”Trong thế giới hữu sắc, hữu hình vậy. Chúng tôi sống trong thế giới này một cuộc đời nồng nàn mà say sưa. Rồi một ngày kia thế giới có tan ra, chúng tôi sẽ thản nhiên đi vào chốn hư vô, không phàn nàn, không nhớ tiếc.”
“Vũ trụ này cùng với loài người và muôn loài nếu chỉ làm một vì sao băng trong đêm tối rồi vụt biến đi không trở lại cũng đủ rồi.”
Nhưng vì sao băng ấy – Hoài Thanh – đã vụt biến đi nhưng vệt sáng dài rực rỡ của vì sao ấy vẫn còn để lại mãi mãi. Nhắc đến Hoài Thanh, người ta không thể quên được một nhà văn với giọng văn điềm đạm, nho nhã, một nhà phê bình văn học nhưng cách chê của ông bao giờ cũng tinh tế chứ không sỗ sàng. Và trong quan điểm của ông, cái bình hay luôn được nhắc đến nhiều hơn là các dở. Mặc dù cuộc đời của ông chịu nhiều nỗi oan ức khó giải, nhưng ông vẫn sống và cống hiến hết mình cho sự nghiệp văn học nước nhà, xứng đáng là một nhà văn bản lĩnh và có nhân cách đẹp trong lòng người hâm mộ văn chương.
Hoài Thanh có tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên (ngoài ra ông còn sử dụng các bút danh khác như Văn Thiên, Lê Nhà Quê) . Sinh ngày 15 tháng 7 năm 1909 trong một gia đình nhà nho nghèo có tham gia phong trào Đông Du chống Pháp của Phan Bội Châu. Quê ông ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bắt đầu học chữ Hán, chữ Quốc ngữ, hồi nhỏ ông là học sinh của trường Quốc học Vinh; rồi theo học trường Pháp Việt đến bậc trung học; tham gia phong trào yêu nước của học sinh của Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Trước 1945, ông tham gia viết văn, làm báo, dạy học và được coi là người đứng đầu trường phái phê bình văn học Nghệ thuật vị nghệ thuật. Năm 1927, Ông gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1930 đang học ở trường Bưởi (Hà Nội) thì bị bắt, bị kết án treo, bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ và giải về quê. Năm 1931 vào Huế, làm công cho một nhà in . Suốt bảy năm trời, trong thân phận người làm thuê chuyên sửa bản in báo tiếng Việt và tiếng Pháp để mưu sinh “bởi ở nhà quê mà không có tư bản thì một mình không sao nuôi sống tám chín người”. Công việc này kéo dài cho tới năm 1936. Song, Hoài Thanh không phải là người yên phận. Ban ngày đi làm thợ, ban đêm, ngày nghỉ, ông dồn tâm sức đọc sách báo, theo dõi, nắm bắt mọi thông tin từ đời sống thường nhật và diễn biến của thời cuộc trong, ngoài nước để rồi cặm cụi viết bài cho các báo. Tham gia Tổng khởi nghĩa của Việt Minh cướp chính quyền ở Huế tháng 8 năm 1945. Sau 1945 ông lần lượt giữ những chức vụ: Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc, Huế (tháng 9 năm 1945); cán bộ giảng dạy tại Đại học Hà Nội (từ 1945 đến 1946); công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam (từ 1947 đến 1948); ủy viên Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam(1950); Trưởng tiểu ban Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương (1950-1956); Vụ trưởng Vụ nghệ thuật và giảng dạy tại Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội (1958). Trong khoảng 10 năm 1958-1968 ông trở thành đại biểu Quốc hội khóa 2, làm Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1 và 2. Từ 1959-1969 ông giữ chức Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam kiêm Thư ký tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện. Từ 1969 đến 1975 ông giữ chức Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoài Thanh mất ngày 14 tháng 3 năm 1982 tại Hà Nội.
Thiên hạ thường nói"văn chính là người". Con người Hoài Thanh quả là có đủ cả chua cay và ngọt bùi:
Ngọn bút Hoài Thanh nghỉ viết rồi
Những bài viết cũ vẫn xanh tươi
Văn anh êm ái và duyên dáng
Đủ cả chua cay lẫn ngọt bùi
Viết về phê bình văn học, hoài thanh có cách viết rất riêng của mình. Ông chỉ “nhả” ra những phán đoán riêng, có bao nhiêu “nhả” ra bấy nhiêu, có tác giả ông chỉ viết dăm bảy dòng mà vẫn rất trúng. Nếu nói rằng phê bình văn của hoài thanh là “ấn tượng”, quả không sai, bởi ông chỉ “nhả” ra những ý kiến riêng, còn bao nhiêu kiến thức và lý thuyết sách vở ông nuốt vào bụng. nhiều người lầm tưởng rằng vốn liếng phê bình của hoài thanh chỉ có “ ấn tượng”. nhưng điều đó nói lên tiếng nói riêng của ông, không bao giờ xáo trộn trong hàng vạn câu từ xáo rỗng, chung chung không chủ đích của những nhà văn thích dựa dẫm hơn là tự tìm cho mình một tiền đề lý luận của riêng bản thân.
Một nét đặc biệt trong văn phong phê bình của ông đó là nét thoàng gọn. nó thườngđược ví như là nét bản sắc văn hóa nghệ thuật dân tộc việt nam. Không cứ gì trong phê bình văn học, trong văn nghị luận và triết luận, trong cả sáng tác thơ truyện, trong sâu khấu, hội hoạ, âm nhạc… và trong cả kiến trúc nữa, phong cách thoáng gọn bao giờ cũng giành được thiện cảm của công chúng văn hoá nghệ thuật Việt Nam. Văn phê bình của Hoài Thanh thoáng gọn và đầy ý vị: tác giả chỉ quan tâm và biết nói những điều đáng nói, không rề rà câu chữ, không cầu kì kiểu cách. Và cộng với giọng văn điềm đạm, nho nhã tất cả tạo nên một áng văn rất riêng của ông, linh hoạt và rất uyển chuyển. Hoài Thanh thực là một nghệ sĩ đích thực trong phê bình, ông là nhà phê bình – nghệ sĩ.
Hoài thanh quan niệm nghệ thuật là thiên về cái đẹp. Yêu cái đẹp, Hoài Thanh chỉ chọn cái đẹp, cái hay trong văn chương để bình, chứ không phê, và bình bằng cả tâm hồn mình, bằng cả con người văn hóa của mình:
“Nếu gọi bằng nghiệp thì bình thơ vẫn là cái nghiệp rất vui. Còn gì vui bằng cùng với ý đẹp, lời đẹp và nhạc điệu, âm thanh đi vào những tâm hồn trong sáng, đi vào những nơi trong sáng nhất của tâm hồn. Khó có những chuyến đi nào say người hơn”.
Với Hoài Thanh, phê bình văn học đã là một niềm đam mê lớn, phê bình cũng là văn chương, ông đã nâng công việc bình thơ, bình văn lên thành một nghệ thuật, hấp dẫn, sáng tạo mới mẻ, bằng trực giác, ấn tượng, tự tin vào cảm xúc tự nhiên của mình, và đồng điệu với các tác phẩm của mình:” Nét đồng điệu của tâm hồn là yếu tố tiên quyết giúp tác giả lắng lòng nghe thấy cái huyền diệu, cái tinh tế trong những hồn thơ mong manh mà người khác không cảm thấy được...”
Cả cuộc đời đã theo tiếng gọi của nghệ thuật, nhưng với Hoài Thanh, mọi cảm hứng sáng tạo nghệ thuật đều chung một cội nguồn sâu xa là tình cảm. Phê bình không phải là chuyện tỉa tót văn chương ; sức nặng của lời phê bình trước hết là ở giá trị chân lí – những chân lí của cuộc đời chứa đựng trong tác phẩm phải thông qua cái tình của nhà phê bình mới đến được trái tim người đọc. Chính Hoài Thanh đã viết : “Muốn phân tích văn thơ cho chính xác không thể nào không cần đến ít nhiều rung cảm nghệ thuật. Nhưng rung cảm nghệ thuật cũng là một thứ tình cảm, và rung cảm đúng hay sai thường cũng là do những tình cảm chủ đạo trong đời sống mỗi chúng ta quyết định” .