18/06/2018, 16:01

Truyện thơ các dân tộc thiểu số

GSTS Nguyễn Xuân Kính Quá trình sưu tầm, công bố truyện thơ các dân tộc thiểu số Truyện thơ các dân tộc thiểu số là một thể loại văn học dân gian thuộc loại hình tự sự, bao gồm những tác phẩm có hình thức văn vần, được kể, được hát, được ngâm, đọc (kể cả trước và sau khi đã được ...

khanpieu010

GSTS Nguyễn Xuân Kính

  1. Quá trình sưu tầm, công bố truyện thơ các dân tộc thiểu số

Truyện thơ các dân tộc thiểu số là một thể loại văn học dân gian thuộc loại hình tự sự, bao gồm những tác phẩm có hình thức văn vần, được kể, được hát, được ngâm, đọc (kể cả trước và sau khi đã được ghi chép) và thường có nội dung thể hiện thân phận con người và cuộc sống lứa đôi. (1)

  1. Điểm lại việc sưu tầm, công bố truyện thơ các dân tộc thiểu số theo từng thập niên

Lịch sử công bố truyện thơ dân gian các dân tộc thiểu số ở Việt Nam được bắt đầu vào nửa cuối những năm 50 của thế kỉ XX. Tác phẩm nào có vinh dự được công bố đầu tiên? Đó là truyện thơ Thái Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu).

Năm 1957, bản dịch truyện thơ này do Điêu Chính Ngâu thực hiện được

xuất bản ở Hà Nội (2). Năm sau, cũng tác phẩm này, được Sở Văn hoá Khu tự trị Thái Mèo xuất bản, do Điêu Chính Ngâu, Hà Hem, Cầm Biêu khảo đính. Theo lời của nhà văn Mạc Phi, bản tiếng Việt do Sở Văn hoá Khu tự trị Thái Mèo xuất bản dài hơn bản do Nhà xuất bản Hội Nhà văn công bố là 30 câu. (3) Cả hai lần công bố đều là bản dịch tiếng Việt. Như thế, lần đầu tiên truyện thơ của dân tộc Thái được đến với bạn đọc cả nước. Cũng theo lời nhà văn Mạc Phi, tác phẩm này chưa hề được nói đến trên sách báo thời Pháp thuộc.

Năm 1960, Hà Hem, Lò Văn Cậy, Mạc Phi khảo đính, biên soạn một bản Xống chụ son sao (tiếng Thái), gọi tắt là bản 1960. Bản này có dung lượng dài hơn các bản tiếng Việt đã công bố năm 1957 (tại Hà Nội), 1958 (tại Tây Bắc); diễn biến của cốt truyện và của tâm trạng nhân vật có sự nhất quán rõ rệt, tất cả những chỗ lầm lẫn đã phát hiện đều được so sánh, sửa lại. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn hoá (thuộc Viện Văn học, Hà Nội) công bố bản dịch tiếng Việt dựa trên bản tiếng Thái năm 1960. Trong bản dịch này, nhà văn Mạc Phi đã thực hiện công việc khảo dị, chú thích hết sức kĩ lưỡng và cẩn thận. Còn nguyên bản tiếng Thái Xống chụ xon xao được Sở Văn hoá Khu tự trị Thái Mèo xuất bản năm 1962 (không in phần dịch tiếng Việt).

Năm 1961, Ty Văn hoá Cao Bằng xuất bản Nam Kim – Thị Đan (truyện thơ Tày) do Vũ Khoanh sưu tầm, Hoàng Hưng hiệu đính. (4)

Năm 1962, Nhà xuất bản Văn hoá công bố tập Văn học thiểu số trong bộ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Tập này do Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Mạc Phi, Hoàng Thao, Hà Văn Thư biên soạn. Tập này có mục “Truyện thơ”, với bản dịch tiếng Việt các tác phẩm sau: Nam Kim – Thị Đan (dân tộc Tày, do Nông Minh Châu trích dịch và chú thích), Út Lót – Vi Điêu (dân tộc Mường, do Đinh Sơn sưu tầm và trích dịch), Hùy Nga – Hai Mối (dân tộc Mường, trích dịch, tài liệu của Ty Văn hoá Hoà Bình), Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu, dân tộc Thái, trích bản dịch tiếng Việt của Mạc Phi đã được Nhà xuất bản Văn hoá công bố năm 1961), Khun Lú – náng Ủa (Chàng Lú – nàng Ủa, dân tộc Thái, trích bản dịch của Mạc Phi).

Như thế là năm 1962, Khun Lú – náng Ủa chỉ mới được trích dịch. Theo nhà văn Mạc Phi, những bản sách cổKhun Lú – náng Ủa là sách được người Thái chép bằng bút lông, mực nho trên giấy rướng, một thứ giấy mà đồng bào gọi là “chỉa năng sa”. Đây là một thứ giấy bản làm bằng vỏ cây rướng (một loại dó) do nhân dân địa phương tự sản xuất. Cho đến năm 1964, chỉ tính riêng những bản sách quý còn trọn vẹn từ trang đầu đến trang cuối được lưu trữ tại Sở Văn hoá – Thông tin Khu tự trị Tây Bắc cũng đã có tới trên hai chục bản. Tất cả các bản sách này “đều không có ghi một chỉ dẫn nào về chủ sách, người chép sách, sách sao theo bản nào, được tiến hành tại đâu, vào ngày tháng năm nào?” (5). Tháng 8 năm 1962, Sở Văn hoá Khu tự trị Thái – Mèo (sau đổi là Sở Văn hoá – Thông tin Khu tự trị Tây Bắc) đã cho công bố một văn bản Chàng Lú – nàng Ủa in máy, nguyên văn tiếng Thái, dài 1912 câu, sách dày 80 trang, khổ 13 x 19 cm. Đây là bản in đầu tiên của tác phẩm. Bản in này lấy một bản chép tay sưu tầm được ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La làm bản chính. Trong khi hiệu đính, những người soạn có đem so sánh, khảo dị với nhiều bản chép tay khác. “Nói chung, văn bản được xác lập một cách nghiêm túc, có công phu” (6). Năm 1964, bản dịch Chàng Lú – nàng Ủa của Mạc Phi được xuất bản tại Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. Cũng giống như bản dịch Tiễn dặn người yêu, bản dịch này được nhà văn tiến hành khảo dị, chú thích rất kĩ lưỡng.

Năm 1964, Nhà xuất bản Văn học công bố hai tập Truyện thơ Tày – Nùng, do nhà thơ Nông Quốc Chấn giới thiệu. Trong hai tập này có bản dịch bảy truyện thơ: Nam Kim – Thị Đan (bản dịch của Nông Viết Toại, Hà Vũ Khoanh, Hoàng Rạng); Lưu Đài – Hán Xuân (bản dịch của Hoàng An Định); Kim Quế (bản dịch của Hoàng Tuấn Nam); Truyện chim sáo (bản dịch của Hoàng An Định); Đính Quân (bản dịch của Nông Minh Châu); Quảng Tân – Ngọc Lương (bản dịch của Nông Minh Châu); Trần Châu (bản dịch của Hoàng Quyết). (7) Việc in ấn được thực hiện chính xác, khoa học, nhiều từ ngữ, chi tiết khó hiểu được chú giải thoả đáng đối với người đọc tiếng phổ thông.

Về truyện thơ Mường, năm 1964, Nhà xuất bản Văn học in cuốn sách Truyện thơ Mường với bản dịch bốn tác phẩm: Út Lót – Hồ Liêu, Nàng Nga – Hai Mối, Nàng Ờm – chàng Bồng Hương, Nàng Con Côi, do Minh Hiệu và Hoàng Anh Nhân sưu tầm, dịch và giới thiệu. (8) Khâu xử lí dị bản được tiến hành khoa học. Thí dụ, có nhiều bảnÚt Lót – Hồ Liêu, Minh Hiệu ghi được sáu bản có đủ từ đầu đến cuối cốt truyện. Nhưng mỗi bản lại có những điểm khác nhau, về số lượng, có bản ngắn chỉ độ 150 câu, bản dài nhất gần 500 câu, có đoạn ở bản này được kể tới gần một trăm câu thì ở bản khác lại chỉ tóm lại trong vài câu. Ngoài sáu bản trên, Minh Hiệu còn ghi được hàng chục đoạn lẻ tẻ, khá chi tiết từ lời kể của những người nhớ không đầy đủ. Trong khi dịch, Minh Hiệu đã so sánh, đối chiếu và chắp nối, chỉnh lí lại, để có một bản tương đối hoàn chỉnh. Sau đó, người biên soạn đem đọc cho một số nghệ nhân và cán bộ người dân tộc Mường nghe. “Những người được hỏi ý kiến đều nhất trí thừa nhận bản dịch này vừa giữ được nội dung thống nhất, vừa đầy đủ các chi tiết, và trật tự sự việc xảy ra cũng hợp lí hơn. Về lời thơ được chọn lấy ở các bản khác nhau để dịch vào bản này cũng làm được tương đối thoả đáng”. (9)

Về truyện thơ H’mông, năm 1964, truyện thơ Lù chạ ua nhăng (Tiếng hát làm dâu), do Bùi Lạc sưu tầm, Bùi Lạc và Mạc Phi dịch, chú thích, được Nhà xuất bản Tây Bắc công bố. Lúc này, tác phẩm được gọi là “dân ca”. Đáng chú ý, đây là một truyện thơ được công bố đồng thời cả bản dịch tiếng Việt và bản phiên âm tiếng dân tộc. Đáng quý hơn nữa, công việc này lại do một nhà xuất bản địa phương thực hiện.

Năm 1967, Nhà xuất bản Văn học công bố tập Dân ca Mèo (10) do Doãn Thanh sưu tầm, biên dịch. Sách không có phần phiên âm tiếng dân tộc. Ở đây có truyện thơ Nàng Nhàng Dợ – chàng Chà Tăn (11).Truyện này khá phổ biến ở vùng Sa Pa (Lào Cai).

Như vậy, ở những năm 60 của thế kỉ XX, bên cạnh truyện thơ Thái, đã có thêm truyện thơ Tày – Nùng, truyện thơ H’mông, truyện thơ Mường được xuất bản.

Năm 1973, truyện thơ Xống chụ xon xao do Mạc Phi dịch được Nhà xuất bản Văn học tái bản, có sửa chữa. Ở đây chỉ có bản dịch tiếng Việt.(12)

Cùng năm 1973, Nhà xuất bản Văn hoá công bố truyện thơ Mường Đang vần va do Đinh Văn Ân sưu tầm và dịch. Truyện này còn có một tên gọi khác là Vườn hoa núi Cối. Người Mường ở Hoà Bình có lưu truyền truyện này. Bản do Đinh Văn Ân sưu tầm là một dị bản của người Mường ở bản Thải, châu Phù Yên, tỉnh Sơn La. Sách này không có phần phiên âm tiếng dân tộc.

Cũng trong năm 1973, truyện thơ Thái Khăm Panh (do Bùi Văn Tiên, Vương Anh, Hoàng Anh Nhân phiên âm, dịch) được Ty Văn hoá Thanh Hoá xuất bản. Tuy đây là một quyển sách do địa phương xuất bản nhưng có cả phần phiên âm tiếng Thái và bản dịch tiếng Việt. Để công bố tác phẩm này, Tiểu ban Văn nghệ dân gian của tỉnh Thanh Hoá đã tiến hành việc đối chiếu các văn bản tiếng Thái với lời kể của các nghệ nhân. Sau khi bản phiên âm và bản dịch được hoàn thành, bản thảo đã được trình bày tại hai cuộc tọa đàm, được các nghệ nhân và các vị lãnh đạo người dân tộc đọc lại, góp ý rất chi tiết. (13). Đây là một cách làm việc khoa học.

Năm 1976, Tráng Đồng (tập truyện thơ dân gian dân tộc Mường) do Mai Văn Trí, Bùi Thiện sưu tầm, biên dịch, chú thích và giới thiệu được Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội công bố. Tập sách gồm có ba truyện thơ (Tráng Đồng, Cun Đủ Lang Đà, Vườn hoa núi Cối) được sưu tầm ở Hoà Bình. Đáng chú ý là, nếu những người sưu tầm, biên dịch khác cho rằng Út Lót – Hồ LiêuNàng Nga – Hai Mối là hai tác phẩm riêng rẽ thì nhóm biên dịch sách này căn cứ vào “nhiều mối liên hệ trùng lặp và bằng vào sự kể lại của một số nghệ nhân am hiểu nhiều truyện”, đã xếp chúng vào một tác phẩm và lấy tên là truyện “Cun Đủ Lang Đà” (14). Sách Tráng Đồng không có phần phiên âm tiếng Mường.

Năm 1977, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc tái bản Xống chụ xon xao (bản dịch của Mạc Phi), Khăm Panh (bản dịch của Bùi Văn Tiên, Vương Anh, Hoàng Anh Nhân).

Năm 1978, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc công bố truyện thơ Tần Chu (tức Trần Châu) của người Tày, do Cần Slao Slec chú thích, Nông Phúc Tước giới thiệu (15).

Năm 1979, Nhà xuất bản Văn học in lần thứ hai tập VI có tên là Văn học dân tộc ít người của bộ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Ở lần xuất bản này, tập thể tác giả được ghi như sau: “Nông Quốc Chấn chủ biên, giới thiệu; Hoàng Thao, Hà Văn Thư, Mạc Phi, Trần Văn Tấn biên soạn chú giải”. Đúng như ban biên soạn đã viết, kể từ tháng 5 năm 1962 (khi tập Văn học dân tộc thiểu số ra đời) đến khi họ chuẩn bị bản thảo để xuất bản lần này, “đã hơn 15 năm qua. Trong thời gian ấy, việc sưu tầm và giới thiệu vốn cổ văn học dân tộc ít người càng được đẩy mạnh, tiến hành có hệ thống và khoa học hơn. Bằng chứng là sự ra mắt độc giả hàng loạt cuốn trường ca, truyện thơ, các loại dân ca, truyện cổ… của nhiều dân tộc do các nhà xuất bản ở trung ương cũng như ở địa phương các tỉnh trên miền Bắc ấn hành”. Tuy rằng văn học cổ truyền của nhiều dân tộc ở miền Nam “chưa được khai thác và giới thiệu thoả đáng” (do đất nước bị chia cắt tới 30/4/1975) nhưng “chúng ta đã có nhiều cố gắng về mặt này” (16). So với tuyển tập ra đời năm 1962, tuyển tập Văn học dân tộc ít người ra mắt năm 1979 dồi dào hơn và mới hơn về tư liệu. Do đó, “thực chất cơ cấu tuyển tập Văn học dân tộc ít người lần này khác cuốn thứ nhất rất nhiều” (17). Tuyển tập lần này in thành hai quyển. Ở quyển hai có 16 truyện  thơ của năm dân tộc được trích in. Đó là bốn truyện thơ Mường: Út Lót – Hồ Liêu (Minh Hiệu sưu tầm, dịch), Huỳ Nga – Hai Mối (M.T. dịch theo bản sưu tầm của Đinh Công Niết), Nàng Ờm – chàng Bồng Hương (Hoàng Anh Nhân sưu tầm, dịch), Vần va (Đinh Ân sưu tầm, dịch); năm truyện thơ Tày – Nùng: Truyện chim sáo (Hoàng An Định sưu tầm, dịch), Nam Kim – Thị Đan (Nông Viết Toại sưu tầm, dịch), Lưu Đài – Hán Xuân (Hoàng An Định sưu tầm, dịch), Quảng Tân – Ngọc Lương (Nông Minh Châu sưu tầm, dịch), Trần Châu (Hoàng Quyết sưu tầm, dịch); bốn truyện thơ Thái: Tiễn dặn người yêu (Mạc Phi dịch), Chàng Lú – nàng Ủa (Mạc Phi dịch), Khăm Panh (Bùi Văn Tiên, Vương Anh, Hoàng Anh Nhân sưu tầm, dịch), Tóng Đón – Ăm Ca (Lò Văn Sỹ dịch); một truyện thơ Giáy: Pi Ít Trai Phù Sỹ (Thèn Sèn sưu tầm, dịch); hai truyện thơ H’mông: Nhàng Dợ và Chà Tăng (Doãn Thanh sưu tầm, dịch), Tiếng hát làm dâu (Bùi Lạc, Mạc Phi sưu tầm, dịch).

Như thế, ở những năm 70, bên cạnh việc tái bản những tác phẩm đã in từ thập kỉ trước, cả hai dân tộc Thái, Mường đều tiếp tục công bố truyện thơ mới được sưu tầm. Cho đến những năm 70, ngoài truyện thơ của bốn dân tộc Thái, Tày, Mường, H’mông, có thêm truyện thơ của dân tộc Giáy được người đọc cả nước biết đến; tuy rằng việc giới thiệu truyện thơ của dân tộc này còn hạn chế: chỉ mới tóm tắt nội dung và trích dịch (18).

Năm 1981, tập VI: Văn học dân tộc ít người (của bộ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam) được tái bản, in lại 16 bản trích dịch truyện thơ của năm dân tộc (Thái, Tày, Mường, H’mông, Giáy) mà bạn đọc đã được biết từ năm 1979.

Năm 1983, Sở Văn hoá – Thông tin Bắc Thái xuất bản cuốn sách Tam Mậu Ngọ do Bế Sĩ Uông, Ma Trường Nguyên sưu tầm, phiên âm, dịch, biên soạn và giới thiệu. Sách này công bố bản dịch một truyện thơ Nôm Tày, sưu tầm ở Bắc Cạn.

Năm 1983, Nhà xuất bản Văn hoá công bố Truyện thơ Chàm do Tùng Lâm, Quảng Đại Cường sưu tầm, biên soạn. Sách này chỉ có bản dịch tiếng Việt, gồm bảy truyện thơ:

  1. Hoà-nô (theo Nhà xuất bản Văn hoá, truyện này còn có tên là Tề-wa-mừ-nô);
  2. Y-nha Pa-tờ-ra;
  3. Hai anh em;
  4. Hoàng tử Um-rúp và cô gái chăn dê;
  5. Công chúa A-mi-sa-ra;
  6. Hoàng hậu Cư-mi-ra;
  7. Aria Chăm – Bni.

Trong số bảy truyện trên, các truyện 2, 4, 6, 7 có ghi tên người kể. Trong nhóm sưu tầm, biên soạn, Quảng Đại Cường là người Chăm. Rất tiếc đây là một tập sách kém chất lượng, thậm chí có hại (19). Sách này kém chất lượng vì Quảng Đại Cường không căn cứ vào văn bản mà chỉ dịch theo trí nhớ, vì có những chỗ dịch giả bịa ra với ngộ nhận rằng làm như vậy là “nâng cao” “cho phù hợp với nhân sinh quan thời đại” (20).

Năm 1984, bản chữ Thái La tinh Xống chụ xon xao do Mạc Phi sưu tầm và biên soạn được Nhà xuất bản Văn hoá công bố. Sách này không có bản dịch tiếng Việt.

Năm 1984, Nhà xuất bản Văn học công bố Dân ca H’mông. Sách này ghi: Doãn Thanh sưu tầm, dịch; Hoàng Thao tuyển, chỉnh lý; Chế Lan Viên giới thiệu. Sách này chỉ có bản dịch tiếng Việt. Trong phần “Tiếng hát làm dâu” có trích truyện thơ Nàng Dợ – Chà Tăng (tr. 229 – 250), trích truyện thơ A Thào – Nù Câu (tr. 250 – 268) và in đầy đủ bản dịch một tác phẩm lấy tên là truyện thơ Tiếng hát làm dâu Tây Bắc (tr. 268 – 284). Văn bản Tiếng hát làm dâu Tây Bắc (từ lời dịch đến chú thích) giống bản dịch Tiếng hát làm dâu (1964) của Bùi Lạc, Mạc Phi đến 97 – 98%.

Năm 1986, Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành Tuyển tập truyện thơ Mường, hai tập, do Hoàng Anh Nhân tuyển lựa và giới thiệu. Người soạn quan niệm “bản sử thi vĩ đại Đẻ đất đẻ nước” cũng là truyện thơ và dành trọn tập I cho nó” (21). Tập II dành cho bản dịch của bốn truyện thơ được lưu truyền ở Thanh Hoá: Út Lót – Hồ Liêu(bản dịch của Minh Hiệu), Nàng Nga – Hai Mối (Minh Hiệu sưu tầm, biên dịch, chỉnh lí), Nàng Ờm – chàng Bồng Hương (Hoàng Anh Nhân sưu tầm, biên dịch), Nàng Con Côi (Hoàng Anh Nhân sưu tầm, dịch).

Năm 1987, bản dịch truyện thơ Mường Vườn hoa núi Cối của Đinh Văn Ân được tái bản.

Như thế, trong những năm 80, có thêm bản dịch của truyện thơ Chăm được công bố, nâng thành con số đã có sáu dân tộc thiểu số có truyện thơ được xuất bản. Đáng tiếc bản dịch truyện thơ Chăm không đảm bảo giá trị khoa học và tính nghiêm túc.

Năm 1991, Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố truyện thơ Ú Thêm của người Thái do Hà Văn Ban, Hoàng Anh Nhân sưu tầm và biên dịch, Đặng Nghiêm Vạn giới thiệu. Sách này có cả bản chữ Thái, bản phiên âm chữ Thái và bản dịch (22).

Về truyện thơ của người Cao Lan, năm 1991, Uỷ ban Nhân dân huyện Đoan Hùng và Sở Văn hoá – Thông tin và Thể thao tỉnh Vĩnh Phú xuất bản bản dịch Kó Lau Slam (Truyện tình thơ Cao Lan) do Lâm Quý biên dịch.

Trong các năm 1990 – 1991, theo lời mời của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, GS. Đặng Nghiêm Vạn đã chủ trì một nhóm biên soạn gồm có PGS. TS. Đặng Văn Lung, GS. Lương Ninh, các nhà nghiên cứu Lục Văn Pảo, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu, GS. Đặng Nghiêm Vạn và PGS. Lê Trung Vũ. Đến cuối năm 1991, tuyển tập do nhóm biên soạn tiến hành đã hoàn thành. Năm 1992, bộ sách được công bố với tên gọi Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam. Tuyển tập gồm bốn quyển, chỉ có bản dịch tiếng Việt, “vì chưa có điều kiện giới thiệu các tác phẩm bằng tiếng mẹ đẻ”. (23). Quyển thứ hai của tuyển tập có năm truyện thơ Mường: Tráng Đồng (sử dụng bản dịch của Mai Văn Trí và Bùi Thiện đã công bố năm 1976), Út Lót – Hồ Liêu (sử dụng bản dịch của Minh Hiệu đã công bố năm 1986), Vườn hoa núi Cối (sử dụng bản dịch của Mai Văn Trí (24), Bùi Thiện đã công bố năm 1976), Nàng Ờm – chàng Bồng Hương (sử dụng văn bản của Hoàng Anh Nhân công bố năm 1986 trong Tuyển tập truyện thơ Mường), Nàng Nga – Hai Mối (sử dụng văn bản của Minh Hiệu công bố năm 1986); có ba truyện thơ Thái: Xống chụ xon xao (sử dụng bản dịch của Điêu Chính Ngâu đã công bố năm 1957), Chàng Lú – nàng Ủa (sử dụng bản dịch của Mạc Phi đã in năm 1964), Ú Thêm (tuyển tập không đề là sử dụng bản dịch nào, qua đối chiếu chúng tôi thấy đây là bản dịch đã công bố trong sách Trường ca Ú Thêm do Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố năm 1991); có các truyện thơ H’mông: Tiếng hát làm dâu (sử dụng bản dịch của Doãn Thanh đã công bố các năm 1967, 1984), Nàng Dợ – Chà Tăng (sử dụng bản trích dịch của Doãn Thanh đã công bố các năm 1967, 1984), A Thào – Nù Câu (sử dụng bản trích dịch của Doãn Thanh đã công bố năm 1984), Tiếng hát làm dâu Tây Bắc (sử dụng bản dịch của Doãn Thanh công bố năm 1984). Quyển thứ ba của tuyển tập có ba truyện thơ Tày: Đính Quân, Nam Kim – Thị Đan, Lưu Đài – Hán Xuân (sử dụng bản dịch đã công bố trong Truyện thơ Tày Nùng (năm 1964), riêng đối với Lưu Đài – Hán Xuân, ông Lục Văn Pảo “đã dịch lại” những chỗ của bản dịch trước không thật dễ hiểu” (25); có bảy truyện thơ Chăm (là bảy truyện đã được Tùng Lâm, Quảng Đại Cường công bố năm 1983).

Như vậy, trên cơ sở kế thừa các thành tựu đã được công bố thành sách, trong Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam, GS. Đặng Nghiêm Vạn và các cộng sự đã giới thiệu năm truyện thơ Mường, ba truyện thơ Thái, một số truyện thơ H’mông, ba truyện thơ Tày, bảy truyện thơ Chăm. Có trường hợp các soạn giả làm công việc giám định bản dịch của người đi trước (như việc ông Lục Văn Pảo đã thực hiện đối với truyện thơ Lưu Đài – Hán Xuân). Còn ở nhiều trường hợp khác, nhóm biên soạn không giám định, không phân tích bản gốc, bản dịch, lấy nguyên xi cả bảy truyện thơ Chăm kém chất lượng (đã được phân tích ở trên). Đáng tiếc hơn, đối với những chú thích đã có ở các bản dịch trước nhằm giúp bạn đọc người Kinh (Việt) và đồng bào các dân tộc khác dễ tiếp nhận hơn và hiểu đúng hơn tác phẩm thì ở tuyển tập này, những người biên soạn lại bỏ đi. Thí dụ, trước khi trình bày bản dịch Nàng Dợ – Chà Tăng, Doãn Thanh có một đoạn tiểu dẫn cho biết tác phẩm này được lưu truyền khá phổ biến ở vùng Sa Pa, tỉnh Lao Cai, do ông Thào A Lử làm ở tuyên giáo xã Lao Chải, huyện Sa Pa kể bằng tiếng H’mông. Trong lời của nhân vật Chà Tăng ở bản dịch năm 1967 của Doãn Thanh (tr. 91) có ba dòng như sau:

“Nàng ở lại, nàng như cái chổi của mẹ của cha quét dọn (25b).

Quét dọn trên nhà dưới bếp

Ta đi, ta đi như chim lấu dì chinh (25c) ca hát chốn rừng xanh…”

Doãn Thanh đã giải thích:

(1) Ý nói nên chăm chỉ công việc nhà

(2) Lấu dì chinh (lâur zix txinh): loài chim cu, chim mái ấp trứng, chim đực chỉ quanh quẩn ở bên, mùa rét không gáy tiếng nào.

Trong quyển thứ hai của tuyển tập (tr. 649 – 650), các soạn giả bỏ đoạn tiểu dẫn của Doãn Thanh, không in nghiêng lấu dì chinh và cũng bỏ hai chú thích trên.

Năm 1993, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc công bố truyện thơ Thái Hiến Hom – Cầm Đôi do Lò Văn Cậy sưu tầm, biên soạn, Đinh Văn Ân dịch. Đây là sách song ngữ (gồm chữ Thái La tinh và bản dịch tiếng Việt).

Năm 1993, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc in cuốn sách Kó Lau Slam. Sách này có bản phiên âm tiếng Cao Lan và bản dịch thơ. Với nguyên tác là thơ bảy tiếng (bảy âm tiết) trường thiên (26), Lâm Quý dịch ra thơ Việt theo thể tự do.

Năm 1994, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc công bố Truyện thơ Nôm Tày, tập I do Hoàng Quyết và Triều Ân sưu tầm, dịch thuật, chú thích, giới thiệu. Tập này giới thiệu năm truyện thơ: Nhân Lăng, Bioóc Lả, Chiêu Đức, Lý Thế Khanh, Nho Hương. Sau lời nói đầu dài 4 trang, tập này gồm hai phần. Phần đầu là bản dịch tiếng Việt bốn tác phẩm, phần sau là bản phiên âm tiếng Tày. Sách này không có nguyên bản chữ Nôm Tày. Nếu nguyên tác là thơ bảy tiếng, không gieo vần chân như thơ Đường luật, mà vị trí gieo vần giống như hai câu song thất (trong thể song thất lục bát) của người Việt thì bản dịch cũng gieo vần như vậy (27). Trước mỗi bản dịch, dịch giả đều có bài viết ngắn phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật và cả hạn chế của tác phẩm. Phần chú giải phong phú, với dung lượng câu chữ ở từng chú giải vừa phải giúp người đọc rộng rãi hiểu tác phẩm dễ hơn. Thí dụ, ở bản dịch truyện thơ Nhân Lăng có 130 chú thích. Đối với người đọc là người Việt (Kinh) hoặc là các dân tộc khác, việc chú thích, chẳng hạn, như thế này là rất cần thiết: “(1) Hoa mạ, một loài hoa rừng nở vào mùa xuân, hương rất thơm”. (tr. 93). Bản dịch truyện thơ Bióoc Lả có 137 chú thích. Bản dịch truyện thơ Chiêu Đức có 206 chú thích. Bản dịch truyện thơ Lý Thế Khanh có 334 chú thích. Bản dịch truyện thơ Nho Hương có 261 chú thích.

Năm 1994, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc công bố truyện thơ Nam Kim – Thị Đan do Hoàng Quyết biên dịch. Với nguyên tác là “thơ bảy chữ trường thiên gieo vần lưng” (chữ dùng của Hoàng Quyết), dịch giả dịch theo thể song thất lục bát. Sau bản dịch là phần phiên âm tiếng Tày.

Năm 1995, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc công bố Tuyển tập truyện thơ dân gian Mường do Bùi Thiện sưu tầm, biên soạn, dịch. Không có bản phiên âm tiếng Mường, sách này giới thiệu bản dịch 12 truyện thơ (theo quan niệm của soạn giả) dưới đây:

  1. Dạ Dần trồng hoa
  2. Vua Dần vái thơi
  3. Đón bông cơm vía lúa
  4. Sinh nứa – Cờ pèn
  5. Đẻ Núi trọc
  6. Chàng Khoong Kheng
  7. Nàng Vật Nga (tức Truyện nàng Hằng Nga)
  8. Chàng Thông Đế Thông Đền
  9. Tráng Đồng
  10. Chàng Chiết Chiết
  11. Vườn hoa núi Cối
  12. Cun Đủ lang Dà (gồm hai truyện Út Lót – Hồ Liêu (còn gọi là Út Khót – Hồ Liêu) Nàng Nga – Hai Mối).

Khác với Bùi Thiện, ở đây có  tám tác phẩm mà chúng tôi không quan niệm là truyện thơ (từ số 1 đến số 8).Cuốn sách chưa được biên tập cẩn thận. Các truyện số 3 và số 4 có tên gọi ở lời nói đầu và mục lục khác với tên gọi ở bên trong (xem các trang 47, 58). Việc viết hoa, viết thường hết sức tuỳ tiện, thiếu nhất quán.

Năm 1996, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, công bố Văn học Chăm. Tập II: Trường ca, do Inrasara biên soạn. Trong tập này có truyện thơ Um Mưrup. (Ở sách của Tùng Lâm và Quảng Đại Cường (1983), đây là truyện Hoàng tử Um-rúp và cô gái chăn dê). Đây là cuốn sách biên soạn công phu, khoa học, trình bày tư liệu theo kiểu đối sánh: một bên là bản phiên âm tiếng Chăm, trang bên là bản dịch tiếng Việt.

Năm 1996, Nhà xuất bản Nghệ An ấn hành Truyện thơ và đồng dao Thái miền Tây Nghệ An do La Quán Miên sưu tầm và dịch. Sách gồm hai phần: phần đầu là truyện thơ; phần sau là đồng dao. Trong phần truyện thơ, người soạn giới thiệu bốn tác phẩm: Trông mường, Chim phượng hoàng, Chàng Hún Lu nàng Ùa Piểm, Nàng Căm chàng Ín. Mỗi tác phẩm đều có phần phiên âm tiếng Thái và bản dịch tiếng Việt, cuối phần phiên âm tiếng Thái có ghi rõ tên, địa chỉ người cung cấp tác phẩm. Theo quan niệm của chúng tôi, hai tác phẩm đầu thuộc về dân ca, không phải là truyện thơ.

Tổng tập văn học Việt Nam là một bộ sách đồ sộ do GS. Đinh Gia Khánh làm Chủ tịch Hội đồng biên tập. Theo kế hoạch ban đầu, bộ sách gồm 36 tập với khoảng hơn 40 quyển. Năm 1980, Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố tập 1 và tập 36, tức là cắm hai cái mốc đầu tiên và kết thúc của bộ sách. Rất tiếc, trong quá trình biên soạn, do tình hình tư liệu, do có sự điều chỉnh trong việc đánh giá một số tác giả, trào lưu văn học (28), đến năm 1997 là lúc in xong tất cả công trình, bộ sách không chỉ không thống nhất về khổ sách giữa các tập (29) mà còn vượt quá con số 36 tập, tuy rằng một số tập đã phải chia thành tập A, tập B. (Thí dụ, tập 28 dành để giới thiệu phần văn xuôi lãng mạn (các sáng tác văn xuôi của Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, Thạch Lam, Xuân Diệu), do GS. Hà Minh Đức làm chủ biên, công bố năm 1994, in thành hai tập 28A và 28B). Các tập 37A, 37B, 37C do GS. Đặng Nghiêm Vạn làm chủ biên, in xong năm 1996, dành để giới thiệu văn học các dân tộc thiểu số. Tổng tập văn học Việt Namđặt cho mình nhiệm vụ là giới thiệu một cách có hệ thống diện mạo lịch sử một nghìn năm văn học viết của Việt Nam từ thế kỉ X cho đến ngày 2 tháng 9 năm 1945 với bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bộ sách này, việc GS. Đặng Nghiêm Vạn tuyển vào cả văn học dân gian là một việc làm chưa đúng chỗ. Trong phần văn học dân gian các dân tộc thiểu số, có những truyện thơ sau: ba truyện thơ Thái (Tiễn dặn người yêu,Chàng Lú – nàng Ủa, U Thềm), ba truyện thơ Tày (Đính Quân, Nam Kim – Thị Đan, Lưu Đài – Hán Xuân), năm truyện thơ Mường (Vần Va, Tráng Đồng, Út Lót – Hồ Liêu, Nàng Ờm – chàng Bồng Hương, Nàng Nga – đạo Hai Mối), các truyện thơ H’mông (Tiếng hát làm dâu, trích Nàng Dợ – Chà Tăng, trích A Thào và Nù Câu), bảy truyện thơ Chăm (đưa tất cả các truyện trong sách Truyện thơ Chàm của Tùng Lâm và Quảng Đại Cường đã in năm 1983 vào đây) (30).

Trong hai năm 1997 – 1998, Hội Văn học nghệ thuật và Sở Văn hoá – Thông tin – Thể thao tỉnh Sơn La công bố bộ sách Truyện thơ trường ca dân gian Thái gồm ba tập bằng tiếng Thái cổ (không có bản dịch tiếng Việt), trong đó tập 1 (in năm 1997) giới thiệu mười truyện thơ: Xống chụ xôn xao, Khun Lú – nàng Ủa, Ý Đón Ý Đăm, Ý Nọi Náng Xưa, Náng ý Tú, Náng Phôm Hom, Tạo láng Hôm Náng Hai, Hiến Hom, Tóng Đón Ăm Ca, Xông Ca Xy Cáy; tập 2 (in năm 1997) giới thiệu 11 truyện thơ: Quám Khun Tính, Quám Ca Đông, Quám Kén Kẻo, Út Ỏ, Ngú Háo, U Thến, Thi Thốn, Pha Mệt, Pha Cáng, Thi Thặt, Náng Cống Cắm Đanh; tập 3 (in năm 1998) giới thiệu hai truyện thơ: Trái Kắm, Sam Lướng – Inh Lái.

Năm 1999, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc in truyện thơ Thái Ý nọi – nàng Xưa (Em bé – nàng Hổ) do Lò Ngọc Duyên sưu tầm và dịch. Sách gồm có các phần: lời giới thiệu, tóm tắt nội dung, phần tiếng Việt, phần phiên âm tiếng Thái, phần chữ Thái cổ.

Năm 1999, Nhà xuất bản Giáo dục công bố Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam do Viện Văn học chủ trì,gồm năm tập (bảy quyển). Tập V dành cho sử thi và truyện thơ, do Đặng Văn Lung và Sông Thao biên soạn và tuyển chọn. Phần truyện thơ gồm có hai truyện thơ Mường (Nàng Nga – Hai Mối, Nàng Ờm – chàng Bồng Hương), hai truyện thơ Tày (Nam Kim – Thị Đan, Lưu Đài – Hán Xuân), bốn truyện thơ Thái (Chàng Lú – nàng Ủa, Tiễn dặn người yêu, Tào Hủn Lu – Náng Ông Piềm, Chim Yểng), hai truyện thơ Chăm (Hoàng hậu Cưrima, Aria Chăm Bni). Mười truyện thơ này đều không có bản phiên âm tiếng dân tộc và sử dụng các bản dịch của Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân, Nông Viết Toại, Hoàng An Định, Hoàng Quyết, Mạc Phi, Điêu Chính Ngâu,… ở các sách đã xuất bản. Đáng tiếc là hai truyện thơ Chăm do sử dụng bản dịch từ Truyện thơ Chàm (1983) nên đã một lần nữa “xã hội hoá” những sai lầm của Tùng Lâm và Quảng Đại Cường (31).

Như vậy, trong những năm 90 việc xuất bản mới và tái bản truyện thơ các dân tộc thiểu số phong phú hơn về số lượng so với những năm 80. Ở thập kỉ này, có nhiều sách song ngữ được xuất bản, đặc biệt Hội Văn học nghệ thuật và Sở Văn hoá – Thông tin – Thể thao tỉnh Sơn La đã công bố 23 truyện thơ Thái bằng chữ Thái Đen. Với soạn giả Inrasara, truyện thơ Chăm được biên dịch công phu và xuất bản dưới dạng sách song ngữ (tuy chưa có chữ Chăm, chỉ có phần phiên âm đặt đối sánh với bản dịch tiếng Việt). Đã có thêm truyện thơ của dân tộc Cao Lan được xuất bản, nâng số lượng các dân tộc có truyện thơ được giới thiệu với người đọc cả nước lên con số bảy (Thái, Tày, Mường, H’mông, Giáy, Chăm, Cao Lan).

Năm 2000, Tổng tập văn học Việt Nam được Nhà xuất bản Khoa học xã hội tái bản “có chỉnh lí và bổ sung”. Trong một năm, 42 tập (khổ 16 x 24 cm) của cả bộ sách cùng ra mắt bạn đọc. Ở lần xuất bản này, các tập 37A, 37B, 37C thành các tập 39, 40, 41. Phần truyện thơ các dân tộc thiểu số vẫn là phần đã công bố năm 1996, không có sửa chữa, bổ sung. Và như vậy, đây là lần thứ ba, bảy truyện thơ do Tùng Lâm và Quảng Đại Cường biên dịch được xuất bản (32).

Năm 2000, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc cho ra mắt cuốn Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) do Nguyễn Khôi biên soạn. Sau “Lời nhà xuất bản”, sách gồm các phần sau:

+ Bản chữ Thái;

+ Bản dịch thơ, chú thích của nhà văn Mạc Phi;

+ Bản phiên âm tiếng Thái;

+ Bản dịch thơ của Điêu Chính Ngâu;

+ Bản chuyển thơ Việt của Nguyễn Khôi;

+ Bài viết “Xống chụ xon xao bản tình ca bất hủ” của Vương Trung, nhà thơ dân tộc Thái;

+ Bài “Đôi lời về Xống chụ xon xao” của Nguyễn Khôi.

Bản chữ Thái (tr. 8 – 74) là bản chụp chữ viết tay, được thực hiện chưa thật khoa học (33).

Trong một cuốn sách, người biên soạn đem đến cho người đọc hai bản dịch của hai dị bản với hai phong cách dịch khác nhau (một của Điêu Chính Ngâu, một của Mạc Phi) đối với một kiệt tác là điều bổ ích.

Nguyễn Khôi không dùng từ “dịch” mà dùng cụm từ “chuyển thể thơ” để gọi việc ông chuyển Xống chụ xon xao sang thơ Việt theo thể song thất lục bát. Theo lời tác giả với khoảng 180 câu đầu vào truyện và tả cảnh thai nghén của “mẹ yêu”, ông đã “gom” lại còn 12 câu mở đầu cho bản chuyển thể của mình (tr. 412 – 413). Như đã thấy ở trên, năm 1994, nhà giáo Hoàng Quyết đã dùng thể song thất lục bát để dịch Nam Kim – Thị Đan. Khi dịch, ông “vừa cố gắng tôn trọng từng lời trong nguyên bản, vừa dịch thoát ý theo từng câu. Do vậy có nhiều câu không hạ được vần” (34).So sánh như vậy để thấy rằng Nguyễn Khôi đã chuyển thể, đã phóng tác, chứ không “dịch”(35) Xống chụ xon xao. Đây là một việc làm khá mới mẻ. Chúng tôi ghi nhận nhiệt tình và sự tự tin của soạn giả Nguyễn Khôi (xem các tr. 395 – 396, 400, 412 – 413). Còn việc tiếp nhận bản chuyển thể này như thế nào, hưởng ứng nó ra sao phụ thuộc vào khẩu vị của từng bạn đọc. Cuốn sách này đã bỏ một số chú thích trong bản dịch của Mạc Phi, có những chỉ dẫn không chính xác đối với bạn đọc, không đáng tin cậy.

Năm 2000, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La công bố Đang vần va (tức truyện thơ Vườn hoa núi Cối) của dân tộc Mường, do Đinh Văn Ân sưu tầm, dịch, chú thích và giới thiệu. Như đã nói ở trên, trong các năm 1973, 1987 bản dịch này đã được xuất bản. Nhưng vì chưa có phần tiếng Mường nên nó chưa đáp ứng được nhu cầu của đông đảo bạn đọc, nhất là bạn đọc người Mường. Vì vậy, lần này Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La đã công bố cả phần tiếng Mường và phần tiếng Việt.

Năm 2001, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc ấn hành cuốn sách Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, do Nguyễn Văn Hoà sưu tầm, biên dịch. Sách này giới thiệu bản kể truyện dân gian Khun Lù – nàng Ủa (36). Đáng chú ý, người soạn đã giới thiệu bản dịch tiếng Việt truyện truyền miệng dưới dạng văn xuôi, nguyên bản truyện thơ tiếng Thái và phần dịch ra thơ tiếng Việt theo thể lục bát. Đây là cách làm công phu, khoa học. Những ấn phẩm như thế này chỉ có thể được in trong điều kiện kinh tế đất nước không gặp khó khăn hoặc được nước ngoài tài trợ. Cuốn sách của Nguyễn Văn Hoà đã được xuất bản dưới sự tài trợ của Quỹ Thụy Điển – Việt Nam phát triển văn hoá.

Năm 2002, Nhà xuất bản Kim Đồng công bố bản dịch Tiễn dặn người yêu của Mạc Phi. Sách không có bài tiểu luận và không ghi các dị bản.

Năm 2002, Nhà xuất bản Đà Nẵng công bố bộ sách Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, nhóm biên soạn còn có Lê Trung Vũ, Nguyễn Thị Huế, Đỗ Hồng Kỳ, Trần Thị An và Tăng Kim Ngân. Bộ sách gồm bốn tập (sáu quyển). Tập 4 dành cho việc giới thiệu truyện thơ. Đó là bốn truyện thơ Thái:Tiễn dặn người yêu (sử dụng bản dịch của Mạc Phi, bản in năm 1977), Chàng Lú – nàng Ủa (sử dụng bản dịch của Mạc Phi đã công bố năm 1964), U Thềm (sử dụng bản dịch của Hà Văn Ban, Hoàng Anh Nhân đã công bố năm 1990), Út Ỏ về Kinh (trích, sử dụng bản in trên Tạp chí Dân tộc học, số 4 năm 1979); năm truyện thơ Mường:Tráng Đồng (sử dụng bản dịch của Mai Văn Trí (37) và Bùi Thiện đã công bố năm 1976), Út Lót – Hồ Liêu (sử dụng bản dịch của Mai Văn Trí (38), Bùi Thiện đã công bố năm 1976), Nàng Ờm – chàng Bồng Hương (sử dụng bản dịch của Hoàng Anh Nhân đã công bố năm 1986), Nàng Nga – Hai Mối (sử dụng bản dịch của Minh Hiệu đã công bố năm 1986), bốn truyện thơ Tày: Nam Kim – Thị Đan (bản dịch của Nông Viết Toại, Hà Vũ Khoanh, Hoàng Rạng đã công bố năm 1964, nhóm biên soạn dùng bản in lại năm 1996 từ Tổng tập văn học Việt Nam, tập 37C), Lưu Đài – Hán Xuân (sử dụng bản dịch của Lục Văn Pảo đã in trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 37C), Đính Quân (bản dịch của Nông Minh Châu đã công bố năm 1964, nhóm biên soạn dùng bản in lại trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 37C), Bioóc Lả (sử dụng bản dịch của Hoàng Quyết và Triều Ân đã công bố năm 1994); các truyện thơ H’mông:  A Thào – Nù Câu (trích, sử dụng bản dịch của Doãn Thanh đã công bố năm 1984), Tiếng hát làm dâu (sử dụng bản dịch của Doãn Thanh đã công bố năm 1967).

Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam chưa có phần tiếng dân tộc, chỉ có bản dịch tiếng Việt. Trong “Lời nói đầu” in ở tất cả các quyển sách, GS. Đặng Nghiêm Vạn cũng nhận thấy việc chỉ “giới thiệu các tác phẩm đã biên dịch qua chữ quốc ngữ” là “điều đáng tiếc và ít nhiều cũng đáng trách” (tr. 12 ở tất cả sáu quyển). Ông đã rất đúng khi hiểu rằng muốn có những cuốn sách xuất bản bằng song ngữ “là việc không dễ dàng, vì cần có vốn đầu tư lớn, một tổ chức điều hành rất khoa học và cơ bản nhất, là có những người nhiệt tình và hiểu biết”, (tr. 12 ở tất cả sáu quyển, chỗ in đậm là do N.X.K nhấn mạnh).

Ông viết tiếp: “Dân trí được nâng cao, con người sẽ tự ý thức hơn về lịch sử, về vốn văn hoá của cha ông để lại. Nếu thế hệ đương đại không lưu ý bảo tồn những vốn cổ của các dân tộc, nếu không lưu ý giới thiệu những văn bản bằng tiếng mẹ đẻ, hoặc chí ít cũng lưu giữ lại ở một số cơ quan có thẩm quyền; thì sau này con cháu có quyền chất vấn chúng ta, những nhà nghiên cứu đương thời, đã để mất, để rơi vào dĩ vãng những tinh hoa văn học của tổ tiên. Thế hệ chúng ta phải chịu trách nhiệm về những mất mát này” (tr. 12 ở tất cả sáu quyển) (39).

Khác với những bộ sách khác của cùng nhóm biên soạn do GS. Đặng Nghiêm Vạn chủ trì, ở bộ tổng tập này (cụ thể là trong tập 4), nhóm biên soạn đã không giới thiệu một truyện thơ nào của dân tộc Chăm.

Có một số tác phẩm được nhóm biên soạn xếp vào truyện thơ (Nguồn gốc người Dao, Rồng và người chia đất,…), còn chúng tôi thì không tán thành. Tập 4 có quá nhiều lỗi chính tả, lỗi in sai (40)

Năm 2003, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc công bố truyện thơ Thái Tình anh em (Pi noọng lẩu khôm, pi noọng đôm nâu) do

Tô Hợp sưu tầm, biên dịch, với dạng sách song ngữ (41).

Năm 2003, Nhà xuất bản Văn học công bố Chữ Nôm Tày và truyện thơ do Triều Ân chủ biên. Trong sách này, các soạn giả giới thiệu bản dịch năm truyện thơ: Nàng Kim, Nàng Hán (tức Lưu Đài – Hán Xuân, N.X.K chú), Nàng Quyển, Nàng Ngọc Long, Nàng Ngọc Dong; riêng Nàng Ngọc Dong có cả phần phiên âm tiếng Tày

Ở thế kỉ trước, nước ta có những bộ sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (những năm 60 – 70) và Tổng tập văn học Việt Nam (những năm 80 – 90). Theo lời GS. Nguyễn Duy Quý, những bộ sách đó “một phần đã đáp ứng” được yêu cầu của những công trình “có tính chất tổng hợp, giúp cho người đọc khi cần có thể tra cứu nhanh và tìm thấy những tư liệu, chi tiết cụ thể trong cái đại dương mênh mông là nền văn học Việt Nam”; chúng “đã hoàn thành được cơ bản sứ mạng lịch sử của chúng và đang mong chờ những công trình mới tiếp theo” (42). Đó là lí do của việc ra đời bộ Tinh tuyển văn học Việt Nam vào năm 2004, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố. Bộ sách này gồm tám tập, chia thành mười quyển. Tập 2 giới thiệu cho văn học các dân tộc thiểu số. Tập này gồm hai quyển, quyển một dành cho văn học dân gian, quyển hai dành cho văn học hiện đại. Trong quyển hai, nhóm biên soạn (gồm nhà thơ Nông Quốc Chấn và ông Nông Quốc Thắng, trưởng nam của nhà thơ) để một mục cho truyện thơ của bốn dân tộc (Chăm, Mường, Tày, Thái). Đối với dân tộc Chăm, các soạn giả giới thiệu một truyện (Hoàng tử Um Rúp và cô gái chăn dê) với văn bản đã công bố năm 1983 của Tùng Lâm và Quảng Đại Cường (43). Đối với dân tộc Mường, các soạn giả không giới thiệu trọn vẹn, mà chỉ trích hai truyện thơ: Huỳ Nga – Hai Mối (bản dịch của M.T), Út Lót – Hồ Liêu (bản dịch đã được công bố năm 1985). Đối với dân tộc Tày, các soạn giả cũng không giới thiệu trọn vẹn tác phẩm, mà chỉ trích hai truyện thơ: Chim sáo (bản dịch của Hoàng An Định đã công bố năm 1964) và Nam Kim – Thị Đan (bản dịch của Nông Viết Toại đã công bố năm 1964). Đối với dân tộc Thái, các soạn giả trích giới thiệu đoạn cuối của tác phẩm Xống chụ xon xao (bản dịch của nhà văn Mạc Phi đã công bố năm 1961). Nói chung, việc tuyển chọn, biên soạn chưa bộc lộ sự dụng công của các soạn giả, bởi vì các vị vẫn tiếp tục sử dụng một văn bản kém chất lượng đối với truyện thơ Chăm, bởi vì các vị khi dùng bản dịch của Mạc Phi đã không có những giải thích cần thiết, gây ra sự khó hiểu đối với bạn đọc. Ở bản trích dịch này, trong khảo dị có những thông tin như: “Bản B và bản C không chép hai câu này” (44), “Các bản khác chép…”.(45). Người đọc không hiểu bản B và bản C là bản nào, các bản khác là những bản nào? Có tìm đọc bản dịch của Mạc Phi, người đọc mới biết được rằng, bản B là bản do Phòng Văn nghệ thuộc Sở Văn hoá Khu tự trị Thái – Mèo tổ chức sưu tầm vào năm 1958, bản C là bản do Phòng Văn nghệ nói trên tổ chức sưu tầm vào năm 1957, “các bản khác: gồm một số bản chép tay ở Tong Cọ, Tong Lạnh (Thuận Châu), Chiềng Cọ (Mường La), Chiềng Mung (Mai Sơn)… sưu tầm năm 1959 – 1960” (46).

Năm 2004, Nhà xuất bản Văn học ấn hành Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại của Triều Ân. Trong sách này,Truyện Thị Đan được giới thiệu cả bản chữ Nôm, bản phiên âm và bản dịch.

Năm 2004, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc công bố truyện thơ H’mông Luk tẩuv Hmôngz do Hờ A Di sưu tầm, biên dịch. Sách này có cả phần phiên âm tiếng dân tộc. Tập sách này giới thiệu 12 truyện thơ được sưu tầm ở vùng Sông Mã, tỉnh Sơn La, đó là các truyện: Cuộc đời của Chứ Dạ Lia và Dợ Pạ Mỉ (Tsưz Zax Liê thiêz Nzơưv Pax Miv gơư Luz nênhx), Chế Phệnh (Chêr Fênhx), Pạ Nhia (Pax Nhiêl), Giàng Giao Câu (Zax Zoz Câuz), Tú Tủa và Gầu Dụ (Tuz Tuôv Thiêz Muôv Gâux Njuv), Gầu Li – Nụ Dia (Gâux Hli thiêz Nux Nziêv), Tạo giống người (Tsiv nôngz nênhx), Gầu Giao Mỉ (Gâux Zoz Miv), Chàng Vàng Cha – nàng Dụa Pa (Tuz Đrâul Vax Tsaz – nzơưv Nzuôx Pal), Dênh Dạ Dủa và Chỉ Dênh Thại (Zênhz Zax Zuôv thiêz Tsiv Zênhz Theix), Nụ Do và Gầu Nú (Nux Zoz thiêz Gâux Hnuz), Tộng Li (Tộngx Lik).

Năm 2005, Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố Truyện nàng Nga – đạo Hai Mối do Cao Sơn Hải biên dịch, có cả phần phiên âm tiếng Mường. Đây là một công trình công phu, nghiêm túc.

Về truyện thơ Ba Na, năm 2005, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc in cuốn Joh duch {um (Câu chuyện về nàng Bum) do {ok Angep hát kể, Nguyễn Quang Tuệ sưu tầm, Siu Pết, Nguyễn Quang Tuệ dịch nghĩa. Đây là sách song ngữ. Như vậy là cho đến năm 2005, truyện thơ của tám dân tộc đã được công bố (47).

Năm 2006, Nhà xuất bản Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh công bố Aryia Cam (Trường ca Chăm) do Inrasara biên dịch. Sách này có một số truyện thơ Chăm. Ở đây có cả chữ Chăm cổ, phần phiên âm ra tiếng Việt và bản dịch tiếng Việt.

Năm 2008, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc công bố sách Duch {um Dăm Sơdang, giới thiệu hai truyện thơ Ba Na với hình thức song ngữ. Trong hai truyện này, có truyện đã được công bố từ năm 2005.

Trong chín năm của mười năm đầu thế kỉ XXI, việc công bố truyện thơ các dân tộc thiểu số được tiến hành có phần nhiều hơn trước, đặc biệt có nhiều truyện thơ được xuất bản dưới hình thức song ngữ. Đối với truyện thơ Thái, truyện thơ Chăm, nhiều tác phẩm được in với bản chữ Thái (hoặc chữ Chăm cổ), bản phiên âm và bản dịch. Đến đây, lần đầu tiên truyện thơ của Tây Nguyên được sưu tầm và công bố, với công đầu thuộc về Thạc sĩ Nguyễn Quang Tuệ. Những tư liệu mới này lại đặt ra vấn đề để các nhà nghiên cứu chuyên ngành suy nghĩ thêm về giới thuyết truyện thơ.

  1. Điểm lại việc sưu tầm, công bố truyện thơ các dân tộc thiểu số theo từng dân tộc

Như trên đã thấy, từ năm 1957 đến năm 2008 đã có truyện thơ của tám dân tộc được sưu tầm và xuất bản.

Truyện thơ Ba Na từ năm 2005 đến 2008 mới được giới thiệu hai tác phẩm là Duch Bum, Dăm Sơdang, đều do Nguyễn Quang Tuệ sưu tầm và công bố, đều được xuất bản dưới hình thức song ngữ.

Truyện thơ Chăm được độc giả biết đến từ năm 1996 và sau đó là năm 2006 với các tác phẩm Um Mưpup, Aryia Cam,… những truyện thơ này do Inrasara biên dịch. Tuy được công bố muộn nhưng những truyện thơ này đã được biên dịch, biên dịch chu đáo, chú thích kỹ lưỡng và đều được xuất bản dưới hình thức song ngữ. Những nỗ lực của nhà thơ, nhà sưu tầm Inrasara càng chứng minh rõ những sai lầm của Tùng Lâm và Quảng Đại Cường khi hai tác giả này biên dịch và công bố vào năm 1983 những văn bản mang tên là truyện thơ Chăm (dịch), nhưng về thực chất đây không phải là truyện thơ Chăm đích thực.

Truyện thơ Giáy cho đến nay chỉ mới được tóm tắt nội dung và trích dịch một tác phẩm vào năm 1979.

Truyện thơ H’mông được công bố lần đầu vào năm 1964 với tác phẩm Tiếng hát làm dâu do Bùi Lạc sưu tầm, xuất bản dưới hình thức song ngữ. Cho đến nay đã có 15 truyện thơ của người H’mông được sưu tầm và công bố, trong đó 13 truyện được giới thiệu dưới hình thức song ngữ, hai truyện chỉ có bản dịch tiếng Việt.

Truyện thơ Mường được trích dịch và xuất bản từ năm 1962 với hai tác phẩm là Út Lót –  Hồ Liêu Truyện nàng Nga – đạo Hai Mối. Từ đó đến năm 2005 tất cả có tám truyện thơ Mường được sưu tầm và xuất bản, trong đó có hai tác phẩm được xuất bản dưới hình thức song ngữ: Vườn hoa núi Cối Truyện nàng Nga – đạo Hai Mối. Tác phẩm được công bố nhiều lần nhất là Truyện nàng Nga – đạo Hai Mối, với 13 lần, trong đó số lần được trích dịch là năm, số lần được dịch toàn bộ là bảy, một lần vừa dịch toàn bộ vừa in song ngữ.

Truyện thơ Sán Chay mới được giới thiệu một tác phẩm là Kó Lau Slam (Truyện cô Lưu Ba). Tác phẩm này do nhà thơ Lâm Quý sưu tầm và biên dịch, với hai lần công bố. Lần thứ nhất được in vào năm 1991 chỉ với bản dịch tiếng Việt. Lần thứ hai được in song ngữ vào năm 1993.

Truyện thơ Tày được giới thiệu lần đầu vào năm 1962. Từ đó cho đến năm 2004, tất cả có 16 truyện thơ được công bố, trong đó có bảy tác phẩm được giới thiệu dưới hình thức song ngữ trong cùng một lần xuất bản (Nam Kim – Thị Đan, Nhân Lăng, Bioóc Lả, Chiêu Đức, Lý Thế Khanh, Nho Hương, Nàng Ngọc Dung). Ngoài việc hai lần được trích dịch và hai lần được in toàn bộ bản dịch, truyện thơ Trần Châu có một lần được in riêng bản phiên âm tiếng Tày. Tác phẩm được xuất bản nhiều lần nhất là Nam Kim – Thị Đan (còn gọi là Truyện Thị Đan) với 13 lần, trong đó trích dịch bốn lần, in toàn bộ bản dịch sáu lần, in song ngữ toàn bộ tác phẩm hai lần (còn một lần xuất bản chúng tôi chưa được đọc).

Truyện thơ Thái được công bố sớm nhất vào năm 1957 với bản dịch Tiễn dặn người yêu. Từ đó đến năm 2004 đã có 27 tác phẩm được công bố, trong đó có 18 tác phẩm chỉ mới được công bố bản chữ Thái cổ (chưa có bản phiên âm tiếng Việt và bản dịch). Chín tác phẩm còn lại đã được dịch ra tiếng Việt, trong đó có tám tác phẩm vừa được dịch ra tiếng Việt vừa có bản phiên âm tiếng Thái (hoặc chữ Thái cổ). Tác phẩm được công bố sớm nhất và nhiều lần nhất là Tiễn dặn người yêu, với 18 lần. Tác phẩm được công bố sớm thứ hai và cũng nhiều lần thứ hai là Chàng Lú – nàng Ủa, với 12 lần.

  1. Nhận xét

Trong lịch sử 50 năm sưu tầm và công b

0