thành công tác chuẩn bị trên quy mô lớn. Ví dụ, Điều tra mua sắm đổi mới 2011 đề xuất việc đưa vào một luật mới về mua sắm tiền thương mại, tạo điều kiện cho mua sắm cạnh tranh nhiều giai đoạn và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về mua sắm tiền thương mại.
Tinh thần doanh nghiệp: Mặc dù giá trị của đầu tư vốn mạo hiểm theo tỷ lệ trên GDP ở mức cao nhất khu vực OECD, nhưng nguồn vốn thiên sứ kinh doanh và hoạt động đầu tư mạo hiểm giai đoạn đầu vẫn nhỏ bé và các phản ứng chính sách bị phân mảng rải rác. Để giải quyết tình trạng này, việc tái cơ cấu cơ quan Innovationsbron (cấp quỹ khởi nghiệp, vốn vay và cồ phần mềm, cũng như vườn ươm) và ALMI (cung cấp tư vấn, các dịch vụ phát triển doanh nghiệp và tài chính bổ sung) đã được bắt đầu năm 2011, để hình thành một cơ cấu duy nhất tập trung rõ hơn vào tài trợ vốn giai đoạn đầu.
Hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Việc chuẩn bị xây dựng cơ sở European spallation Source (ESS) châu Âu hiện đang được tiến hành ở Lund. Cơ sở Max IV về nguồn sáng bức xạ Synchrotron thế hệ mới cung đang được xây dựng tại Lund. Trung tâm Tài nguyên quốc gia về Khoa học sự sống phân tử và y học – Phòng thí nghiệm Khoa học sự sống được khánh thành năm 2010 tại Stockholm và Uppsala. Chương trình “Công nghệ thông tin và truyền thông cho mọi người – chương trình nghị sự cố hóa của Thụy Điển” được công bố năm 2011. Chương trình đặt ra mục tiêu chính sách CNTT-TT để Thụy Điển trở thành nền kinh tế dẫn đầu thế giới trong việc khai thác các cơ hội số hóa.
Các chính sách cụm và vùng: Chính sách đổi mới vùng của Thụy Điển không đồng đều với những năng lực và chương trình mạnh mẽ tại các vùng miền Nam và miền Tây, nhưng các sáng kiến này lại yếu ở những nơi khác. Một số tổ chức quốc gia tích cực thúc đẩy đổi mới ở các vùng, nhất là Cục Phát triển kinh yế và Vùng là Quỹ KK. Công ty vốn mạo hiểm Vùng, có tên gọi là Inlandsinnovation AB, được thành lập năm 2011 để tạo điều kiện cho phát triển và đổi mới các doanh nghiệp ở các vùng Tây Bắc đất nước. Đồng thời, ngành công nghiệp ô tô, vốn bị ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế, đã được lựa chọn để hưởng lợi từ một công ty vốn mạo hiểm mới tên là Fouriertransform AB. Kinh phí quỹ là 335 triệu USD dùng để hỗ trợ cụm công nghiệp ô tô.
Dòng tri thức và thương mại hóa: “Đặc quyền của giáo sư” làm cho các cơ sở giáo dục đại học có hạ tầng tương đối yếu cho thương mại hóa NC&PT của họ và hoạt động sáng chế còn yếu kém. Các văn phòng đổi mới mới được thành lập hỗ trợ các nhà nghiên cứu mong muốn thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của họ và thành lập các công ty Spin-off.
Nguồn nhân lực: Một số sáng kiến thúc đẩy phát triển các kỹ năng nghiên cứu. Ví dụ, VINNOVa đã công bố kế hoạch VINNMER để nâng cao triển vọng phụ nữ làm các nhà lãnh đạo tương lai của các viện NC&PT. VINNOVA còn đưa ra kế hoạch cho VINNPRO để lập ra các trường sau đại học có quan hệ bền vững với doanh nghiệp. Trong chương trình giảng dạy mới ở trường, doanh nghiệp là môn học bắt buộc. Cuối cùng, các qui định miễn thuế cho các chuyên gia nước ngoài có đủ điều kiện đã được đơn giản hóa.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật