Diseases

1. Diphtheria /dif'θiəriə/ (n): bệnh bạch cầu. Là một căn bệnh nhiễm cấp rất lây, bị gây ra do vi trùng Corynebacterium diphtheriae , thường ảnh hưởng tới họng, đôi khi cả các màng nhầy khác và da. Bệnh lan tràn do tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân hay do lây bệnh. ...

1. Diphtheria /dif'θiəriə/ (n): bệnh bạch cầu.

Là một căn bệnh nhiễm cấp rất lây, bị gây ra do vi trùng Corynebacterium diphtheriae, thường ảnh hưởng tới họng, đôi khi cả các màng nhầy khác và da. Bệnh lan tràn do tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân hay do lây bệnh.

Sau thời gian ủ bệnh từ 3 – 6 ngày, bệnh nhân sẽ bị viêm họng loét, yếu ớt và sốt nhẹ. Sau đó một lớp màng xám mềm sẽ mọc ngang qua họng, làm hẹp đường khí và gây khó khăn khi thở và nuốt; có thể làm thủ thuật mở thông khí quản. Vi trùng sinh sản ở nơi nhiễm và tiết độc tố vào máu, độc tố này sẽ gây hại cho tim và các dây thần kinh. Trong vòng 4 ngày sau có thể bị tử vong do suy tim và đột quỵ tổng quát, nhưng dùng đúng cách kháng độc tố và penicillin có thể chặn được bệnh, việc phục hồi hoàn toàn cần có thời gian nghỉ ngơi lâu dài.

Hiện nay, nhờ những chương trình tiêm chủng hữu hiệu, các nước phương Tây rất hiếm có bệnh bạch cầu.

2. Diplopia /di'ploupiə/ (n): chứng song thị.

Là chứng nhìn một thành hai, sự nhìn thấy đồng thời hai hình ảnh của chỉ một vật. Điều này thường do rối loạn cử động điều hòa các cơ vận động nhãn cầu, và khi che một mắt lại sẽ không còn thấy như vậy nữa.

Một người hướng nội sẽ có thể bị một mức độ song thị nhẹ không mất đi khi che mắt lại. Đây là chứng song thị một mắt, trường hợp hiếm thấy nhất trong số các bệnh thường về mắt.

3. Down’s syndrome /'daunz sindroum/: hội chứng Down.

Là một dạng bất thường nhỏ về tâm thần do khuyết tật về nhiễm sắc (có 3 thể nhiễm sắc số 21 thay vì bình thường chỉ có 2). Các đặc trưng cơ thể chính là mắt hơi nghiêng như người Mông Cổ (vì vậy trước đây tình trạng này có tên là mongolism), đầu tròn, sống mũi dẹp, lưỡi có rãnh, bàn tay có những dị dạng gồm các rãnh đơn nằm ngang và các lằn gợn đặc biệt, tai tròn hay có mấu và vóc người nhỏ. Nhiều đặc trưng trên đây đã thấy khi sanh nên có thể định bệnh sớm. Tình trạng này cũng có thể chuẩn đoán trước khi sanh bằng cách chọc dò màng ối.

diseases

Mức trưởng thành tinh thần sau cùng chỉ là mức của một đứa trẻ 5 tuổi, tức là chỉ có IQ từ 50 – 60.

Cũng có dạng nhẹ của hội chứng Down thì có IQ cao hơn một chút.

4. Duodenal ulcer /,dju:ou'di:nl ʌlsə/: loét tá tràng.

Loét tá tràng gây ra do tác động của acid pepsin trên lớp màng lót tá tràng (niêm mạc) của một cá thể mẫn cảm.

Loét thường phối hợp với tăng tiết acid dạ dày và ảnh hưởng tới những người nhóm máu O nhiều hơn. Triệu chứng gồm đau bụng trên, nhất là khi đói và thường biến mất trong nhiều tuần hay nhiều tháng, có thể bị nôn. Các biến chứng gồm chảy máu, lủng và tắc tá tràng do hóa sẹo. Các triệu chứng này giảm đi khi dùng các dược phẩm kháng acid, hay giảm tiết acid dạ dày, đôi khi cần phẫu thuật để chữa vĩnh viễn.

5. Dwarfism /dwɔ:f'izm/ (n): chứng lùn.

Là vóc người ngắn bất thường do mọi nguyên nhân.

Kiểu lùn thường gặp nhất là lùn do kết sản sụn. Những người lùn do tuyến yên có thiếu hụt hormone  tăng trưởng do một khuyết tật trong tuyến yên, cơ thể họ vẫn rất cân đối và không chậm phát triển về mặt tinh thần.

Những người lùn nguyên thủy có khuyết tật di truyền trong việc đáp ứng với hormone tăng trưởng. Chứng lùn cũng phối hợp với thiểu năng tuyến giáp, trong đó sẽ có sự chậm phát triển cả về cơ thể lẫn tinh thần, các bệnh mãn tính như còi xương, suy thận và ruột kém hấp thu.

6. Dysentery /'disntri/ (n): chứng kiết lỵ.

Là hiện tượng bị nhiễm đường ruột gây tiêu chảy nặng có máu và chất nhầy. Kiết lị amib do động vật nguyên sinh Entamoeba histolytica gây loét ruột non và đôi khi gây áp xe gan, phổi, dịch hoàn hay não. Ký sinh trùng lan tràn theo thực phẩm hay nước bị nhiễm phân có mang mầm bệnh. Các triệu chứng có thể xuất hiện nhiều ngày hay đôi khi nhiều năm sau khi nhiễm gồm tiêu chảy, ăn không tiêu, sụt cân và thiếu máu. Tình trạng này thường được chữa lành bằng cách điều trị lâu dài với emetinetetracyline. Kiết lỵ amib thấy chủ yếu ở các nước nhiệt đới và bán nhiệt đới.

Kiết lỵ trực khuẩn gây ra do vi trùng thuộc giống Shigella. Bệnh lan tràn do tiếp xúc với bệnh nhân hay người lành mang vi trùng, hay qua thức ăn và nước uống có nhiễm phân của họ. Dịch thường xảy ra trong các tình trạng ở chen chúc và thiếu vệ sinh. Từ 1 – 6 ngày sau khi nhiễm sẽ có các triệu chứng như tiêu chảy, buồn nôn, co cứng cơ và sốt, các triệu chứng này kéo dài trong khoảng 1 tuần.

Cơn bệnh có thể thay đổi từ tiêu chảy nhẹ đến mất nước nghiêm trọng và xuất huyết ruột. Trong hầu hết các trường hợp, với điều kiện bù đắp được sự mất nước, bệnh sẽ lành trong 7 – 4 ngày. Có thể dùng kháng sinh để loại trừ vi trùng.

Để hiểu rõ hơn về xin vui lòng liên hệ

Nguồn: http://saigonvina.edu.vn
0