Đã có bằng chứng để phân biệt: Đô đốc Đặng Tiến Đông, Đô đốc Đặng Tiến Giản với Đô đốc Long
Lê Ngân Vài thập kỷ gần đây có nhiều tài liệu khác nhau trong giới sử học xung quanh ba nhân vật đời Tây Sơn: Đô đốc Đặng Tiến Đông,Đô đốc Đặng Tiến Giản và Đô đốc Long. Qua các tài liệu mới thu thập được xin nêu các tài liệu làm căn cứ để phân biệt về các nhân vật nêu ...
Lê Ngân
Vài thập kỷ gần đây có nhiều tài liệu khác nhau trong giới sử học xung quanh ba nhân vật đời Tây Sơn: Đô đốc Đặng Tiến Đông,Đô đốc Đặng Tiến Giản và Đô đốc Long.Qua các tài liệu mới thu thập được xin nêu các tài liệu làm căn cứ để phân biệt về các nhân vật nêu trên”.
1-Đô đốc Đặng Tiến Đông và “Đô đốc Long”.
Đô đốc Long là danh tướng Tây Sơn đã được sách sử chép từ cuối thế kỷ 18 với công trạng nỗi bật là vị tướng chỉ huy đánh thắng quân Thanh ở Đống Đa vào sáng ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu song cho đến giữa thế kỷ XX vẫn tồn tại với ba từ “Đô đốc Long”(hoặc Mưu).Năm 1930 dưới triều Nguyễn danh sĩ Nguyễn Trọng Trì giới thiệu trong cuốn “Tây Sơn lương tướng ngoại truyện:”Đô đốc Long” là “Đặng Văn Long hiệu Tử Vân quê ở Tuy Viễn Bình định”nhưng chưa được chính sử công nhận.Đến những năm 70 thế kỷ XX,GS sử học Phan Huy Lê (PHL) đã có phát hiện mới:”Đô đốc Long là Đô đốc Đặng Tiến Đông quê ở Lương Xá (Chương Mỹ,Hà Tây)”.Phát hiện trên là từ kết quả GS PHL khai thác các di bản đời Tây Sơn mới tìn thấy ở Lương Xá.gồm một đạo Sắc có niên đại Thái Đức 10(tức năm 1787),tấm bia đá có khắc bài văn “Tông dức thế tự bi” do Phan Huy Ích biên soạn năm Đinh Tỵ Cảnh Thịnh 5 (tức năm 1797)đặt trước sân chùa Thủy Lâm và bộ phả “Đặng gia phả hệ toản chính thực lục” do Đặng Tiến Đông biên soạn đầu triều Cảnh Thịnh (1792).Tất cả các di bản trên đều bằng chữ Hán và chưa lần nào được khai thác.
GS PHL trích dẫn đoạn văn bia chép về công trạng của Đặng Tiến Đông:”Năm Mậu Thân (hai chữ Quang Trung bị đục-T.g.) quân Bắc xâm chiếm nước Nam,ông (tức Đăng Tiến Đông-T.g.)phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ,ông một mình một ngựa tiến lên trước dẹp yên nơi cung cấm…Sau đó ông được vua Quang Trung ban thưởng” Từ đoạn văn bia như trên GS PHL liên hệ với thực tiễn công trạng của Đô đốc Long trong trận tiêu diệt quân Thanh ở Đống Đa,tiến trước vào Thăng Long sáng mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (tức 1789) và nêu nhận định:”Hiện nay,chưa tìm thấy tài liệu nào nói rõ Đô đốc Đông là Đô đốc Long hay Đô đốc Mưu.Nhưng phân tích và đối chiếu các tư liệu các sự kiện liên quan thì theo tôi:có nhiều khả năng Đặng Tiến Đông là tên thật của Đô đốc Long hay Đô đốc Mưu…”.(1) Như vây chính tác giả PHL cũng đã xác nhận lập luận:”Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long” cũng chỉ mới là một “giả thuyết”.Nhưng “giả thuyết” trên đã được nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi tán đồng(Đổ Đức Hùng, Ngô thế Long,Nguyễn Khắc Thuần,nhóm tác giả biên soạn sách Đại cương lịch sử Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam)và nhanh chóng trở thành một “chủ thuyết”được chính sử lưu hành.Từ sau 1794(t.k.XX) tên Đô đốc Đặng Tiến Đông đã thay thế tên Đô đốc Long trên các phương tiện thông tin đại chúng cả trong và ngoài nước,trong bảo tàng,trong sách giáo khoa,trong từ điển Bách khoa VN,Thủ đô Hà Nội còn có tên “phố Đặng Tiến Đông”.Có tình trạng trên chủ yếu là do tác giả là một giáo sư sừ học có uy tín lại có bằng chứng từ gia phả,Sắc phong,bia đá…
Tuy nhiên những di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá lúc bấy giờ là những độc bản bằng chữ Hán được cất giữ ở một nơi hẻo lánh xa xôi trong lúc đất nước còn gánh chịu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ chưa mấy nhà nghiên cứu có điều kiện tiếp cận. Đến những năm 90,thế kỷ XX,các di bản,di vật ở Lương Xá đã được mang về trưng bày ở Thủ đô và còn làm phiên bản đưa vào bảo tàng Tây Sơn ở Bình Định,giới nghiên cứu mới có dịp tiếp cận và cũng từ đó đã xuất hiện một số tài liệu phản biện có giá trị.Người đầu tiên nêu phản biện là nhà Khảo cổ học thông thạo Hán ngữ Đỗ Văn Ninh (ĐVN), (sau này là PGS-TS Đỗ Văn Ninh).Theo ĐVN giả thuyết của PHL có 2 sai lầm chủ yếu:
1-tên nhân vật trong cá ba di bản ở Lương Xá chỉ là một người với chữ Hán là chữ “Giản”(暕)(Đặng Tiến Giản) không phải là chữ “Đông”(東) (Đặng Tién Đông),
2-Đặng tướng công ở Lương Xá không phải là Đô đôc Long.(2)
Về đọc tên Đặng tướng công là ”Đông hay Giản” sẽ nêu ở phần sau.Trước mắt bàn về điều chính yếu nhất:Đặng tướng công ở Lương Xá có phải là Đô đốc Long?Trên đạo Sắc và văn bia chép công trạng của Đặng tướng công trận Mậu Thân (1788).không hề nói đến trận năm Kỷ Dậu(1789) do vậy:”Đặng tướng công ở Lương Xá là danh tướng Tây Sơn tham gia đánh trận năm Mậu Thân không phải là Đô đốc Long đánh quân Thanh ở Đống Đa năm Kỷ Dậu”(2) Như vậy,cùng một nguồn sử liệu là văn bia ở chùà Thủy Lâm nhưng qua khai thác đã có hai kết luận khác nhau.Để có cơ sỏ phân biệt đúng,sai,điều cần thiết là phải công bố nguyên văn chữ Hán đoạn văn bia,điều mà cả hai ông PHL và ĐVN trước đây chưa làm.Theo tư liệu công bố trên một tạp chí sử học năm 2008,nguyên văn chữ Hán đoạn văn bia đó như sau
Phiên âm “Mậu Thân (2 chữ tiếp theo bị đục) sơ, bắc binh nam mục,công phụng chiếu tiên phong đạo,tiến chiến nhi bắc binh hội,công đương kị đương tiên túc thanh cung cấm…Vũ Hoàng giá lâm Thăng Long sách huân hành thưởng bản quán Lương Xá vĩnh vi thực ấp.”
Dịch nghĩa: “Năm Mậu Thân đầu niên hiệu … …(hai chữ bị đục quân bắc nhòm ngó phương nam,ông vâng chiếu lãnh đạo tiên phong tiến đánh ,quân bắc tan rã.Ông một mình một ngựa đi trước vào dẹp yên cung cấm.Võ Hoàng đế đến Thăng Long,xét công phong thưởng đặc biệt ban cho ông quê làng Lương Xá làm thực ấp”(3)
Sau khi nguyên văn chữ Hán của đoạn văn bia nêu trên được công bố,đã có thêm ý kiến nghiêng về cách dịch và giải thích của ông ĐVN.Trước hết về niên đại trận đánh,văn bia chỉ có hai chữ Mậu Thân chỉ niên đại trận đánh xảy ra trong năm Mậu Thân ngoài ra trên văn bia không còn có một niên đại nào khác.Hai chữ bị đục có thể là hai chữ “Quang Trung” nhưng “Mậu Thân Quang Trung sơ” phải dịch đúng là “năm Mậu Thân năm đầu niên hiệu Quang Trung”.Không thể dịch “năm Mậu Thân đầu đời Quang Trung” với dụng ý thêm năm Kỷ Dậu vốn không có trong văn bia và suy diễn văn bia chép vai trò của Đô đốc Long trong trận Đống Đa!.”Thái tổ Vũ Hoàng đế”là miếu hiêu của Quang Trung Nguyễn Huệ có thể dùng để chỉ Quang Trung cũng để chỉ Nguyễn Huệ.Đầu năm Mậu Thân chỉ có Bắc Bình vương Nguyễn Huệ chưa có Quang Trung Nguyễn Hụệ,Câu ”Vũ Hoàng giá lâm Thăng Long…”trong văn bia là để chỉ dịp Bắc Bình vương Nguyễn Huệ bất ngờ đến Thăng Long tháng 5 năm Mậu Thân bắt giết Nhậm về tội lộng quyền,phản nghịch,bố trí lại phòng thủ Bắc Hà,khen thưởng tướng sĩ lập công, Đặng Tiến Giản được ban thưởng trong dịp này, không thể nhầm với sự kiện “vua Quang Trung khen thưởng Đô đốc Long đầu năm Kỷ Dậu”.Đầu năm Mậu Thân chưa có quân Thanh ở Thăng Long.Vì vậy “bắc binh” trong văn bia là để chỉ quân “bắc triều”,nhà Lê do Nguyễn Hửu Chỉnh chỉ huy.”Nam mục”,chữ“mục” trong văn bia không có nơi nào định nghĩa là “xâm chiếm,xâm lược”.Theo ĐVN chữ “Mục nghĩa cổ là “trị dân”.Vào cuối thời Lê đất đai mà chúa Nguyễn mở mang vẫn coi là giang sơn nhà Lê.Phan Huy Chú dùng 2 chữ “nam mục”để diễn tả sự kiện vua Lê đòi lại quyền quản lý đất Nghệ An vào đầu năm Đinh Vị.và đây là việc đòi lại quyền quản lý giang sơn không phải là hành vi xâm lược.Song với Nguyễn Huệ,việc vua Lê gửi quốc thư đòi lại Nghệ An là “vong ân,bội nghĩa” khiến Huệ nổi giận sai Vũ Văn Nhậm điều binh đánh ra Thăng long để trừng trị bè lũ phản nghịch Chiêu Thống-Hửu Chỉnh(Bắc binh hội).Trận đánh của Tây Sơn ra Thăng Long năm Mậu Thân đã được nhiều sử sách chép nhưng chỉ có Tây Sơn thuật lược (TSTL) chép cụ thể về vai trò của Đô đốc Đặng Giản bên cạnh Vũ Văn Nhậm.Đoạn TSTL diễn tả trận Mậu Thân như sau:”Mùa đông năm Đinh vị(năm đầu Chiêu Thống) vua Lê sai Ngô Nho,Trần Công Xán mang quốc thư cho Huệ nói rằng Nam và Bắc mỗi bên đều giữ lấy cương thổ của mình,không đặng vượt khỏi bổn phận.Huệ giận lắm truyền mật lệnh ném bọn Nho và Công Xán xuống biển,lại khiến Tiết chế Nhậm đốc xuất bộ quân,Thái úy Điều đốc xuất thủy quân,Đô đốc Đặng Giản làm tiên phong,nhằm kinh thành Thăng Long tiến phát…Năm Mậu Thân(Chiêu Thống năm thứ hai,Thái Đức năm thứ 11),tháng giêng, quân Tây Sơn tiến phạm kinh thành Thăng Long.Vua Lê chạy đi Hải Dương,Tây Sơn rượt theo cha con Hữu Chỉnh đều bị bắt.Huệ cho Nhậm trấn Thăng Long,Đặng Giản trấn Thanh Hoa.(Giản là người Lương Xá,dòng dõi của Đặng Nghĩa Huấn)”.(4)Với TSTL,đã có thêm căn cứ chứng minh văn bia nói về công trạng của Đặng Tiến Giản trong trận Mậu Thâa không phải nói về Đô đốc Long với trận năm Kỷ Dậu..
2-Đô đốc Đặng Tiến Đông và Đô đốc Đặng Tiến Giản.
Trở lại tên Đặng tướng công ở Lương Xá băng chữ Hán chép trên các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá phải đọc là “Đông” hay “Giản”? PGS-TS Đỗ Văn Ninh là người đầu tiên phát hiện tên của Đặng Đô đốc bằng chữ Hán chép trên các di bản là chũ “Giản” không phải là chữ “Đông”.Nhưng người đầu tiên nêu chứng cứ có sức thuyết phuc về cách đọc tên Đặng Đô đốc trên các di bản là học giả Trần Văn Quý(TVQ).Qua khai thác bộ Thực lục mà PHL từng sử sụng ông TVQ đã phát hiện một chi tiết mới chưa được PHL đề cập:”Gia phả họ Đặng ,bản A.633 mà Phan Huy Lê đã sử dụng,do chính Đặng Tiến Đông soạn đã mách bảo chúng ta nên đọc chữ đó là gì và chữ đó có nghĩa gì.Gia phả viết:’Mậu Ngọ niên ngũ nguyệt sơ nhị Quý Sửu thì,sinh đệ bát tử Đông (東) hậu cải 暕 dĩ tự vựng vân:trùng âm tích vũ chi hậu hốt kiến nhật sắc,cố tri danh yên’.Câu này phải dịch:’Năm Mậu Ngọ tháng 5 ngày 2 giờ Quý Sửu sinh con trai là Đông (東) sau đổi thành Giản (暕),ý theo tự vựng nói:Sau khi mây mù tích mưa bổng thấy ánh mặt trời,cho nên đặt tên như thế.(5).Cũng theo bộ Thực lục:“Đông” là con thứ 8 của Dận Quận công Đặng Đình Miên và bà Phạm Thị Yến,cháu nội của Yên Quận công Đặng Tiến Thự, sinh ngày 2 tháng 5 năm Mậu Ngọ (tức 18-6-1738) ,trên “Đông” có 7 anh trai đều được phong tước bá,tước hầu:”Đặng Đình Chí(Chí Trung hầu),Đặng Đình Thiệu(Thiệu Trung bá),Đặng Đình Cầu (Kiêm Trung hầu),Đặng Đình Tự(Tự Trung Bá)Đặng Đình Tú(Điện Trung Bá)Đặng Đình Giám(Giám Trung bá)Đặng Đình Thạch(Thạch Vũ bá) riêng về “Đông” con thứ 8 chỉ chép:10 tuổi theo học Doãn Xá tiên sinh ở chùa Thủy Lâm,năm 13 tuổi mồ côi cha rồi dừng lại.Bộ Thực lục không chép một dòng nào nói “Đông” trong giai đoạn trưởng thành nhưng tác giả biên soạn bộ Thực lục đã cung cấp một manh mối quan trọng giúp giới nghiên cứu hiện đại lần ra một danh tướng Tây Sơn chưa được biết đến.Đó là câu chính tác giả mách bảo:”Đông cãi tên Giản”.Tên của tác giả chép trên bộ Thực lục là chữ “Giản”.và theo Phan Huy Ích chép trong văn bia:”Đặng Tiến Giản là cháu cụ Yên Quận công,con cụ Dận Quận công”.Như vậy đã có căn cứ cho thấy “Đông” trong bộ Thực lục cũng chính là Đô đóc Đặng Tiến Giản danh tướng Tây Sơn trong văn bia chỉ là một ngườivà “Giản” trong đạo Sắc và văn bia chỉ là một người.Tuy nhiên với các nguồn sử liệu ở Lương Xá cũng chưa giải đáp Đặng Tiến Giản tức “Đông” trước ngày về với Tây Sơn đã học hành đỗ đạt thế nào,đã giữ chức tước gì ở Bắc Hà? Vì sao 2 danh thần Thụy Nham hầu Phan Huy Ích,Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm lại lập bia tưởng niệm Đặng Tiến Giản? Đã có tài liệu giúp giải đáp các câu hỏi trên.
.Gần đây giới nghiên cứu quan tâm đến cuốn từ điển “Nhân vật lịch sử Việt nam” của Nguyễn Quang Thắng-Nguyễn Bá Thế (NXB Tổng hợp TP HCM tái bản năm 2006) qua khai thác gia phả Đặng tộc ở Lương Xá có giới thiệu một nhân vật lịch sử thuộc Đặng tộc-Đô đốc Đặng Tiến Đông (1738-1787):với tiểu sử như sau:
”Đặng Tiến Đông là Đô đốc đời Lê (Cảnh Hưng) còn gọi là Đặng Đình Đông,sinh ngày 18-6-1738 tại kinh thành Thăng Long …cháu sáu đời Nghĩa Quốc Công Đặng Huấn.Sinh trưởng trong một gia đình đại vọng tộc,cháu nội Thái tể Đại tư không Yên Quận công Đặng Đình Thự,con Thượng đẳng đại vương Đặng Đình Miên tước Thái bảo Quận công,mẹ là Phạm Thị Yến.Ông là con trai thứ 8, các anh là Đặng Đình Trí (Chí),Đặng Đình Thiệu,Đặng Đình Cầu,Đặng Đình Tự,Đặng Đình Giám,Đặng Đình Tú,Đặng Đình Hữu(riêng Đặng Đình Hữu,Thực lục nêu tên Đặng Đình Thạch-LN) tất cả đều được phong tước bá,tước hầu. Năm 1763,25 tuổi,Đặng Tiến Đông thi đỗ Tạo sĩ và ra làm quan từng lập nhiều chiến công trong đời các chúa Trịnh … được phong Đại Đô đốc,tước Đông Lĩnh hầu.Đoạn kết tiểu sử Đô đốc Đặng Tiến Đông có câu chữ Hán (phiên âm):
“Vệ quốc thượng tướng quân trấn thủ Thanh Hoa kiêm Nghệ An trấn Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng tướng công đại phụ tứ nguyệt thập tốt, hoàng triều Chiêu Thống nguyên niên nhị nguyệt cát hạ phùng tra.”Như vậy Đô đốc Đặng Tiến Đông đã mất đầu năm Chiêu Thống 1(tức năm 1787).Từ nguồn tư liệu này, Nguyễn Quang Thắng phủ định ý kiến hiện đang lưu truyền rằng “Đô đốc Đặng Tiến Đông là Đô đốc Long”.
Từ tiểu sử về Đô đốc Đặng Tiến Đông như trên cho thấy có sự liên hệ mật thiết giữa gia phả Đặng tộc chép trước năm 1787 với nguồn sử liệu về Tây Sơn giới sử học phát hiện tại Lương Xá đầu thập kỷ 70 thế kỷ XX và đều có liên quan đến một nhân vật lịch sử tức Đặng Đô đốc thuộc Đặng tộc ở Lương Xá.Cụ thể:
1-So sánh tiếu sử của “Đông” (Đặng Đình Đông/Đặng Tiến Đông) con trai thứ 8 của Dận Quận công Đặng Đình Miên và bà PhạmThị Yến chép trong bộ Thực lục thì từ tổ tiên,cha mẹ,ngày tháng năm sinh,tên họ 6 anh trai…đều trùng khớp với tiểu sử của Đô đốc Đặng Tiến Đông(Đặng Đình Đông) đời Lê-Trịnh chép trong từ điển”Nhân vật lịch sử Việt nam” của 2 ông Thắng, Thế.Sự trùng hợp trên đã khẳng định:“Đông”giới thiệu trong bộ Thực lục với Đô đốc Đặng Tiến Đông trong từ điển Nhân vật lịch sử Việt nam chỉ là một người.Bộ Thực lục còn nêu chi tiết:”Đông cải tên Giản”.Như vậy có căn cứ để nhận định:”Đông” trong bộ Thực lục tức Đô đốc Đặng Tiến Đông (đời Lê-Trịnh)và Đô đốc Đặng Tiến Giản (đời Tây Sơn) cũng chỉ là một người.Như vậy đã có căn cứ sáng tỏ từ trước khi gia nhập Tây Sơn,Đặng Tiến Giản đã làm gì,ở đâu!.
2-.Theo gia phả Đặng tộc được nêu lại trong từ điển Nhân vật lich sử Việt nam thì Đô đốc Đặng Tiến Đông đă “chết”đầu năm Chiêu Thông1 (1787).Nhưng cũng theo gia phả (bộ Thực lục) tại trang cuối quyển 6 có chép câu chữ Hán nói rõ trường hợp “Đông đổi tên thành Giản”(5) Thực lục không nêu thời điểm Đặng tướng công đổi tên “Đông” lấy tên” Giản”nên giới nghiên cứu từng hiểu lầm và giải thích:”cậu ấm Đông” trưởng thành lấy tên “Đô đốc Đặng Tiến Giản”!Nay theo tư liệu mới nêu trên đã sáng tỏ “Đông”đã từng là “Đô đốc tước Đông Lĩnh hầu” dưới thời Lê-Trịnh,khi về với Tây Sơn bỏ tên “Đông” lấy tên “Giản” và niên đại bản Sắc phong Nguyễn Huệ ban cho Đặng Tiến Giản cũng chính là cứ liệu chứng minh thời điểm đổi tên “từ Đặng Tiến Đông sang Đặng Tiến Giản” là ngày 18/7/1787.Cũng chính Đặng Tiến Giản đã giải thích ý nghĩa của việc đổi tên lấy tên “Giản”với ý nghĩa:”từ chỗ tối tìm thấy ánh sáng” cũng để phản ảnh sự thay đổi phương hướng của cuộc đời từ bóng tối(hỗn loạn tàn tạ của giai đoạn cuối đời Lê-Trịnh) bước ra ánh sáng(sự sáng láng,huy hoàng của Tây Sơn với anh hùng Nguyễn Huệ).Trường hợp đổi tên “Đông thành Giản” chép trên bộ Thực lục và sự kiên Đặng Tiến Giản gia nhập Tây Sơn theo đạo Sắc là cứ liệu chứng minh từ sau năm 1787 trong thời đại Tây Sơn không còn có tên Đô đốc Đặng Tiến Đông mà chỉ có Đô đốc Đặng Tiến Giản.Mọi tài liêu viết về Tây Sơn sau năm 1787 còn chép tên “Đặng Tiến Đông” là không có cơ sở.Không thể vin bất cứ lý lẽ nào để bào chữa cho việc đọc tên “Giản” thành tên“Đông”vì trong Hán ngữ không có chữ “Đông” nào lột tả được ý chí”rũ bỏ đường tối tìm đến đường sáng”của Đặng Tiến Đông bằng tên mới là “Giản”.Cũng không thể nêu gộp chung:”Đặng Tiến Đông hay Đặng Tiến Giản” vì đời Lê có Đặng Tiến Đông nhưng chưa có Đặng Tiến Giản,đến sau thời điểm xuất hiện tên Đặng Tiến Giản đời Tây Sơn thì không còn tên Đặng Tiến Đông,có tài liệu nêu“Đặng Tiến Đông là phó tướng cho Đô đốc Long”cũng không có căn cứ.
3-Đã có căn cứ khẳng định:theo gia phả Đặng tộc,chức “Vệ quốc thượng tướng quân,tước Đông Lĩnh hầu,Trấn thủ Thanh Hoa kiêm Nghệ An“ là chức tước của Đô đốc Đặng Tiến Đông được phong tặng dưới triều Lê-Trịnh không phải là do “Quang Trung” phong tặng như PHL nêu trong bài nghiên cứu về Đặng Tiến Đông năm 1974.Cũng qua chi tiết trên đã giúp sáng tỏ thêm câu Nguyễn Huệ đãi ngộ Đặng Tiến Giản trong đạo Sắc (Thái Đức 10):”Khả gia Đô đốc đồng tri,Đông Lĩnh hầu,nhưng sai Thanh Hoa trấn thủ”.Dịch nghĩa:”Vậy thêm cho chức Đô đồng tri,Đông Lĩnh hầu,vẫn sai làm Trấn thủ xứ Thanh Hoa” Cuối đạo Sắc có 4 từ “Thượng trật-Cố sắc” tức đã nói rõ:”Đây là Sắc thăng trật”.Trong đạo Sắc,Nguyễn Huệ chỉ thêm cho Đặng Tiến Giản chức “Đô đốc đồng tri” thuộc trật tòng nhất phẩm,giữ lại tước Đông Lĩnh hầu,Trấn thủ Thanh Hoa như đã có dưới triều Lê (năm 1787 Thanh Hoa còn là lảnh thổ thuộc Bắc Hà).Nội dung đạo Sắc như trên là phù hợp với quyền hạn Bắc Bình vương của Nguyễn Huệ,vừa tỏ ra biệt đãi đối với Đặng Tiến Giản mà không gây phản cảm trong hàng ngũ tướng lĩnh Tây Sơn
4-Thông tin về Đô đốc Đặng Tiến Đông (đời Lê) đã giúp sáng tỏ nguyên nhân 2 ông Phan,Ngô lập bia tưởng nhớ Đặng Tiến Giản.Dưới triều Lê Cảnh Hưng,Đô đốc Đặng Tiến Đông đã cùng với Phan Huy Ích,Ngô Thì Nhậm làm quan đồng triều nhưng về tuổi tác,chức tước thì Đô đốc Đặng Tiến Đông thuộc lớp đàn anh,lớp trên của 2 ông Phan,Ngô.Hai ông Phan,Ngô từng quý mến tài năng đức độ của Đô đốc Đặng Tiến Đông lại càng cảm phục khi biết Đặng Tiến Đông đã sớm đầu quân Tây Sơn với tên mới là Đặng Tiến Giản và được Nguyễn Huệ giao trọng trách cầm quân đánh ra Thăng Long đầu năm Mậu Thân.Do đó khi Đặng Tiến Giản qua đời,mặc dù 2 ông Phan,Ngô lúc này đã là danh thần Tây Sơn được phong tước hầu với chức vụ Thượng Thư dưới triều Quang Trung,nhưng 2 ông vẫn dành công sức biên sọan bài văn dài trên 500 từ có tiêu đề “Tông đức thế tự bi”khắc vào bia đá dựng trước chùa Thủy Lâm để tưởng nhớ và lưu danh hậu thế cho người bạn lớn “đồng hương,dồng triều,đồng chí,đồng tâm”.Tuy nhiên do phải ngụy trang để tránh bị tiêu hủy nên đã xảy ra điều hiểu nhầm đáng tiếc như hiện nay.
5-Từ sự nghiệp của của Đặng Tiến Giản qua đạo Sắc và văn bia và qua “Tây Sơn thuật lược” còn cho thấy Nguyễn Huệ không chỉ là một thiên tài quân sự mà còn là một thiên tài về nghê thuật dùng người.Cùng là cựu thần nhà Lê-Trịnh đầu quân cho Tây Sơn và cũng đã lập công trạng cho triều Tây Sơn nhưng thái độ của Nguyễn Huệ với Nguyễn Hửu Chỉnh và với Đặng Tiến Giản hoàn toàn khác nhau.Nguyễn Hửu Chỉnh mới chớm mưu phản lại Tây Sơn đã bị Nguyễn Huệ đánh đòn phủ đầu tiêu diệt tại chỗ.Còn với Đặng Tiến Giản cũng là là một võ quan Bắc Hà đầu quân cho Tây Sơn nhưng thái độ của Nguyễn Huệ hoàn toàn khác.Ngay từ những ngày đầu tiếp kiến ở Quảng Nam,Đặng Tiến Giản đã được Huệ biệt đãi “nhờ ơn tri ngộ,yêu ban ấn kiếm giao cho cầm quân” Thực tiễn như văn bia chùa Thủy Lâm đã chép diễn ra đúng như dự kiến của Nguyễn Huệ.Với tài năng của một Đô đốc từng đỗ Tạo sĩ,thông thạo địa hình địa vật Bắc Hà,biết tường tận chỗ mạnh chỗ yếu về trang bị vật chất,tinh thần của tướng,quân nhà Lê do Chỉnh chỉ huy,Giản đã đóng góp tích cực cho chiến thắng đầu năm Mậu Thân của Tây Sơn trừng phạt Chỉnh ở Thăng Long.Sau chiến thắng,Nhậm được giao trấn thủ Thăng Long,Giản trấn Thanh Hoa…Tháng 5 Mậu Thân Huệ ra Thăng Long bắt giết Nhậm về tội lộng quyền,mưu phản… ban thưởng cho tướng sĩ trong đó Đặng Tiến Giản được Huệ đặc cách ban thưởng làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn .Sau ngày lên ngôi Hoàng đế niên hiệu Quang Trung,Huệ vẫn tin dùng biệt đãi Đặng Tiến Giản.Năm Canh Tuất,Quang Trung 3(1790),Giản được điều về Thăng Long giao thống lĩnh Đại Thiên Hùng binh (Tây Sơn thuật lược).Chi tiết này cũng là cứ liệu chứng minh chức vụ của Đặng Tiến Giản chép trong bộ Thực Lục,trên chuông đồng tặng chùa Trăm Gian và trên văn bia chùa Thủy Lâm là do Quang Trung phong tặng năm Canh Tuất 3 (tức 1790).
Hà Nội tháng 8 2014
Lê Ngân
Chú thích:.
(1)–Trích bài“Đô đốc Đặng Tiến Đông-Một vị tướng Tây Sơn chỉ huy trận Đống Đa”-Phan Huy Lê-Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 154 (01-1974)
(2) –Bài: “Đặng Tiến Đông hay Đặng Tiến Giản” Đỗ Văn Ninh (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 3 tháng 5-6 năm 1999)
(3) Bài “Phải gọi là Đô đốc Đặng Tiến Giản” Trần Văn Quý-Đối thoại sử học (NXB Thanh Niên 2000.
(4) Bài ”Tư liệu về vị tướng Tây Sơn ở Lương Xá (Chương Mỹ-Hà Tây) ”-Trúc Diệp Thanh-Tạp chí Huế Xưa và Nay (Hội Sử học tỉnh TT-H) số 90 fháng 11-12 năm 2008
(5) “Tây Sơn thuật lược”-bản chữ Hán đăng trên Tạp chí Nam Phong số 148(1930).Bản dịch tiếng Việt đầu tiên do Tạ Quang Phát chuyên viên Hán ngữ Viện Khảo cổ Saigon thực hiện năm 1968
NCLS- Xin xem thêm các bài :
Đô đốc Đặng Tiến Đông- một tướng Tây Sơn chỉ huy trận Đống Đa
Đã tìm được lai lịch hoàn chỉnh của Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản