Đánh giá hiệu qủa kinh tế và xã hội của dự án
Nguồn lực của mỗi đơn vị, mỗi ngành, mỗi địa phương và cả quốc gia đều khan hiếm và có hạn. Vì vậy, nguồn lực sử dụng cho dự án này sẽ làm giảm nguồn lực sử dụng cho dự án khác. Bất cứ dự án nào ra đời cũng làm giảm các đầu vào hiện có của ...
Nguồn lực của mỗi đơn vị, mỗi ngành, mỗi địa phương và cả quốc gia đều khan hiếm và có hạn. Vì vậy, nguồn lực sử dụng cho dự án này sẽ làm giảm nguồn lực sử dụng cho dự án khác. Bất cứ dự án nào ra đời cũng làm giảm các đầu vào hiện có của nền kinh tế và làm tăng thêm các đầu ra. Cho nên luôn luôn phải xem xét có đáng phải mất các đầu vào này để lấy các đầu ra đó không? Tức là phải lựa chọn dự án sao cho đạt hiệu quả kinh tế quốc dân cao nhất. Vậy thực chất của nghiên cứu kinh tế dự án là đánh giá các lợi ích và chi phí của dự án, chấp nhận hay loại bỏ dự án nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Lợi ích kinh tế xã hội chính là sự so sánh giữa lợi ích được dự án tạo ra với cái giá mà xã hội phải trả để sử dụng tài nguyên có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế quốc dân.
Lợi ích kinh tế xã hội là lợi ích được xem xét trên phạm vi toàn xã hội, toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tức là ở tầm vĩ mô. Lợi ích này khác với lợi ích về mặt tài chính chỉ xem xét ở tầm vi mô liên quan đến từng doanh nghiệp.
Lợi ích kinh tế xã hội của một dự án đầu tư là hiệu số của các lợi ích mà nền kinh tế quốc dân và xã hội thu được trừ đi những đóng góp mà xã hội phải bỏ ra khi dự án được thực hiện.
Lợi ích kinh tế mà xã hội thu được có nhiều khi không định lượng đượcnhư sự phù hợp dự án đối với những mục tiêu phát triển kinh tế, những lĩnh vực được ưu tiên, ảnh hưởng dây chuyền đối với sự phát triển các ngành khác Những cái định lượng được, chẳng hạn sự gia tăng sản phẩm, thu nhập quốc dân, sử dụng lao động, tăng thu ngoại tệ, tăng thu ngân sách cho Nhà nước.
Lợi ích kinh tế xã hội cũng được dự tính trên cơ sở các dự báo nên nó cũng có tính biến động, rủi ro.
Giá trị gia tăng thuần tuý (NVA).
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Giá trị gia tăng thuần tuý là giá trị chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính toán như sau:
NVA = O - (MI + I)
Trong đó:
NVA- là giá trị gia tăng thuần tuý do dự án đem lại đây là đóng góp của dự án đối với toàn bộ nền kinh tế.
O- là giá trị đầu ra của dự án.
MI- là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được các đầu ra trên đây ( như năng lượng, nhiên liệu...)
I- là vốn đầu tư ban đầu.
Chỉ số lao động có việc làm.
Bao gồm số lao động trực tiếp và số lao động gián tiếp do dự án tạo ra ( các dự án liên đới, đó là các dự án được thực hiện do sự đòi hỏi của dự án. Việc xác định số lao động trực tiếp và lao động gián tiếp do thực hiện dự án như sau:
- Xác định số lao động cần thiết cho dự án đang xem xét tại năm hoạt động bình thường của dự án.
- Xác định số lao động cần thiết cho dự án liên đới đối với dự án đang xem xét cả đầu vào lẫn đầu ra. Đây chính là số lao động gián tiếp nhờ vào việc thực hiện dự án.
- Tổng hợp số lao động trực tiếp và gián tiếp sau khi đã được tính toán trên đây ta sẽ có số lao động có việc làm nhờ thực hiện dự án.
+ Nâng cao mức sống dân cư: Được thể hiện gián tiếp thông qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
+ Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện qua sự đóng góp của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và việc đẩy mạnh công bằng xã hội.
+ Gia tăng số lao động có việc làm: Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các nước thừa lao động, thiếu việc làm.
+ Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ: Những nước đang phát triển không chỉ nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế.
Xuất phát từ góc độ nhà đầu tư :
Dưới góc độ nhà đầu tư, lợi ích kinh tế xã hội của dự án được xem xét biệt lập với các tác động của nền kinh tế đối với dự án (như trợ giá đầu vào, bù lỗ đầu ra của Nhà nước). Trong trường hợp này, phương pháp áp dụng là dựa trực tiếp vào số liệu của các báo cáo tài chính của dự án để tính các chỉ tiêu định lượng và thực hiện các xem xét mang tính chất định tính sau:
+ Mức đóng góp cho ngân sách (các khoản nộp vào ngân sách khi dự án bắt đầu hoạt động như thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế đất...) từng năm và cả đời dự án.
+ Số chỗ làm việc tăng thêm từng năm và cả đời dự án.
+ Mức tăng năng suất lao động sau khi có dự án so với trước khi có dự án từng năm và bình quân cả đời dự án.
+ Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường của dự án.
+ Nâng cao trình độ kĩ thuật của sản xuất: thể hiện ở mức thay đổi cấp bậc công việc bình quân sau khi có dự án so với trước khi có dự án và mức thay đổi này tính trên mỗi đơn vị đầu tư.
+ Nâng cao trình độ quản lý: thể hiện ở thay đổi mức đảm nhiệm quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý sau khi có dự án so với trước khi có dự án.
+ Các tác động đến môi trường sinh thái.
+ Đáp ứng việc thực hiện mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Xuất phát từ góc độ quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Đối với cấp quản lý vĩ mô của Nhà nước, khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án phải tính đến mọi chi phí trực tiếp và gián tiếp thu được do dự án đem lại.
Chi phí ở đây chi phí của nhà đầu tư, của địa phương, của ngành và của đất nước. Các lợi ích ở đây bao gồm lợi ích mà nhà đầu tư, người lao động, địa phương và cả nền kinh tế được hưởng.
Để xác định chi phí, lợi ích đầy đủ của các dự án đầu tư phải sử dụng các báo cáo tài chính, tính lại đầu vào đầu ra theo xã hội. Không sử dụng giá thị trường để tình chi phí và lợi ích kinh tế xã hội và giá thị trường chịu sự chi phối của các chính sách tài chính, kinh tế, hành chính của Nhà nước. Do đó giá thị trường không phản ánh đúng chi phí xã hội thực tế.
Vì vậy, khi tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của những dự án có tầm cỡ lớn, bao quát một vùng, một ngành rộng lớn hay quan trọng của nền kinh tế thì phải điều chỉnh giá này theo giá xã hội, phải lưu ý đến yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến dự án và ngược lại.
Mục tiêu và phạm vi phân tích tác động đến môi trường sinh thái: Việc thực hiện một dự án thường có những tác động nhất định đến môi trường sinh thái. Các tác động này cũng có thể là tích cực nhưng cũng có thể là tiêu cực. Tác động tích cực có thể là làm đẹp cảnh quan môi trường, cải thiện điều kiện sống, sinh hoạt cho dân cư địa phương... Các tác động tiêu cực bao gồm việc ô nhiễm nguồn nước, không khí, đất đai, làm ảnh hưởng sức khoẻ con người và súc vật trong khu vực. Vì vậy trong phân tích dự án các tác động về môi trường đặc biệt là tác động tiêu cực phải được quan tâm thoả đáng.
Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng: Sự gia tăng năng lực phục vụ của kết cấu hạ tầng sẵn có, bổ sung năng lực phục vụ mới của kết cấu hạ tầng mới.
Tác động dây truyền: Do xu hướng phát triển của phân công lao động xã hội, mối liên hệ giữa các vùng, các ngành trong nền kinh tế ngày càng gắn bó chặt chẽ. Vì vậy, lợi ích kinh tế xã hội của dự án không chỉ đóng góp cho bản thân ngành được đầu tư mà còn có ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác. Tuy nhiên ảnh hưởng dây truyền này không chỉ có ý nghĩa tích cực mà trong một số trường hợp nó cũng có tác động tiêu cực. Khi phân tích dự án cần phải tính đến cả hai yếu tố này.
Những ảnh hưởng đến sự phát triển địa phương: Có những dự án mà ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương là rất rõ rệt. Đặc biệt là đối với các dự án tại các địa phương nghèo, miền núi, nông thôn với mức sống và trình độ dân trí thấp. Nếu dự án được triển khai tại các địa phương trên tất yếu sẽ kéo theo việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Những năng lực mới của kết cấu hạ tầng được tạo từ những dự án nói trên không những chỉ có tác dụng đối với chính những dự án đó mà còn có ảnh hưởng đến các dự án khác và sự phát triển của địa phương.
Sự khác nhau giữa phân tích kinh tế và phân tích tài chính của dự án.
Về quan điểm:
Phân tích tài chính là xem xét hiệu quả ở tầm vi mô, tầm doanh nghiệp còn phân tích kinh tế xã hội là xem xét ở tầm vĩ mô, tầm xã hội.
Phân tích tài chính xuất phát từ lợi ích của nhà đầu tư, còn phân tích kinh tế xã hội là xuất phát từ lợi ích của cả xã hội, cả cộng đồng.
Mục tiêu trong phân tích tài chính là tối đa hoá lợi nhuận cho nhà đầu tư, còn mục tiêu của phân tích hiệu quả kinh tế xã hội là tối đa hoá phúc lợi của toàn xã hội.
Chính vì có sự khác biệt đó nên trong thực tế, một dự án đầu tư có thể thoả mãn tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp nhưng có thể nó không đồng thời tối đa hoá phúc lợi cho xã hội, những lợi ích mà nó đem lại cho xã hội có khi không tương xứng, thậm chí có thể còn có hại cho xã hội.
Mặc dù đã phân tích tài chính đầy đủ, một dự án đầu tư vẫn phải phân tích về mặt hiệu quả kinh tế xã hội vì đối với Nhà nước đây lại là căn cứ chủ yếu để Nhà nước cấp giấy phép đầu tư và ngân hàng xem xét tài trợ vốn cho dự án.
Về mục đích:
Mục đích của phân tích tài chính là quan tâm tới tối đa hoá lợi ích của chủ đầu tư và các nhà tài trợ .Do đó, họ quan tâm đến lợi nhuận, hiệu quả đầu tư, sản lương tối đa hoá lợi nhuận. Ngoài ra, họ hầu như không quan tâm đến tác động của dự án đến nền kinh tế xã hội nói chung. Trái lại, mục đích của phân tích kinh tế là quan tâm đến lợi ích của đem lại cho nền kinh tế, tức là xem xét dự án đóng góp thực sự cho nền kinh tế quốc dân là bao nhiêu và tìm cách tối đa hoá lợi ích đó.
Từ sự khác nhau về mục đích nói trên, dẫn đến quan niệm khác nhau về lợi ích và chi phí trong phân tích tài chính và trong phân tích kinh tế. Trong phân tích kinh tế chi phí được quan niệm là những khoản chi làm tiêu hao nguồn lực thực sự của nền kinh tế, còn lợi ích là những khoản đóng góp thực sự của dự án vào phúc lợi chung của quốc gia. Tất cả những khoản chi phí và lợi ích đơn thuần mang tích chất chuyển giao từ thực thể kinh tế này sang thực thể kinh tế khác trong nền kinh tế đều bị loại ra khỏi phân tích kinh tế.
Chính vì quan niệm về lợi ích và chi phí kinh tế như vậy, cho nên giá cả sử dụng trong phân tích kinh tế phải là giá cả phản ánh đúng sự khan hiếm nguồn lực. Thế nhưng ở hầu hết các nước đang phát triển, giá cả thị trường của hàng hoá, dịch vụ, vốn, ngoại hối, đất đai ...đều bị bóp méo vì những lí do khác nhau. Có trường hợp, giá cả thị trường bị bóp méo do thất bại của thị trường, trường hợp khác có sự can thiệp của chính phủ. Vì lẽ đó, không thể sử dụng giá thị trường để phân tích kinh tế, mà cần thiết phải điều chỉnh giá thị trường sang một giá phản ánh đúng sự khan hiếm nguồn lực của nền kinh tế - đó là giá kinh tế.