Tính chất cuộc nội chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh trên đất Gia Định vào thế kỷ XVIII
Thủy chiến ở đầm Thị Nại năm 1801 Nguyễn Hữu Hiếu Nam bộ không phải là nơi có cơ sở xã hội trực tiếp làm nổ ra cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chiến tranh xảy ra là do lực lượng Tây Sơn truy đuổi đám tàn quân của Định vương Nguyễn Phước Thuần trên đường trốn tránh. Hơn nữa, hoàn cảnh ...
Nguyễn Hữu Hiếu
Nam bộ không phải là nơi có cơ sở xã hội trực tiếp làm nổ ra cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chiến tranh xảy ra là do lực lượng Tây Sơn truy đuổi đám tàn quân của Định vương Nguyễn Phước Thuần trên đường trốn tránh. Hơn nữa, hoàn cảnh kinh tế-xã hội Nam bộ vào cuối thế kỷ XVIII hoàn toàn khác hẳn với vùng Thuận Quảng do đó tính chất cuộc nội chiến trên địa bàn này không giống như ở miền Trung và miền Bắc.
I. Cuộc nội chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh riêng trên đất Nam bộ không đơn thuần là cuộc khởi nghĩa nông dân và tính chất này thay đổi qua hai giai đoạn.
1.1. Giai đoạn đầu (1777-1787)
Tính đến trước khi anh em Tây Sơn ra mặt kình chống nhau bằng võ lực để giải quyết quyền lợi theo kiểu phong kiến cát cứ (tháng 2/1787), Tây Sơn là lực lượng tíến bộ, tiêu biểu cho nguyện vọng nhân dân đáp ứng yêu cầu thống nhứt đất nước, chống lại bộ máy nhà nước quân chủ chúa Nguyễn qúa yếu kém, không đủ sức quản lý Đàng Trong, làm cho đời sống khổn khổ, bần cùng. Triều đại các chúa Nguyễn thật sự chấm dứt theo cái chết của Định vương Nguyễn Phước Thuần (tháng 9/1777).
Phong trào Tây Sơn lúc đầu, ngay trên đất Quy Nhơn, chẳng những thu hút được đông đảo nông dân mà còn có nhiều tầng lớp xã hội khác (thương nhân, thợ thủ công, quan lại nhỏ…) và có sự hiện diện của người Hoa và một số dân tộc ít người khác. Vì thế phong trào không đơn thuần là một cụôc khởi nghĩa nông dân chống phong kiến, mà còn là một cuộc đấu tranh xóa bỏ tình trạng cát cứ, thống nhứt đất nước, thống nhứt thị trường dân tộc.
Chủ tâm của Tây Sơn đối với Gia Định là tiêu diệt thế lực quân sự Nguyễn Ánh, để thu gom vật lực, tài lực để phục vụ mục tiêu lớn hơn là tiêu diệt chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, hơn là chiếm cứ quản lý đất đai. Nên trong suốt thời gian làm chủ Gia Định, Tây Sơn chưa có một công trình nào về kinh tế-xã hội đáng kể, khả dĩ thay đổi cấu trúc xã hội cũ, triệt tiêu các tiềm năng xã hội có thể giúp lực lượng Nguyễn Ánh hồi phục. Sau mỗi lần chiến thắng, đại quân Tây Sơn rút đi, chỉ để lại một bộ phận quân sự nhỏ ở lại lo vịệc phòng thủ, hơn là tổ chức một hệ thống hành chánh quản lý mới, cải tạo xã hội, thu hút nhân tâm. Do đó, chúng ta không lạ gì khi thấy cái cảnh lập đi lập lại là đại quân Tây Sơn rút đi không bao lâu là lực lượng Nguyễn Ánh hoạt động trở lại…
Tính chất nông dân chống phong kiến của cuộc nội chiến này chưa thể hịên rõ ở Gia Định (Nam bộ). Vì lúc bấy giờ giới điền chủ ở đây chưa thực hiện xong qúa trình tập trung rụông đất, chưa thật sự câu kết với quan lại chúa Nguyễn để hình thành giai cấp phong kiến địa chủ. Nông dân ở Gia Định có bị bóc lột, song chưa đến độ gay gắt để hình thành mâu thuẩn với giới điền chủ. Đất đai Gia Định còn hoang vu vô chủ mênh mông, chỗ này sống không được, lưu dân sẵn sàng bỏ đi nơi khác khai khẩn làm ăn sinh sống. Mâu thuẫn nếu có đều tự giải quyết theo cách này. Hiện tượng mâu thuẫn giữa nông dân và điền chủ chưa phải là phổ biến. Nên cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh trên đất Gia Đinh vào thời điểm này không mang tính chất nông dân nổi dậy chống phong khiến như ở phía bắc Đàng Trong, nơi cuộc khởi nghiã nổ ra với khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo”.
Về vấn đề này, nhà sử học Xô-víêt, I. A. Ognhêtôp [1], có nhận xét:
“Khác với miền Trung, tại Nam bộ dân cư ở lưu vực sông Cửu Long không theo Tây Sơn mà trong nhiều trường hợp đã hành động chống trả lại họ. Tại đây trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nghĩa quân Tây Sơn gặp phải một lực lượng không nhỏ của binh lính bị phát vãng, cuộc đời của họ đã gắn bó một cách chặt chẽ với triều Nguyễn. Ách áp bức phong kiến ở vùng này cũng chưa đến đỉnh cao của sự tàn bạo gây nên nỗi bất bình của nông dân. Đó cũng là nguyên nhân chính khiến cho quân Tây Sơn chưa thể đương đường chính chính củng cố thế lực ở trong vùng, mà phải tạm thời dừng lại trước cửa ngõ Gia Định để củng cố khả năng chiến đấu”.
Như vậy, các tỉnh tận cùng đất nước ở miền Nam đã nghiễm nhiên trở thành căn cứ địa của “phong trào” chống Tây Sơn, kéo dài trong nhiều năm, có khi lực lượng chống Tây Sơn bị đánh tan rã, nhưng vẫn không bị tiêu diệt hoàn toàn. Tình trạng này không xuất hiện ở Bắc hà, sau khi Tây Sơn tiêu dịêt nhà nước Lê-Trịnh, càng làm cho chúng ta thấy rõ tính chất của cuộc nội chiến Tây Sơn Nguyễn Ánh trên đất Nam Bộ có một nét đặc biệt vượt ra ngoài quy luật thông thường, do hoàn cảnh kinh tế-xã hội cụ thể của địa phương quy định. Ba ngàn nông dân ở Ba Giồng nổi lên cùng Đỗ Thanh Nhân theo Nguyễn Ánh là một bằng chứng.
Nguyễn Ánh, một hậu duệ của họ Nguyễn, giương lên ngọn cờ phục thù, được sự ủng hộ của các cựu thần cùng giới điền chủ mới và một bộ phận nông dân ở Nam bộ mang tư tưởng “trung quân” với ý nghĩa tôn thờ, nhớ ơn các chúa Nguyễn dày công trong công cuộc khai hoang mở cõi trên đất Nam bộ. Nhưng trước một thế lực cách mạng đang lên, với thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, lực lượng phục thù của họ Nguyễn nhiều lần bị đánh tan tác ra khỏi đất liền, Nguyễn Ánh phải trú ẩn ở các hải đảo, có lúc phải lưu vong sang Xiêm. Để có lực lượng đương đầu với Tây Sơn, ngoài việc động viên, hô hào bọn cựu thần, giới điền chủ mới ở Nam bộ, Nguyễn Ánh không ngần ngại bắt liên lạc ngoại giao với nhiều thế lực nước ngoài. Tai hại nhứt là vịêc rước quân Xiêm về giày xéo đất nước. Sự kiện này làm biến đổi tính chất cuộc chiến từ nội chiến sang chiến đấu chống xâm lược.
Nhưng tính chất này chỉ mang tính tạm thời và nhanh chóng được thay thế bằng cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến cũ và mới sau khi Tây Sơn đánh đuổi 5 vạn quân xâm lược Xiêm ra khỏi bờ cõi, rồi tiến ra Bắc hà tiêu diệt nhà nước Lê-Trịnh, hình thành nhà nước Tây Sơn, một nhà nước phong kiến mới, nhưng vẫn vận hành theo cơ chế một nhà nước phong kiến truyền thống với tình trạng phân quyền cát cứ: Nguyễn Huệ ở phía Bắc, Nguyễn Lữ ở phía Nam và Nguyễn Nhạc với tư cách trung ương ở miền Trung.
Tính chất chiến tranh trong giai đoạn này, chúng ta còn nhìn thấy qua động thái của giới trí thức Nam bộ lúc bấy giờ. Hầu như không có bóng dáng nho sĩ Nam bộ trong hàng ngũ quan lại của Tây Sơn. Điều đó nói lên hai lẽ. Một là do họ qúa bảo thủ, hẹp hòi, như nhận định của tác giả cuốn Nhà Tây Sơn “ Sĩ phu khư khư giữ lấy lời dạy thánh hiền, chữ trung của Hán nho, Tống nho đã in sâu vào tâm phủ. Lòng họ đối với nhà Nguyễn tuy không sâu đậm bằng lòng người Bắc hà đối với nhà Lê, song có tài chinh phục đến đâu cũng khó thu về cho nhà Tây Sơn trong hôm sớm”. Còn quần chúng nhân dân, thì tác giả này, viết “ Gia Định ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ vì nạn Trương Phước Loan, nên không căm thù nhà Nguyễn như người miền Trung. Quân ta vào đánh quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi như cuộc tranh giành địa vị với nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy, hễ bên nào mạnh, được thì họ theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được, ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó quân ta cứ chiếm lấy được Gia Định rồi lại mất…Muốn giữ được đất bền lâu, thì phải làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là lòng kẻ sĩ” [2]. Hai là giới nho sĩ Nam bộ không giống như nhà nho ở Thuận Quảng (như Trần Duy Trung, Lê Viết Trình ủng hộ Lê-Trịnh hay như Ngô Thế Lân, Hồ Đồng theo Tây Sơn), các nhà nho Gia Định vào cuối thế kỷ XVIII, nhìn chung chỉ thừa nhận họ Nguyễn ở Đàng Trong là vương triều chánh thống. Cái chuẩn mực chánh trị “chánh thống” phổ biến ấy đã hình thành trong những điều kiện lịch sử cụ thể ở địa phương đồng thời được liên tục củng cố bởi kết quả xây dựng kinh tế, quản lý xã hội…[3]. Bên cạnh đó mỗi khi giành lại được Gia Định, Nguyễn Ánh còn quan tâm đến việc đào tạo bồi dưỡng nhân tài [4]. Công việc này chẳng những cung cấp cho Nguyễn Ánh những nhân sự hết sức cần thiết trong chiến tranh mà còn tạo ảnh hưởng chánh trị thụân lợi cho lực lượng phục thù.
Tính chất này càng rõ nét ở giai đoạn sau:
1.2. Giai đoạn sau (1787-1789)
Trước khi Nguyễn Huệ mang 60.000 quân [5] từ Phú Xuân vào bao vây thành Hoàng đế (Qui Nhơn) đánh nhau với anh mình là Nguyễn Nhạc (đầu năm 1787), đòi phân chia lại đất Quảng Nam, anh em Tây Sơn bắt đầu chia rẽ từ khi họ kéo quân vào Nam sau khi tiêu diệt nhà nước Lê Trịnh (tháng 8/1786 ). Từ đây lực lượng Tây Sơn từng bước thoái hóa, ngày càng mang đậm tư tưởng của một cuộc khởi nghĩa nông dân và rơi vào tình trạng phong kiến cát cứ qua việc phân chia quyền lực giữa ba anh em. Trong đó, mâu thuẫn giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ là chủ yếu. Lời trăn trối của Nguyễn Huệ trước lúc lâm chung cho chúng ta thấy rõ quan điểm khác nhau giữa hai anh em. Nguyễn Nhạc tự mãn trước chiến thắng, quyền lực hiện tại, quay ra hưởng thụ, không nghĩ đến tương lai; còn Nguyễn Huệ, ngoài thiên tài quân sự còn có một nhản quan chánh trị sắc sảo, tầm nhìn xa trông rộng, với hoài bão thống nhứt đất nước…
Mâu thuẫn này chẳng những là điều kiện giúp cho lực lượng phục thù của Nguyễn Ánh lớn mạnh nhanh chóng, mà còn mang lại nhiều lợi thế về mặt chánh trị, mà trong đó, việc Nguyễn Ánh về lập căn cứ ở Nước Xoáy-Tân Long, với sự ủng hộ của giới điền chủ và nông dân đồng bằng sông Cửu Long là bước ngoặt quan trọng. Điều đó cho thấy ngay trong lòng vùng đất do Tây Sơn quản lý, chẳng những điền chủ mà cả nông dân cũng ủng hộ Nguyễn Ánh. Dù việc cầu viện Pháp thất bại, nhưng lực lượng phục thù của Nguyễn Ánh vẫn đủ sức đánh tan toàn bộ quân Tây Sơn trên đất Nam bộ.
Chính cuộc chống chọi dai dẳng của Nguyễn Ánh suốt mười mấy năm làm cho chiến thắng của Tây Sơn trên đất Gia Định mang tính nửa chừng, cùng với qúa trình phong kiến hóa của lực lượng Tây Sơn tạo cơ hội cho sĩ phu miền Trung và Bắc hà có cơ hội so sánh đánh giá bản chất của hai bên và đã có nhiều danh sĩ hai miền bỏ vào Nam sau khi Nguyễn Ánh về lập căn cứ Hồi Oa và nhiều nhứt là sau khi Nguyễn Huệ qua đời [6].
Cuộc nội chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh không còn mang ý nghĩa của một cuộc đấu tranh vì quyền lợi nông dân chống phong kiến áp bức. Tây Sơn bây giờ không còn là Tây Sơn của mười mấy năm trước, mà là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, cũng chỉ là hai thế lực phong kiến cũng như Nguyễn Ánh ở trong Gia Định, họ Trịnh ở Bắc hà trước đây.
Tính chất cuộc chiến tranh phong kiến của cuộc nội chiến ngày càng lộ rõ, khi mâu thuẫn của anh em Tây Sơn bộc phát, và cũng là lúc Nguyễn Ánh từ Xiêm về lập căn cứ ở Long Hưng. Qua số phận thảm thương của Thái bảo Phạm Văn Tham, người hết lòng trung thành Tây Sơn và chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì Tây Sơn, tính chất cát cứ, ích kỷ, hẹp hòi, chỉ biết bảo vệ quyền lợi riêng tư, coi thường lợi ích chung…của Nguyễn Nhạc lộ ra rõ hơn bao giờ hết. Khi Nguyễn Ánh hưng binh áp đảo quân Tây Sơn ở Gia Định, Nguyễn Lữ bỏ chạy về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc không hề cho quân cứu viện Gia Định, mà còn rút quân của Đô úy Đặng Văn Trấn về bảo vệ Quy Nhơn chống nhau với Nguyễn Huệ, bỏ một mình Phạm Văm Tham đơn độc đương đầu với quân Nguyễn Ánh. Nhưng Đặng Văn Trấn lại bị Nguyễn Huệ bắt. Sau đó ngừơi ta cứ tưởng Phạm Văn Hưng vào cứu nguy cho Phạm Văn Tham, nhưng không, Phạm Văn Hưng vào cốt chỉ vận chuyển lương thực rồi trở ra, để Phạm Văn Tham chiến đấu trong tình trạng tuỵêt vọng, cuối cùng lực lượng tiêu hao gần hết phải đầu hàng Nguyễn Ánh. Nhưng sau đó có ý định chống lại, nên bị Nguyễn Ánh xử trảm.
Nguyễn Huệ giải phóng Thăng Long vừa đúng một tháng sau khi Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, tại sao Nguyễn Huệ không tận dụng cái uy danh vừa đại thắng quân Thanh và đội quân vừa làm nên cái uy danh lẫy lừng đó kéo vào Nam tiêu diệt Nguyễn Ánh? Phải chăng Nguyễn Huệ e ngại hoàng huynh ở Quy Nhơn nhân cơ hội này cướp đi đất Bắc hà? Phải đến mấy năm sau, Nguyễn Huệ mới có kế hoạch tiến quân vào Gia Định, nhưng đã quá mụôn.
II. Các yếu tố làm nên sự thắng lợi của Nguyễn Ánh trong việc thu phục đất Gia Định.
2.1. Yếu tố chủ quan
Phẩm chất riêng của con người Nguyễn Ánh.
Chỉ tính đến thời điểm khôi phục được Gia Định (đầu năm 1789), trong khoảng 14 năm tranh đấu với Tây Sơn, bao nhiêu lần Nguyễn Ánh bị đánh bật ra khỏi Nam bộ, binh tướng tan tác, phải trốn chui trốn nhủi, nhịn đói chịu khát, bản thân cũng nhiều lần thóat chết trong đường tơ kẻ tóc, phải lưu vong sang Xiêm ăn nhờ ở đậu gánh chịu nhiều nỗi nhục nhã…
Nhưng Nguyễn Ánh vẫn không vơi quyết tâm đánh trả Tây Sơn thu phục đất Gia Định, mảnh đất mà tổ tiên Nguyễn Ánh dày công gầy dựng. Nguyễn Ánh đã vượt qua biết bao nhiêu gian khó, bao nhiêu trở ngại để đạt được mục tiêu đã đề ra. Để ra ngoài thiên kiến chánh trị, động cơ phục thù của Nguyễn Ánh, thì lòng kiên trì, quyết tâm cao độ đó thật đáng lưu ý.
Nhưng vì kiên trì để đạt được mục tiêu, mà Nguyễn Ánh đã dùng bất cứ thủ đoạn nào để đạt được; trong đó, tệ hại nhứt là việc rước mấy vạn quân Xiêm về giày xéo quê hương. Lịch sử nhiều nước cho thấy, trong đấu tranh nội bộ hay chống ngoại xâm, để thủ thắng các bên có lúc phải dựa vào ngoại viện. Nhưng hình thức ngoại viện mới là điều đáng nói. Tranh thủ ngoại giao, giúp đở võ khí phương tiện chiến tranh, can thiệp bằng binh lực…? Trong cuộc tranh chấp với Nguyễn Ánh, Tây Sơn cũng tranh thủ ngoại giao với Xiêm đê gây áp lực với Nguyễn Ánh, đã mua võ khí của Bồ Đào Nha…
Sai lầm của Nguyễn Ánh cũng như Lê Chiêu Thống sau này, vì muốn khôi phục quyền bính mà bất chấp thủ đoạn, rước ngoại bang về, là hành vi không thể tha thứ được.
Nhưng bên cạnh cái sai lầm, trong thời gian cuộc nội chiến còn diễn ra trên đất Gia Định, Nguyễn Ánh đã cho thực hiện nhiều biện pháp kinh tế, xã hội và hành chánh, mặc dù những họat động này nhằm mục tiêu củng cố sức người sức của để phục vụ chiến tranh chống Tây Sơn, nhưng đã gián tiếp làm cho tình hình kinh tế xã hội Gia Định không tồi tệ như ở Trung và Bắc hà. Đó là điều mà Tây Sơn chưa hề làm được ở Gia Định. Và cũng chính những biện pháp này đã lôi kéo được giới điền chủ và một bộ phận lớn nông dân ngả về phía Nguyễn Ánh.
Phát động cuộc chiến phục thù lần sau cùng đúng thời cơ;
Rút kinh nghiệm trong những lần thảm bại trước đó, hể mỗi khi Nguyễn Huệ mang quân vào Gia Định với kỹ thuật hành quân thần tốc, bất ngờ và tập trung quân đánh vào một điểm quyết định, là chẳng những Nguyễn Ánh bị đánh bật ra khỏi đất liền, mà còn bị truy nã ráo riết, phải ẩn núp hết quần đảo Côn Sơn, đến Phú Quốc…
Vì nhãn quan chánh trị hạn hẹp của Nguyễn Nhạc trái ngược với tầm nhìn xa trông rộng của thiên tài chánh trị-quân sự Nguyễn Huệ dẫn tới cuộc “nồi da xáo thịt “ở Quy Nhơn, chẳng những làm tiêu hao nhiều binh lực mà làm cho uy danh tốt đẹp, hình ảnh kiêu dũng của những người anh hùng nông dân áo vải từng bước bị xóay mòn trong tâm tưởng nhân dân và nhứt là từng lớp trí thức lúc bấy giờ, và còn tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh về nướtổ chức công cuộc phục thù trong hoàn cảnh mới.
Nắm chắc và triệt để khai thác yếu tố địa lợi và nhân hoà.
Cái ưu thế mà Nguyễn Ánh có ở đất Gia Định là, ông là con cháu các chúa Nguyễn. Đối với phần lớn nhân dân Gia Định, trong thâm tâm họ ẩn chứa tình cảm sâu nặng với các chúa Nguyễn. Cho rằng có được cuộc sống sung túc, có của ăn của để là nhờ công lao của các chúa Nguyễn, nên đương nhiên là có bổn phận ủng hộ, giúp đỡ Nguyễn Ánh khôi phục cơ đồ mà các chúa Nguyễn đã dày công gầy dựng trăm năm qua, theo suy nghĩ đơn giản “ơn đền óan trả”, “ăn trái nhớ kẻ trồng cây” mới hợp đạo nghĩa ở đời. Trạng huống tâm lý này tồn tại đến đầu thế kỷ XX đã được cụ Phan Bội Châu vận dụng đưa Cường Để làm hội chủ Duy Tân hội vận động Đông du rất có hiệu quả. Cho nên chúng ta không gi khó hiểu khi thấy có nhiều điền chủ và cả nông dân Gia Định ủng hộ Nguyễn Ánh.
Nguyễn Ánh triệt để khai thác yếu tố này để vừa vận động, vừa o ép nhân dân góp của góp sức xây dựng lực lượng. Cho nên ta thấy có lúc lực lượng Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đánh gần như tan rã hoàn toàn, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó lại hồi phục nhanh chóng. Đồng thời cũng phải thừa nhận rằng, Nguyễn Ánh đã khôn khéo đưa ra hàng lọat chủ trương bồi dưỡng, khoan dung sức dân, để lôi kéo dân chúng về phía mình. Do đó, ngay cả trong lúc còn lưu vong, lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo, yếu kém của Đông Định Vương Nguyễn Lữ, Nguyễn Ánh cho người xây dựng cơ sở vẫn được nhiều người ủng hộ.
Đến cuối thể kỷ XVIII, đất Gia Định sau hơn một trăm năm khai phá, dù diện tích được đưa vào sản xuất nông nghiệp chưa phải là nhiều, nhưng đất đai mầu mỡ, nguồn lợi tự nhiên hết sức phong phú đã sớm làm xuất hiện nền kinh tế hàng hóa trên vùng đất mới này. Nơi đây là nguồn cung cấp vật lực, tài lực dồi dào cho ai làm chủ được nó. Nguyễn Ánh triệt để khai thác yếu tố nhân tâm để qua đó sử dụng được kho tàng vật lực phong phú này. Đối với Tây Sơn, Gia Định là nguồn lương thực thiết yếu, mỗi lần vào đánh Nguyễn Ánh trở về, theo chân đoàn quân chiến thắng là những thuyền lương thực đầy ấp. Ngay trong lúc một mình Thái bảo Phạm Văn Tham chật vật đối phó với Nguyễn Ánh không được cứu viện, Nguyễn Huệ lại cử Thái úy Phạm Văn Hưng mang thuyền vào chở lương thực.
Chiếm giữ Gia Định, Nguyễn Ánh vừa làm chủ được nguồn lương thực, vừa phong toả được sự tiếp tế từ Gia Định cho Quy Nhơn.
2.2. Yếu tố khách quan
Sự quản lý Gia Định lỏng lẻo của chánh quyền Tây Sơn;
Bàn về vấn đề Tây Sơn để mất Gia Định về tay Nguyễn Ánh và cũng là khởi điểm của sự kiện trọng đại hơn là Nguyễn Ánh tận diệt Tây Sơn, trước nay có nhiều ý kiến khác nhau:
Văn Tân, trong “Cách mạng Tây Sơn”, cho rằng: Đất Gia Định là miền đất mới. Ở đây giai cấp địa chủ mới do sự khai thác đất đai đã ra đời. Giai cấp này ủng hộ bọn phong kiến chúa Nguyễn, họ chưa mâu thuẫn sâu sắc với nông dân. Quân Đông Sơn sở dĩ hoạt động được ở Ba Giồng là nhờ vào địa chủ. Nguyễn Ánh hoạt động được ở Gia Định cũng có địa chủ ủng hộ.
Sau những trận đánh thắng quân Nguyễn Ánh, đáng lẽ quân Tây Sơn phải để lại một nhân vật vừa có tài quân sự vừa có tài chánh trị để vừa bình định miền Gia Định, vừa tổ chức lại các bộ máy nhà nước mới, là nhân dân Gia Định có thể an tâm sản xuất và tin tưởng vào chế độ Tây Sơn.
Nếu quân Tây Sơn làm được như vậy, thì năm 1785 sau trận đánh bại quân Xiêm, đuổi Nguyễn Ánh chạy ra ngọai quốc thì Nguyễn Ánh khó mà tìm được chỗ dựa ở Gia Định để rồi quay về hoạt động. Tiếc rằng sau bốn lần đại thắng quân Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ đều mang đại quân trở về Quy Nhơn, giao trấn thủ Gia Định cho một võ tướng tầm thường. Do đó, mỗi lần đại quân Tây Sơn rút ra khỏi Gia Định trở về Quy Nhơn, thì Nguyễn Ánh hay đồ đảng lại họat động, lòng dân từ chỗ hướng về Tây Sơn (nhất là sau trận thắng quân Xiêm), do sự tuyên truyền xảo quyệt và sự hoạt động của bọn Nguyễn Ánh lại dần dần quay trở lại với Nguyễn Ánh.
Tại sao bốn lần đánh thắng Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ đều vội vàng mang ngay đại quân trở về Quy Nhơn, không ở lại Gia Định để tổ chức lại sản xuất và xây dựnng bộ máy chánh quyền?
Tại Nguyễn Huệ coi vấn đề Gia Định là vấn đề thuần tuý quân sự chăng? Tại Nguyễn Huệ bị Nguyễn Nhạc gọi về chăng?
Ngày nay chúng ta không dựa vào một tài liêụ lịch sử nào để trả lời dứt khóat câu hỏi ấy. Chúng ta chỉ biết rằng, quân Tây Sơn sau mỗi lần đánh chiếm được Gia Định, không chiụ để lại một nhân vật có tài ở lại giữ Gia Định là một thất sách không nhỏ về quân sự và về chánh trị của Tây Sơn. Sự thất sách ấy tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh trở về Gia Định hoạt động.
Những câu hỏi tại sao của Văn Tân, được Quách Tấn – Quách Giao trả lời phần nào trong “ Nhà Tây Sơn”. Sau trận Nguyễn Ánh thóat khỏi tay Tây Sơn nhờ giông bảo nổi lên ở đảo Cô Lông (1783), chạy trốn ở Phú Quốc, tác giả “Nhà Tây Sơn”, viết:
Đất Gia Định đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ đã được tổ chức nghiêm mật, tình hình toàn cõi được ổn định. Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ và Lê Văn Hưng (hay Phạm Công-NHH) rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Đa cùng một số tướng sĩ ở lại giữ thành Gia Định.
Nguyên trước khi Nguyễn Huệ xuất binh, Trương Văn Hiến tâu cùng vua Thái Đức:
– Gia Định ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn Trương Phước Loan, nên không căm thù họ Nguyễn như người ở miền Trung. Quân ta đánh vào quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là cuộc tranh giành địa vị với nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy, hễ bên nào mạnh, được thì họ theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được, ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó, quân ta cứ lấy được Gia Định, rồi lại mất…Muốn giữ đất được bền lâu, thì phải làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là lòng kẻ sĩ.
Do đó, Nguyễn Huệ mới để Trương Văn Đa, một người văn võ song toàn, ở lại trấn thủ Quy Nhơn, vua Thái Đức sai thêm hai văn thân là Cao Tắc Tựu và Triệu Đình Tiệp vào trợ lực.
Họ Cao và họ Triêụ vào đến nơi lo tìm hiểu dân tình dân ý. Hai ông già giả làm thầy địa lý và thầy tướng số để được gần gũi nhân dân. Hai ông nhận thấy hầu hết nhân dân đều chất phác nhân hậu. Sĩ phu giữ khư khư lời dạy của Thánh hiền, chữ Trung của Hán nho, Tống nho đã in sâu vào tâm khảm. Lòng họ đối với chúa Nguyễn tuy không sâu đậm bằng lòng người miền Bắc đối với vua Lê, song có tài chinh phục đến dâu cũng khó thu về cho nhà Tây Sơn trong hôm sớm. Muốn thu phục được nhân tâm miền Nam thì phải làm sao cho họ thấy được nhà Tây Sơn hơn nhà Nguyễn về mọi mặt.
Trước hết cần phải có chánh sách tốt.
Chánh sách đã có sẵn từ ngàn xưa, chẳng qua tám chữ: “Thân Dân, Ái Dân, An Dân, Lợi Dân”. Khó nhất là làm sao thực thi cho được tám chữ ấy”.
Sau khi Tây Sơn đại thắng quân Xiêm, tác giả “Nhà Tây Sơn”, mượn lời họ Cao và Họ Triệu cho rằng : “ Phần đông sĩ phu Gia Định hiểu nghiã chữ Trung một cách lệch lạc. Họ chỉ nghĩ đến vua, cho rằng” trung quân tức là ái quốc. Cho nên họ trung quân một cách mù quáng, mặc dù vua kia chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của mình mà dẫm đạp lên quyền lơị của Tổ quốc Dân tộc. Họ nghĩ rằng đất nước này là của nhà Nguyễn bị nhà Tây Sơn chiếm đọat thì Nguyễn Ánh có quyền nhờ ngoại bang giúp mình đánh lấy lại. Phá nước hại dân là tội lỗi của quân Xiêm chớ không phải của Nguyễn Ánh. Cho nên họ không óan giận Nguyễn Ánh, mà chỉ căm thù quân Xiêm. Phải phá bỏ tư tưởng sai lầm đó, thì lời nói của chúng ta mới lọt vào tai họ.
Cái chánh sách tốt mà Quách Tân-Quách Giao đề cập, Tây Sơn có điều kiện thực hiện được không hay vẫn đi vào lối mòn phong kiến do hạn chế của thời đại? Về vấn đề này Lê Thành Khôi lý giải trong “Histoire du Viêt Nam” [7] rất chặt chẽ:
Cái chánh sách tốt mà Quách Tân-Quách Giao đề cập, Tây Sơn có điều kiện thực hiện được không hay vẫn đi vào lối mòn phong kiến do hạn chế của thời đại? Về vấn đề này Lê Thành Khôi lý giải trong “Histoire du Viêt Nam” [8] rất chặt chẽ:
Sự bất hoà của anh em Tây Sơn đã cho phép Nguyễn Ánh trở về Gia Định và tổ chức việc khôi phục nhà nước của mình. Cuộc chiến kéo dài và đẫm máu, khi thắng khi bại, diễn ra trong 15 năm trước khi kết thúc vào năm 1802 với thắng lợi của họ Nguyễn và sự thống nhứt hoàn toàn của Việt Nam…
Anh em Tây Sơn đã phân chia đất nước, nhưng sự bất hoà vẫn nhanh chóng bùng nổ. Nguyễn Huệ vào bao vây Quy Nhơn, Nhạc gọi một bộ phận đồn trú ở Gia Định bảo về kinh đô của mình. Thời cơ thuận lợi. Lần này Nguyễn Ánh không cầu viện quân viễn chinh Xiêm nữa vì không chịu nổi sự cướp bóc của chúng mà nhân dân thì ghê tởm. Ông về đóng quân ở Long Xuyên.
Quân đội của ông ta chẳng bao lâu đã lớn lên nhờ những người tình nguyện, tướng tá Tây Sơn theo về, cướp biển người Hoa và bọn đánh thuê Campuchia. Nguyễn Lữ, vua Gia Định, là một kẻ bất lực. Ông ta bỏ trốn về Quy Nhơn rồi chết. Nguyễn Ánh chiếm Gia Định và là người chủ cả xứ….
Thắng lợi của Nguyễn Ánh bắt nguồn từ những phẩm chất riêng của ông, từ những khuyết điểm của đối phương, từ cái chết sớm của Quang Trung…Trong lúc anh em Tây Sơn không nhìn thấy tầm chiến lược quan trọng của Gia Định, thì Nguyễn Ánh, sau khi chiếm lại nó đã biết xây dựng nó thành một cơ sở vững chắc cho sự khôi phục.
…Về phiá Tây Sơn, sự suy yếu của họ đã làm dễ dàng cho hoạt động của Nguyễn Ánh. Bên trên chúng ta đã nêu nguyên nhân thất bại cơ bản của sự suy sụp của họ, đã biết sự bất lực của họ trong việc xây dựng một chế độ mới, mặc dù có tiến bộ hơn so với họ Trịnh và họ Nguyễn. Tất nhiên những điều kiện khách quan của thời đại cũng chưa sẵn sàng. Nhưng, không tấn công vào gọi rễ của vấn đè ruộng đất, ngược lại, phục hồi những thiết chế kinh tế, xã hội và chánh trị của các triều đại trước, anh em Tây Sơn đã mất đi chỗ dưạ của quần chúng nông dân, những người đã đưa họ lên nắm chính quyền và không thể động viên họ chống lại kẻ thù. Rất nhiều viên chức văn võ chỉ liên kết với họ bề ngoài chống cải cách của Quang Trung, họ tiếp tục áp bức nhân dân và chỉ chờ dịp chạy theo Nguyễn Ánh.
Quá trình “phong kiến hóa” của anh em Tây Sơn cũng biểu hiện khi sự thống nhứt bùng nổ. Sau khi thắng Trịnh, họ không biết giữ sự nhất trí (và khôi phục nền thống nhất của Việt Nam) mà chia nhau đất nước, mỗi người xây dựng một vương quốc riêng của mình. Cuộc chiến tranh nhỏ giữa Nhạc và Huệ đã buộc Nhạc phải gọi một bộ phận quân đội của mình ở Gia Định về, điều đó cho phép Nguyễn Ánh chiếm lại dễ dàng vùng đất này. Anh em Tây Sơn cũng không thấy ở đó tầm quan trọng. Bốn lần họ vào đây đánh Nguyễn Ánh. Bốn lần họ rút quân về mà không tiêu diệt được hết lực lượng Nguyễn Ánh mà chỉ để lại một đồn binh nhỏ. Năm 1786, khi Nguyễn Lữ trở thành vua Gia Định, ông ta đã tỏ ra bất lực trong việc tổ chức và phòng thủ nó, trái với những gì Nguyễn Ánh sẽ làm. Ông ta hèn nhát bỏ nó để chạy trốn về Quy Nhơn và chết ở đấy.
Trong ba anh em, chỉ có Huệ tỏ ra có phẩm chất một chánh khách. Nhạc, người anh cả, sau khi là một thủ lĩnh khôn khéo của cuộc khởi nghĩa, đã để mất những tham vọng của mình và bằng lòng quản lý một vương quốc nhỏ, không lo lắng gì đến tương lai. Khi Lữ thất bại, ông ta không cho quân tới cứu để ngăn Nguyễn Ánh chiếm lại đất Gia Định. Khuyết điểm nặng nề đó đã làm cho ông mất hết.
Chỉ có Huệ mới có được nhãn quan chánh trị bén cạnh, thiên tài quân sự của ông. Chỉ có ông mới tổ chức được vương quốc của mình và đẩy mạnh nền kinh tế tiến liên. Ông thấy hiểm họa ở con người Nguyễn Ánh và tự mình chuẩn bị quân tấn công, nhưng bất ngờ ông chết. Cái chết sớm đó phải chăng là một sự ngẫu nhiên của lịch sử đã làm thay đổi bộ mặt của sự vật ? Chỉ có Huệ mới có khả năng đánh bại Nguyễn Ánh, như là ông đã đánh bại họ Trịnh, nhà Lê và quân Trung quốc. Sau khi ông chết, con ông quá trẻ không thể tiếp tục sự nghiệp của ông, cũng không gây được uy tín đối với các phe phái trong triều, khi mà những cuộc đấu tranh nội bộ góp phần vào việc làm suy yếu chánh quyền Tây Sơn.
Dù nhìn vấn đề dưới góc độ khác nhau, dựa trên cơ sở và lập luận khác nhau, song cả ba tác giả trực tiếp hoặc gián tiếp có cùng một nhận định, là Tây Sơn không có điều kiện cải tạo, làm cho xã hội Gia Định tốt hơn dưới thời chúa Nguyễn, không tấn công vào cội rễ vấn đề ruộng đất, không tìm được chỗ dưạ trong quần chúng nông dân. Riêng Văn Tân cho rằng thắng lợi của Nguyễn Ánh ở Gia Định là do sự ủng hộ của giai cấp địa chủ Nam bộ, điều này e ra có phần khiên cưỡng và chưa đủ. Vì điều kiện lịch sử lúc bấy giờ chưa hội đủ yếu tố cần thiết để hình thành giai cấp địa chủ Gia Định và phải thẳng thắn nhìn nhận rằng là có một bộ phận đông đảo quần chúng nông dân Gia Định ủng hộ Nguyễn Ánh trong cuộc nội chiến này.
Tác giả cuốn “Nhà Tây Sơn” có lý khi nhận xét: “Quân ta đánh vào quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là cuộc tranh giành địa vị với nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy, hễ bên nào mạnh, được thì họ theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được, ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó, quân ta cứ lấy được Gia Định, rồi lại mất…Muốn giữ đất được bền lâu, thì phải làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là lòng kẻ sĩ” [9]
Cho đến nay, chúng ta chưa có tư liệu để lý giải động thái của Tây Sơn đối với vấn đề quản lý đất Gia Định. Tại sao sau những lần đánh thắng Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ đều vội vã mang đại quân trở về Quy Nhơn, không ở lại Gia Định hoặc tổ chức chánh quyền ổn định đời sống nhân dân, xây dựng lực lượng tại chỗ hùng mạnh, vừa tạo ra trong lòng nhân dân sự an tâm, tin tưởng vào chế độ Tây Sơn, vừa có thể tiêu diệt được hay ít ra cũng thay đổi cơ sở xã hội cũ, mầm móng khôi phục của Nguyễn Ánh, ít nhứt là sau trận phá tan năm vạn quân Xiêm, khi mọi người dân Gia Định đều thấy rõ cái tội “cõng rắn cắn gà nhà” của Nguyễn Ánh?
Về mặt tổ chức hành chánh-cai trị, chúng ta chỉ biết Nguyễn Nhạc giao Gia Định cho Đông Định vương Nguyễn Lữ quản lý, còn việc tổ chức chánh quyền cơ sở quản lý xã hội ra sao? Hiện nay chưa phát hiện được tư liêụ liên quan về vấn đề này.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tiếp cận vấn đề ở góc độ khác. Sài Gòn là trung tâm quyền lực ở Gia Định, ai chiếm được nơi đây, xem như làm chủ cả Nam bộ, và trong 13 năm nội chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh (1777-1789), hai chánh quyền Tây Sơn và Nguyễn Ánh tồn tại đan xen nhau theo thứ tự thời gian như sau:
Làm chủ Sài Gòn | Thời gian | Trong khoảng |
Tây Sơn | 3 tháng | Tháng 3 đến tháng 5 Bính thân (1776) |
Nguyễn Phước Thuần | 10 tháng | Tháng 5/1776 đến tháng 3 Đinh dâụ (1777) |
Tây Sơn | 8 tháng | Tháng 3/1777 đến tháng 10/1777 |
Nguyễn Ánh | 4 năm 4 tháng | Tháng 11 Đinh dậu đến tháng 2 Nhâm dần(1782) |
Tây Sơn | 5 tháng | Tháng 3 Nhâm dần đến tháng 8 cùng năm |
Nguyễn Ánh | 6 tháng | Tháng 8 Nhâm dần đến tháng 2 Quý mảo (1783) |
Tây Sơn | 5 năm 6 tháng | Tháng 2 Quý mảo đến tháng 8 Mâụ thân (1788) |
Như vậy trong thời gian 13 năm nội chiến, Tây Sơn chỉ thật sự nắm quyền ở Gia Định gần 7 năm; thời gian còn lại là 5 năm do Nguyễn Ánh cai quản và tình trạng không có chánh quyền là trên một năm.
Trong thời gian 7 năm làm chủ đất Gia Định, với 4 lần gián đọan, giai đoạn cầm quyền dài nhứt là 5 năm 6 tháng và ngắn là từ 3 đến 5 tháng. Với điều kiện thời gian vưà ngắn vưà gián đoạn như thế thì chánh quyền Tây Sơn không thể nào tổ chức hành chánh cai trị bền vững để thực thi chánh sách xã hội-kinh tế được. Đó là chưa nói tới yếu tố con người. Trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Lữ là người bình thường, lại có thể là một thầy tu ( trong một số thư từ của giáo sĩ phương Tây, thường goị Nguyễn Nhạc là “Chúa Tây Sơn”, Nguyễn Lữ là “Thầy Tư Lữ” còn Nguyễn Huệ là “Đức Ông Tám”), nên khi được Nguyễn Nhạc phong làm Tiết chế (1778) , rồi Đông Định vương (1786); Nguyễn Lữ là người thưòng “ lấy việc sửa mình, thương người làm gốc, còn giàu sang, thua được là chuyện ngoài thân” [10] , nên cần có người phụ chính.
Trước khi Nguyễn Lữ chánh thức được phong làm Đông Định vương, nắm quyền cai trị Gia Định, vùng này lần lượt được cai quản bởi Tổng đốc Chu (Châu) trong hai tháng ( từ tháng 10/1777), hàng tướng Đỗ Nhàn Trập (em Đỗ Thanh Nhân) trong ba tháng (từ tháng 5/1782) . Sau khi đánh tan quân Xiêm, Gia Định do phò mã Trương Văn Đa (từ tháng 8/1783) cai quản hơn một năm. Từ tháng 5/1785 Đô úy Đặng Văn Trấn thay thế Trương Văn Đa, cai quản Gia Định lâu hơn, có chỉnh trang lại Sài Gòn, đào kinh Tranh Giang (xuyên qua Đồng Tháp Mưòi), như đã trình bày ở trên. Khi cuộc tranh giành quyền lực giữa anh em Tây Sơn nổ ra, theo lệnh Nguyễn Nhạc, Đặng Văn Trấn trao Gia Định cho Tham đốc Trần Tú vào tháng 5/1787, về Quy Nhơn. Sau đó, Đông định vương Nguyễn Lữ có Thái phó Phạm Văn Tham làm phụ chính vào cai trị Gia Định. Đến tháng 9, rơi vào kế ly gián của Nguyễn Ánh, Nguyễn Lữ bỏ Gia Định chạy về Quy Nhơn, rồi bịnh chết; và đến tháng 9 năm sau 1788, Nguyễn Ánh chiếm được Saì Gòn, chấm dứt chánh quyền Tây Sơn trên đất Gia Định.
Một điều đáng lưu ý là trong 13 năm nội chiến, có lúc Nguyễn Ánh làm chủ đất Gia Định một thời gian khá dài, tới 4 năm 4 tháng; từ tháng 11 năm Đinh dậu (1777) đến tháng 3 năm Nhâm dần (1782). Trong thời gian này, Nguyễn Ánh đã tổ chức và củng cố chánh quyền từ trung tâm Sài Gòn (trị sở của phủ Gia Định) xuống tận xã thôn. Phủ Gia Định gồm 4 dinh ( Trấn Biên, Phiên Trấn, Trường Đồn, Long Hồ) và một trấn (Hà Tiên), Ở mỗi dinh và trấn, Nguyễn Ánh đặt các chức quan: Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để trông coi việc cai trị. Lúc bấy giờ dân cư còn thưa thớt, nên dưới mỗi dinh và trấn chỉ có một huyện. Dưới huyện là các tổng; dưới tổng là các thôn hoặc xã. Nói một cách cụ thể hơn, trong thời gian này tiếp tục hoàn thiện một bước nữa công cuộc khai hoang của các chúa Nguyễn bị bỏ dở, có tác động tâm lý sâu sắc đối với nhân dân Gia Định trong cuộc nội chiến. Đến thời diểm này, người Việt đã tập trung hình thành những trung tâm dân cư, thị trấn to lớn, mà còn rải ra khắp nơi. Các trung tâm và thị trấn kéo dài từ Cù lao Phố (Biên Hoà) xuống Bến Nghé (Sài Gòn), Mỹ Tho, Long Hồ (Vĩnh Long), Sa Đéc, Cần Thơ ngăn cách khối đông đảo dân Khmer ở khu vực Trà Vinh-Sóc Trăng…
Những giai đoạn làm chủ Gia Định, 3 tháng, 5 tháng, 8 tháng, chắc Tây Sơn chưa có đủ thời gian củng cố chánh quyền ở trung tâm ở Sàì Gòn, thì làm sao có thời gian thay đổi hay hủy bỏ chánh quyền cơ sở của Nguyễn Ánh. Để ổn định xã hội trước mắt Tây Sơn không còn cách nào khác hơn là tiếp tục phải sử dụng chánh quyền cơ sở cũ của Nguyễn Ánh.
Như thế, phải chăng chánh quyền Tây Sơn chỉ quản lý Sài Gòn và các thị tứ đông dân, còn vùng nông thôn hẻo lánh, rừng rậm thì thả nổi mặc cho đám tàn binh Nguyễn Ánh mai phục chờ cơ hội.
Còn trong một thời gian dài 5 năm 6 tháng từ tháng 2 năm Quý mảo đến tháng 8 năm Mậu thân (1788), ngoài một số họat động chỉnh trang Sài Gòn, chúng ta chưa tìm thấy tư liệu nào ghi chép về hoạt động kinh tế-xã hội của Tây sơn trong thời gian này.
Về kinh tế-xã hội nói chung, chánh quyền Tây Sơn làm gì cho nhân dân Gia Định, ngoài việc Đô úy Đặng Văn Trấn đào con kinh mới Tranh Giang (Rạch Chanh) nối liền sông Vàm Cỏ Tây với sông Bà Bèo xuyên ngang đất Ba Giồng nhằm mục đích quân sự hơn là kinh tế. Tây Sơn có giải pháp kinh tế-xã hội nào để lôi kéo nhân dân Gia Định thóat ra khỏi ảnh hưởng của Nguyễn Ánh, triệt tiêu được nguồn hậu thuẩn cho Nguyễn Ánh hay chỉ xem Gia Định là một vấn đề thuần tuý quân sự ? Mỗi lần hành quân vào Nam, Tây Sơn chỉ tìm cách tiêu diệt lực lượng quân sự của Nguyễn Ánh. Xong, đại quân rút về Quy Nhơn, giao đất Gia Định cho những quan chức không có tài kinh bang tế thế, không có kế sách gì nhằm triệt tiêu tận gốc điều kiện, môi trường xã hội giúp cho Nguyễn Ánh tồn tại.
Sự quản lý Gia Định yếu kém của Tây Sơn còn gián tiếp thể hiện tâm lý chủ quan, coi thường kẻ thù, đánh giá qúa thấp thế lực và cá nhân con người của Nguyễn Ánh cùng vai trò của vùng đất mới Gia Định trong tiến trình lịch sử dân tộc của Tây Sơn.
Thế lực của Nguyễn Ánh ở đây không phải là lực lượng quân sự, mà là chính là cấu trúc xã hội Gia Định, vào cuối thể kỷ XVIII, xã hội Gia Định được hình thành trên cơ sở sự giàu mạnh của từng lớp điền chủ mới nặng ân tình với họ Nguyễn và thương nhân người Hoa. Nói là quản lý Gia Định, nhưng quan tướng Tây Sơn không nắm được các đối tượng này, không đủ năng lực phá vỡ một cấu trúc xã hội đã được hình thành hơn một trăm năm qua, trong một thời gian ngắn. Cấu trúc xã hội Gia Định vào cuối thế kỷ XVIII như đã trình bày ở trên, không giống như ở Bắc hà hay vùng Thuận Quảng. Nó không còn một xã hội thuần nông tự cung tự cấp, mà đã phát triển với nền kinh tế hàng hóa-tiền tệ, dù không tái sản xuất.
Có lẽ không nhận ra điều này, nên Tây Sơn không coi họ Nguyễn ở phía Nam là kẻ thù trước mắt cần tiêu diệt, nên tập trung binh lực chấm dứt nhà nước Lê-Trịnh ở Bắc hà. Tác giả “Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung” [11] nhận xét rất chính xác, khi viết: Thực là nguy hiểm khi Nguyễn Nhạc cho rằng kẻ thù ở phía Nam chỉ là cá nhân Nguyến Ánh và một số tướng tá, mà không thấy rằng mầm móng tai họa ấy là cả một từng lớp địa chủ [12] đông đảo ở Gia Định là chỗ dựa của Nguyễn Phúc Ánh.
Thực ra mấy lần quân Tây Sơn kéo vào chỉ đánh quân lính của Nguyễn Ánh và những tay chân trực tiếp, sau đó không hề đụng chạm đến tình hình kinh tế, xã hội ở Gia Định. Do vậy, hễ túng thế thì Nguyễn Ánh bỏ chạy, nhưng tạm yên thì ông ta lại quay về Gia Định như về nhà của mình vậy.
Động thái này đưa Tây Sơn đến một hâụ quả không lường được mà ngay cả Nguyễn Huệ đến lúc sắp mất mới nhận ra, thì đã muộn. Đại thắng quân Thanh ít lâu, nghe tin Nguyễn Ánh thu phục lại Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế lừng lẫy, Nguyễn Huệ càng buồn thêm, bịnh ngày càng nặng thêm, cho goị Trần Quang Diêụ và các quan thân tín khác dặn rằng: ” Ta mở mang cõi đất, cả cõi Nam, nay bịnh ắt không khỏi, Thái tử tư chất hơi cao, nhưng tuổi hãy còn nhỏ, ngoài có thù nước ở Gia Định. Thái Đức (tức Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, nhàn rổi vui chơi cầu an, không mưu tính đến việc đời sau. Khi ta chết rồi, nên trong một tháng, làm laọ thảo để chôn táng thôi. Bọn ngươi nên cùng nhau giúp Thái tử sớm thiên đến Vĩnh đô (Nghệ An), để thống chế thiên hạ. Không thế thì quân ở Gia Định ra, bọn ngươi chết không có đất mà chôn đấy [13].
Nói chung việc quản lý Gia Định yếu kém là một thất sách lớn về chánh trị của Tây Sơn. Thất sách đó tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh trở về lập căn cứ ở Nước Xóay làm bàn đạp chiếm Gia Định. Nguyễn Huệ bận đối phó với việc quân Thanh xâm lược Việt Nam, Nguyễn Nhạc bỏ rơi Gia Định.
Lúc Nguyễn Ánh trở về chiếm được phân nửa Gia Định và lấy Nước Xoáy-Tân Long làm căn cứ ( tháng 10/ 1788) cũng là lúc nhà Mãn Thanh chuẩn bị xua 50 vạn quân tràn qua biên giới Vịêt Trung xâm lược Bắc hà. Nguyễn Huệ đang ở Phú Xuân phải tập trung tăng cường binh lực, lên kế hoạch hành quân đối phó quân xâm lược nhà Thanh, một vấn đề trọng đại và cấp bách, nên Nguyễn Ánh có cơ hội đánh chiếm Gia Định.
Gần hai năm trời từ khi Nguyễn Ánh về nước lập căn cứ Nước Xoáy–Tân Long đánh lấy lại Gia Định, Nguyễn Nhạc bỏ mặc Nguyễn Lữ đối phó, rồi đến khi Nguyễn Lữ bỏ chạy về Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc cũng không có động thái gì cứu giúp Gia Định, để một mình thái bảo Phạm Văn Tham loay hoay chóng đỡ cho tới lúc thế cùng lực tận phải đầu hàng Nguyễn Ánh.
Tình trạng cát cứ của nhà nước Tây Sơn.
Đây là nguyên nhân bao trùm, khiến cho nhà Tây Sơn chẳng thất bại trước Nguyễn Ánh mà còn để cho Nguyễn Ánh thay thế vai trò lịch sử thống nhứt đất nước của mình.
Quá trình phong kiến hóa nhà nước Tây Sơn bắt đầu diễn ra ngay vào lúc Tây Sơn sắp thực hiện xong sứ mạng thống nhứt đất nước. Ngay sau khi vừa tiêu diệt được thế lực phong kiến của họ Trịnh ở Đàng Ngoài (1786), công cuộc thống nhứt đất nước chỉ còn tiêu diệt thế lực của Nguyễn Ánh ở Gia Định nữa là xong; lực lượng Tây Sơn lại bắt đầu phân hóa theo xu hướng phong kiến cát cứ, phân chia đất đai và quyền lực, điều mà họ đấu tranh suốt hơn mười năm mới xóa bỏ được. Rồi tiếp liền theo đó là cuộc tranh chấp quân sự đáng tiếc xảy ra giữa anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ làm tổn hao oan uổng biết bao nhiêu sinh mạng. Biến cố này dẫn đến việc hàng loạt phú hào ở Gia Định nổi lên theo Nguyễn Ánh, có cả một số tướng tài của Tây Sơn, như Nguyễn Văn Trương (của Nguyễn Nhạc), Nguyễn Đằng Vân, Nguyễn Văn Duệ (của Nguyễn Huệ) đầu hàng Nguyễn Ánh và Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm… ra mặt phản bội Nguyễn Huệ, có cả một số nhân sĩ Bắc hà trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh.
Chính vì tình trạng phân quyền cát cứ này làm cho Quang Trung không tiến hành trấn áp Nguyễn Ánh ngay sau khi chiến thắng 50 vạn quân Thanh, vì e ngại lực lượng của Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn có thể đánh úp sau lưng. Quy Nhơn vô tình biến thành rào chắn cho Gia Định giúp Nguyễn Ánh có điều kiện khôi phục kinh tế và phát triển binh lực.
Cũng có ý kiến cho rằng chính cái chết của Quang Trung mới là nguyên nhân, điều kiện chủ yếu giúp Nguyễn Ánh đi đến thắng lợi cuối cùng. Sự qua đời của Quang Trung là một hiện tượng ngẩu nhiên. Dù cho vua Quang Trung qua đời đột ngột, nhưng nếu nhà nước Tây Sơn là một nhà nước phong kiến thống nhứt, không có sự phân chia quyền lực, chắc chắn Tây Sơn theo kế hoạch do Quang Trung vạch sẵn cũng thừa sức đánh đuổi Nguyễn Ánh ra khỏi Gia Định, làm sao Nguyễn Ánh có cơ hội đánh chiếm cả nước! Đàng này sau khi Quang Trung qua đời, con vua Quang Trung, Cảnh Thịnh không lo tiêu diệt Nguyễn Ánh mà lại tập trung binh lực bức hiếp Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc, rồi giải tán triều đình trung ương ở Qui Nhơn, chỉ cho duy trì “tiểu triều” Nguyễn Bảo, ăn lộc huyện Phù Ly.
Như vậy, dù cái chết của Quang Trung là một nguyên nhân quan trọng tạo thắng lợi của Nguyễn Ánh, nhưng trùm lên trên đó vẫn chính là tình trạng cát cứ của nhà nước Tây Sơn mới là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Đầu mối của vấn đề là ở đây, mà trước hết là sự chia rẽ giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ lên đến cao điểm phải giải quyết bằng quân sự, tạo điều kiện tốt cho Nguyễn Ánh từ Xiêm về lập căn cứ ở Long Hưng-Sa Đéc…
Nếu Long Hưng là căn cứ giúp Nguyễn Ánh thu phục được đất Gia Định, thì Gia Định trở thành bàn đạp giúp Nguyễn Ánh thu phục cả giang sơn Việt Nam về một mối.
Chú thích
[1] Phong trào nông dân Tây Sơn dưới mắt người nước ngoài, Nxb. Nghĩa Bình, 1988, tr.122.
[2] Quách Tấn – Quách Giao, Nhà Tây Sơn, Sđd, tr. 106-107.
[3] Cao Tự Thanh: Nho giáo Gia Định, Sđd, tr.67
[4] Đại Nam thực lục chính biên, Sđd, tập II, tr.83
[5] Thư Doussaine, ngày 6/6/1787 (BÈFEO, 1912, tr.19) Dẫn lại, Tạ Chí Đại Trường, Sđd. tr.148
[6] Quốc sử quán: Đại Nam lịêt truyện tiền biên, Sđd, tập 5.
[7] Lê Thành Khôi: Histoire du Viêt Nam, Paris 1981. Dẫn lại Phong trào nông dân Tây Sơn dưới mắt người nước ngoài, Nxb TH Nghĩa Bình, 1988 , tr. 111-114.
[8] Lê Thành Khôi: Hístoire du Viêt Nam, Paris 1981. Dẫn lại Phong trào nông dân Tây Sơn dưới mắt người nước ngoài, Nxb TH Nghiã Bình, 1988 , tr. 111-114.
[9] Quách Tấn – Quách Giao: Nhà Tây Sơn, TTVH Nghĩa Bình, 1988, tr.
[10] Quách Tấn – Quách Giao: Sđd, tr.131.
[11] Nguyễn Phan Quang: Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Nguyến Huệ, Nxb TP.HCM, 2006, tr.60-61
[13] Quốc Sử quán: Đại Nam liệt truyện Tập 2, Nxb Thuận Hóa-Huế 1997,tr.560.
Nguồn bài viết: Hội sử học Đồng Tháp