18/06/2018, 15:25

Lịch sử chiến tranh và tôn giáo ở Afghanistan

Lịch sử chiến tranh và tôn giáo tại Afghanistan (*) Afghanistan là đất nước ngã tư đường nơi nhiều nền văn minh Ấn-Âu đã tương tác và thường xung đột với nhau, và đây cũng là một vị trí quan trọng của hoạt động thời cổ. Qua các giai đoạn, vùng này đã trở thành nơi sinh sống của nhiều ...

Lịch sử chiến tranh và tôn giáo tại Afghanistan (*)

Afghanistan là đất nước ngã tư đường nơi nhiều nền văn minh Ấn-Âu đã tương tác và thường xung đột với nhau, và đây cũng là một vị trí quan trọng của hoạt động thời cổ. Qua các giai đoạn, vùng này đã trở thành nơi sinh sống của nhiều sắc tộc, trong số đó có người Aryan (các bộ tộc người Ấn-Iran), như Kambojas, Bactria, Ba Tư, …

Nước này cũng đã bị xâm lược hay chinh phục bởi nhiều dân tộc khác, gồm các đế quốc Media Ba Tư, Hy Lạp, người Kushan, người Hepthalite, người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Mông Cổ. Mặt khác, những thực thể xuất hiện tại đây cũng đã xâm lược hay chinh phục các vùng xung quanh tại Cao nguyên Iran và Tiểu lục địa Ấn Độ để thành lập lên các đế chế của riêng họ.

Theo dòng lịch sử

– 2000 -1200 TCN: những làn sóng người Aryan nói tiếng Ấn-Âu từ phía bắc sông Amu Darya được cho là đã tràn xuống các vùng phía bắc Afghanistan và sau đó mở rộng về phía nam về hướng Ấn Độ và phía đông tới Ba Tư, lập lên một quốc gia trong thời kỳ cai trị của người Medes và người Ba Tư Achaemenid và được biết đến với cái tên Aryanam có nghĩa “Lãnh địa của người Aryan”, gồm cả nhiều phần tại Lưỡng Hà, Caucasus, Armenia, Azerbaijan, Iran và Trung Á hiện nay .

– Thế kỷ thứ 6 TCN : sát nhập vào Đế chế Ba Tư của nhà Achaemenid

Năm 330 TCN: Alexandros Đại đế đã xâm chiếm Afghanistan và chinh phục những vùng xung quanh. Sau một thời gian ngắn dưới sự cai trị của Alexandros, các quốc gia hậu thân của nền văn minh Hy Lạp cổ như Seleucid và Hy-Bactria đã chinh phục vùng này, trong khi nhà Maurya từ Ấn Độ đã sáp nhập vùng đông bắc trong một thời gian và du nhập Phật giáo vào đây cho tới khi vùng này lại quay trở lại thuộc quyền kiểm soát của người Bactria.

– TK 1-3 : thành lập đế chế Kushan bảo hộ Phật giáo. Người Kushan đã bị người Sassanid đánh bại ở thế kỷ thứ 3. Dù nhiều vị vua cai trị tự gọi mình là người Kushan (và nói chung được gọi là người Kushano-Sassanian) tiếp tục cai trị ít nhất nhiều phần vùng ngày nay thuộc Afghanistan, có lẽ họ ít nhiều phụ thuộc người Sassanid. Tiếp sau người Kushan là người Hun Kidarite và tới lượt họ cũng bị thay thế trong bởi một triều đại ngắn ngủi nhưng đã đạt tới đỉnh cao quyền lực của người Hephthalite, ở nửa đầu thế kỷ thứ 5. Người Hephthalite bị vị vua Khosrau I nhà Sasanid đánh bại năm 557, ông đã tái lập quyền lực của người Sasanid tại Ba Tư. Tuy nhiên, những người kế vị người Kushan và Hepthalite đã lập lên một triều đình nhỏ tại Kabulistan được gọi là Kushan-Hephthalite hay Kabul-Shahan và sau này triều đình đó đã bị đánh bại bởi các đội quân Hồi giáo.

– 875-999 : vương triều Samanid
– 977-1187 : vương triều Ghaznavid
– 1037-1194: vương triều Seljuk
– 1149-1212: vương triều Ghrid
– 1219 : Mông Cổ xâm lược, vương triều của dòng họ Ý Nhi
– 1370-1506: nhà Timurid
– 1504, Đế quốc Mogul với thủ đô tại Kabul
– 1709-1751, vương quốc của người Pastun thành lập tại Afghanistan

Đế quốc Quý Sương- Kushan

Giữa năm 177 và 165 BCE, sự mở rộng về phía tây của đế chế người Hán của Trung Quốc vào Gansu (Cam Túc) và Đông Turkistan (Tân Cương) đã đẩy những bộ lạc du cư bản địa Trung Á ra xa phía Tây. Một trong những bộ tôc này là Hung Nô (Xiongnu) đã tấn công bộ lạc khác là Nguyệt Thị (Yuezhi) và đã đồng hóa đa phần (bản sắc) của họ. Nguyệt Thị (Yuezhi) là một chủng tộc người da trắng (Caucasian), nói tiếng thổ ngữ Đông-Âu và đại diện cho người di cư của hướng cực đông thuộc chủng tộc da trắng. Theo một số tài liệu, một trong năm bộ tộc dòng dõi quý tộc của Yuezhi, được nhắc đến trong các sử liệu Hy Lạp là người Tocharians (Thổ Hỏa La), đã di trú đến phía Đông Kazakhstan ngày nay, rồi đi về phía nam của người du mục địa phương Shakas (người Iran cổ: Saka), được biết đến là người Hy Lạp như Scythia. Tuy nhiên, cả hai Tocharians và Shakas đều nói tiếng Iran. Do sự khác biệt trong ngôn ngữ này, nó có sự tranh cãi về những người Tocharians có liên quan hay không đến con cháu của người Yuezhi, người thiết lập nền văn minh phát triển mạnh ở Kucha và Turfan thuộc Đông Turkistan vào thế kỷ thứ hai EC cũng được biết là “Tocharians”. Tuy nhiên, rõ ràng rằng chủng tộc Shakas này không liên quan đến gia tộc Shakya của trung tâm Bắc Ấn nơi mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được sinh ra.

Những người Shakas đầu tiên xâm chiếm Sogdia từ người Graeco-Bactrians và sau đó dưới thời cai trị của vua Menandros, vào năm 139 BCE đã chiếm luôn Bactria. Ở đây, người Shakas này đã chuyển sang đạo Phật. Vào năm 100 BCE, người Tocharians xâm đoạt xứ Sogdia và Bactria từ người Shakas. Khi định cư ở đây, họ cũng đồng hóa với Phật giáo. Đây là sự khởi đầu của thời đại Dyna Kushan, và cuối cùng nới rộng đến Kashmir, miền Bắc Pakistan, và tây bắc Ấn Độ.

Vị vua Kushan nổi tiếng nhất là Kanishka (Ca Nị Sắc Ca – cai trị năm 78 – 102 CE), thủ đô phía tây của ông ta là Kapisha. Ông ta ủng hộ Trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ của Tiểu thừa. Hệ phái Vaibhashika (Tỳ Bà Sa Luận) của trường phái này đặc biệt nổi bật tại Tocharistan. Nhà sư Ghoshaka (Thiên Thân) người Tocharian là một trong những nhà biên soạn về những lời luận giải Vaibhashika về abhidharma (A Tỳ Đạt Ma-những chủ đề đặc biệt về diệu trí), và bộ luận này được chấp thuận tại Hội đồng kiết tập kinh điển lần thứ tư dưới sự chủ trì của vua Kanishka. Khi ngài Ghoshaka trở lại Tocharistan sau lần kiết tập này, ngài thành lập Học viện Vaibhashika ở phía tây (Balhika). Tu viện chính là Nava Vihara ở Balkh-nhanh chóng trở thành trung tâm nghiên cứu Phật giáo cao hơn cho tất cả các khu vực Trung Á, tương đương với Tu viện Nalanda ở trung tâm phía bắc Ấn Độ. Nó đặt nặng sự nghiên cứu chủ yếu của A Tỳ Đàm Vaibhashika và thừa nhận chỉ có các nhà sư là người đã sáng tác những luận bản về chủ đề này. Từ khi luận bản này được cất vào nơi đặt xá lợi răng của Đức Phật, khu vực này cũng là một trong những trung tâm chính của các cuộc hành hương dọc theo con đường Tơ Lụa từ Trung Quốc sang Ấn Độ.

Balkh đã là nơi sinh của Zoroaster (ông tổ giáo phái Ba Tư thờ thần lửa) vào khoảng năm 600 BCE. Nó là thành phố thánh của Đạo Thờ lửa (Zoroastrianism), tôn giáo của người Iran đã phát triển lời dạy của vị giáo chủ này và thực hành sự tôn kính về lửa, Kanishka theo chính sách Graeco-Bactrian về sự khoan dung tôn giáo. Như vậy, Phật giáo và giáo phái Thờ lửa cùng chung sống một cách hòa bình tại Balkh, nơi họ giao thoa sự phát triển cùng nhau. Những tu viện Cave (ở trong các hang đá) có mặt từ thời kỳ này, ví dụ, có những bức tranh tường chư Phật với hào quang của những ngọn lửa và những câu chạm khắc vào đá gọi là “Buddha-Mazda” (Đức Phật -Thần Lửa). Đây là một sự hỗn hợp về Đức Phật và Ahura Mazda, vị thần tối cao của Zoroastrianism.

Vào năm 226 CE, đế chế Ba Tư Sassanid lật độ sự thống trị Kushan ở Afghanistan. Mặc dù nhiều người ủng hộ mạnh mẽ giáo phái Zoroastrianism, đế chế Sassanids dung hòa với Phật giáo và cho phép xây dựng nhiều tu viện Phật giáo. Đó là trong thời gian cai trị của họ. Phật tử Lokottaravada (phái Thuyết Xuất Thế Bộ) đã xây tạc hai bức tượng Phật khổng lồ tại Bamiyan.

Ngoại lệ duy nhất với sự khoan dung của đế chế Sassanid là trong giai đoạn hậu bán thế kỷ thứ ba, khi giáo sĩ Kartir, vị cao cấp của Đạo Thờ Lửa chiếm ưu thế trong chính sách tôn giáo của nhà nước. Ông ta ra lệnh phá hủy nhiều tu viện Phật giáo tại Afghanistan, khi sự hòa trộn về Phật giáo và Zoroastrianism xuất hiện, ông ta cho là dị giáo. Tuy nhiên, sau khi ông ta chết, Phật giáo sau đó hồi phục một cách nhanh chóng.

Người White Huns và Turki Shahis

Vào đầu thế kỷ thứ năm, bộ tôc White Huns (Hung Nô trắng) – được biết như người Hephthalites của Hy Lạp và Turushkas của Ấn Độ – họ chiếm hầu hết các vùng lãnh thổ Kushan xưa từ Sassanids, bao gồm cả Afghanistan. Lúc đầu, người Hung trắng theo tôn giáo của mình giống như giáo phái Zoroastrianism. Tuy nhiên, ngay sau đó họ trở thành những hộ pháp mạnh mẽ của Phật giáo. Người Hung Nô Trung Quốc hành hương đến Faxian (Fa-hsien) đi qua lãnh thổ của họ giữa năm 399 và 414 CE và đã ghi chép sự phát triển của nhiều trường phái Tiểu thừa.

Shahis Turki là một giống dânThổ Nhĩ Kỳ có thủy tổ của người Kushans. Sau sự sụp đổ của triều đại Kushan đến Sassanids, họ chiếm hết những vùng của đế chế cũ nằm ở phía tây bắc và phía Bắc Ấn Độ. Họ cai trị cho đến khi hình thành triều đại Gupta Ấn Độ vào đầu thế kỷ thứ tư, và sau đó họ trốn sang Nagarahara. Họ xâm chiếm các vùng đất thuộc về người White Huns, đến giữa thế kỷ thứ tư, họ mở rộng quyền lực của mình đến Kabul Valley và Kapisha. Giống như người Kushans và White Huns trước đó, người Shahis Turki ủng hô Phật giáo tại Afghanistan.

Năm 515, vua của người Hung Nô trắng là Mihirakula (Đại Tộc Vương), dưới tác động ganh ghét của những bè phái không phải Phật giáo trong thời gian cai trị, ông ta đã đàn áp Phật giáo. Ông ta đã tàn phá những tu viện và đã giết chết nhiều tăng sĩ khắp Tây Bắc Ấn Độ, Gandhara, và đặc biệt tại Kashmir. Cuộc bức hại này ít nghiêm trọng trong những vùng thuộc về Nagarahara mà ông kiểm soát. Con trai của ông sau đó đảo ngược chính sách này và xây những tu viện mới trong tất cả vùng này.

Tây Thổ Nhĩ Kỳ (The Western Turks)

Đến từ miền bắc West Turkistan, người Thổ Nhĩ Kỳ phía Tây đã chiếm tiếp vùng phía Tây của con đường tơ lụa Trung Á vào năm 560. Dần dần, họ mở rộng đến Bactria, chạy dài tới Shahis Turki đến miền đông Nagarahara. Nhiều nhà lãnh đạo người Thổ Nhĩ Kỳ phía tây đã tiếp nhân Phật giáo từ người dân địa phương, và vào năm 590, họ xây dựng một tu viện Phật giáo mới tại Kapisha. Năm 622, Vị thống lãnh người Western Turk này là Tongshihu Qaghan chính thức quy y Phật giáo dưới sự hướng dẫn của ngài Prabhakaramitra (Ba La Phả Ca La Mật Đa La), một nhà sư hành cước người miền bắc Ấn.

Nhà sư người Hán Trung Quốc hành hương là Huyền Trang (Hsuan-Tsang) đã ghé thăm vùng Western Turks trong khoảng năm 630 trên đường đi đến Ấn Độ. Ngài ghi chép rằng Phật giáo đang hưng thịnh ở vùng Bactrian thuộc đế chế của họ, đặc biệt là tại Tu Viện Nava Vihara ở Balkh. Ngài nói rằng tu viện đại học không chỉ có kinh sách nghiên cứu, mà còn có các bức tượng Phật đẹp tuyệt vời của nó, tượng được phủ với những chiếc áo lụa cà sa và trang điểm các thứ trang sức châu báu, phù hợp với phong tục bản xứ Zoroastrian. Các tu viện đã có sự liên kết chặt chẽ vào giai đoạn Khotan, một vương quốc Phật giáo mạnh mẽ Đông Turkistan, và gửi nhiều tu sĩ đến đây để dạy. Huyền Trang cũng mô tả một tu viện gần Tinh xá Nava Vihara được dành riêng để nâng cao sự thực hành thiền Tiểu thừa của vipashyana (Pali: vipassana) – sự nhận thức phản chiếu tính vô thường và thiếu đặc tính độc lập của cá nhân.

Ngài Huyền Trang đã tìm thấy Phật giáo ở trong tình trạng rất tồi tệ tại Nagarahara dưới thời Shahis Turki. Ở vùng Punjabi của Gandhara, khu vực này dường như không hoàn toàn hồi phục từ cuộc đàn áp bởi vua Mihirakula hơn một thế kỷ trước đó. Mặc dù Nagara Vihara, với thánh tích hộp sọ của Đức Phật, là một trong những địa điểm hành hương thiêng liêng nhất trong thế giới Phật giáo, ngài ghi chép rằng các nhà sư ở đây đã trở nên thoái hóa. Họ đã tính phí khách hành hương với một đồng tiền vàng để được xem phật tích và không có trung tâm nghiên cứu trong toàn bộ khu vực.

Hơn nữa, mặc dù Đại Thừa đã đạt được những thuận thế vào Afghanistan từ Kashmir và Punjabi Gandhara trong thế kỷ thứ năm và thứ sáu, ngài Huyền Trang đã ghi nhận sự hiện diện của nó chỉ tại Kapisha và trong những khu vực thuộc về Hindu Kush-phía tây của Nagarahara. SarvastiVada (Nhất Thiết Hữu Bộ) vẫn chiếm ưu thế truyền thống Phật giáo thuôc về Nagarahara và miền Bắc Bactria.

Triều đại Umayyad và s mở đầu của Hồi giáo

Ba mươi năm sau cái chết của tiên tri Muhammad, người Ả Rập đánh bại Sassanids Ba Tư và thành lập đế chế Umayyad Caliphate vào năm 661. Đế chế Umayyad cai trị khắp Iran và phần nhiếu vùng Trung Đông. Năm 663, họ tấn công Bactria, mà ShahisTurki đã chiếm từ Western Turks trong thời gian này. Các quân đội Umayyad chiếm được khu vực xung quanh vùng Balkh, bao gồm tu viện Nava Vihara khiến cho người Shahis Turki rút lui tận thung lũng Kabul.

Người Ả Rập cho phép tín đồ của các tôn giáo phi-Hồi giáo trong các vùng đất mà họ chinh phục được giữ tín ngưỡng của họ nếu họ duy trì một sự hòa bình và trả thuế phiếu (Ar. jizya). Mặc dù một vài Phật tử ở Bactria và thậm chí là trụ trì của Nava Vihara cải sang Hồi giáo, hầu hết các Phật tử trong khu vực chấp nhận tình trạng dhimmi này như lòng trung thành không theo Hồi giáo và được sống yên ổn với một nhà nước Hồi giáo.Tu viện Nava Vihara vẫn mở cửa và hoạt động. Vị Sư hành hương người Hán là Yijing (Nghĩa Tịnh) đã đến thăm Nava Vihara từ năm 680 và ghi chép rằng Tu viện này phát triển mạnh mẽ như là một trung tâm nghiên cứu của trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada).

Một tác giả Umayyad Ả Rập là al-Kermani, đã trần thuật chi tiết về Nava Vihara vào đầu thế kỷ thứ tám, tác phẩm này được bảo quản vào thế kỷ thứ mười với tựa đề Book of Lands (Ar. Kitab al-Buldan) của al-Hamadhani. Ông mô tả tu viện trong thuật ngữ lưu loát dễ hiểu đối với người Hồi giáo bằng đường nét tương tự với Kaaba (kiến trúc hình khối của đền thờ Hồi giáo) ở Mecca, nơi thiêng liêng nhất của Hồi giáo. Ông giải thích rằng ngôi đền chính của tu viện có một tảng đá khối ở giữa, áo khoác bằng vải, và các tín đồ đi nhiễu xung quanh và quỳ lễ.

như trường hợp với Kaaba. Các khối đá đã được chất chồng lên nhau với một hình tháp đứng phía trên, như là phong tục trong các đền thờ Bactrian. Các lớp vải phủ  là phù hợp với phong tục của Iran biểu hiện sự tôn kính, áp dụng giống như đối với  những bức tượng Đức Phật cũng như các bảo tháp. Sự mô tả của Al-Kermani cho thấy một thái độ cởi mở và tôn trọng của  người Ả Rập Umayyad trong việc cố gắng để hiểu các tôn giáo phi-Hồi giáo, chẳng hạn như Phật giáo mà họ gặp phải trong lãnh thổ khi họ mới xâm chiếm.

Liên minh Tây Tạng

Năm 680, Husayn đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy không thành công ở Iraq chống lại đế chế Umayyads. Cuộc xung đột này đã đánh lạc hướng tập trụng của sự chú ý Ả Rập từ Trung Á và đã làm suy yếu sự kiểm soát của họ. Lợi dụng tình hình, những người Tây Tạng đã thành lập một liên minh với người Shahis Turki vào năm 705, và hợp tác với nhau, họ không thành công khi điều khiển các lực lượng Umayyad từ Bactria. Người Tây Tạng đã nghiên cứu về Phật giáo từ Trung Quốc và Nepal khoảng sáu mươi năm trước đó, mặc dù tại thời điểm này họ không có bất kỳ tu viện nào. Năm 708, hoàng tử Nazaktar Khan của Turki Shahi đã thành công trong việc trục xuất người Umayyads và thành lập một thể chế Phật giáo độc nhất ở Bactria. Thậm chí ông ta đã chặt đầu vị sư trụ trì trước đây của Nava tịnh xá, người đã cải sang đạo Hồi.

Năm 715, tướng lãnh Ả Rập – Qutaiba chiếm lại Bactria từ Shahis Turki và các đồng minh Tây Tạng của họ. Ông ta đã giáng một đòn thiệt hại lớn đối với Tu viện Nava Vihara như là hình phạt cho các cuộc nổi dậy trước đó. Nhiều tu sĩ chạy trốn về phía đông Khotan và Kashmir, và kích ứng sự phát triển của Phật giáo đặc biệt là sau này. Lúc này, Tây Tạng chuyển sang hai phe, vì sự lợi ích về chính trị, liên minh với các lực lượng Umayyad của chính nó mà họ đã từng chiến đấu.

Nava tịnh xá nhanh chóng hồi phục và sớm được hoạt động như trước, điều này chứng minh rằng sự tàn phá những tu viện Phật giáo của người Hồi giáo ở Bactria không phải là một hành động động cơ tôn giáo. Nếu thế, họ sẽ không cho phép xây dựng lại tu viện. Đế chế Umayyads chỉ đơn thuần lặp đi lặp lại chính sách đối với Phật giáo mà Phật tử đã theo trước thế kỷ đó khi họ chinh phục những vùng Sindh thuộc về hướng South Pakistan ngày nay. Họ đã tàn phá duy nhất các tu viện mà họ bị nghi ngờ chứa chấp những người chống đối sự cai trị của họ, nhưng sau đó họ cho phép xây dựng lại và để người khác phát triển. Mục tiêu chính của họ là việc khai thác kinh tế và do đó họ bắt Phật tử phải đóng thuế thường niên và thuế hành hương khi du khách đến chiêm bái cái thánh tích.

Mặc dù xu hướng chung của sự khoan dung tôn giáo bởi các đế chế Hồi giáo Umayyad trước, vua Umar II (trị vì 717-720) ra lệnh rằng tất cả các đồng minh đế chế Umayyad phải theo Hồi giáo. Tuy nhiên, sự chấp nhận của họ phải là tự nguyện, dựa trên cơ sở học tập các giáo điều của nó. Để xoa dịu đồng minh của mình, những người Tây Tạng đã gửi một đặc phái viên đến cung điện Umayyad vào năm 717 để mời một giáo viên Hồi giáo. Vua Caliph đã gửi al-Hanafi đi. Thực tế là giáo viên này đã được ghi nhận là không có thành công trong việc đạt được kết quả từ sự cải đạo ở Tây Tạng mà người Umayyad không nhất thiết yêu cầu truyền bá tôn giáo của họ. Hơn nữa, việc tiếp đón lạnh lùng mà al-Hanafi nhận được là vì mục đích để bầu không khí bài ngoại được lan truyền bởi phe đối lập tại cung điện Tây Tạng.

Trong những thập kỷ tiếp theo, liên minh chính trị và quân sự thay đổi thường xuyên như người Ả Rập, Trung Quốc, Tây Tạng, Turki Shahis, và các bộ tộc gốc Thổ Nhĩ Kỳ  khác đã chiến đấu vượt quyền kiểm soát của Trung Á. Turki Shahis tái chiếm Kapisha từ Umayyads, năm 739, những người Tây Tạng tái thiết lập liên minh với họ bởi một chuyến viếng thăm của hoàng đế Tây Tạng đến Kabul để kỷ niệm một sự hợp nhất liên minh giữa Shahis Turki và Khotan. Triều đại Umayyads tiếp tục cai trị phía Bắc Bactria.

Triều đại Abbasid

Năm 750, một phe Ả Rập đã lật đổ đế chế Umayyad Caliphate và thành lập Vương triều Abbasid. Họ đã duy trì sự kiểm soát khắp phía bắc Bactria. Triều đại Abbasids không chỉ tiếp tục chính sách chấp nhận tình trạng giữ đạo đối các Phật tử ở đây, họ đã quan tâm rất lớn với nền văn hóa nước ngoài, đặc biệt là Ấn Độ. Năm 762, vua Hồi giáo al-Mansur (trị vì 754 – 775) thuê các kiến ​​trúc sư và kỹ sư Ấn Độ để thiết kế thủ phủ Abbasid tại Baghdad. Ông lấy tên cho nó từ tiếng Phạn Bhagadada, có nghĩa là “Gift of God” (quà tặng của thượng đế). Vua Caliph cũng xây dựng một Ngôi Nhà kiến ​​Thức(Ar. Bayt al-Hikmat), với một văn phòng dịch thuật. Ông mời các học giả từ các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau để dịch các kinh văn sang tiếng Ả rập, đặc biệt là liên quan đến các chủ đề logic và khoa học.

Những vị vua Hồi giáo Abbasid là người bảo trợ cho trường Mu’tazila của Hồi giáo đã tìm cách để giải thích các giáo điều của Kinh Quran từ quan điểm của lý luận. Sự tập trung chính là về việc học tiếng Hy Lạp cổ đại, nhưng cũng quan tâm đến những truyền thống của Phạn ngữ. Không chỉ những kinh văn mang tính khoa học được dịch, tuy nhiên, tại Ngôi Nhà Kiến ​​Thức. Các học giả Phật giáo đã dịch một số kinh điển Đại thừa và Tiểu thừa sang tiếng Ả Rập với các chủ đề thuộc về niềm tin và đạo đức.

Vị vua Hồi giáo kế tiếp là al-Mahdi (trị vì 775-785), đã ra lệnh các lực lượng Abbasid tại Sindh tấn công Saurashtra đến phía đông nam. Trong khuôn mặt của một người với tham vọng cạnh tranh ở Ả Rập ông ta đã tuyên bố Mahdi  là chúa cứu thế Hồi giáo, cuộc xâm lược là một phần của chiến dịch của vị vua Caliph này để thiết lập uy tín và uy quyền tối cao của mình như là nhà lãnh đạo của thế giới Hồi giáo. Quân đội Abbasid đã phá hủy những tu viện Phật giáo và những đền thờ của đạo Jain tại Valabhi. Giống như trường hợp sự xâm chiếm Umayyad của Sindh, tuy nhiên, họ dường như chỉ để tiêu diệt các trung tâm bị nghi ngờ chứa chấp những người chống lại sự cai trị của họ. Ngay cả dưới Caliph al-Mahdi,  thời đại Abbasid để yên những tu viện Phật giáo như sự chống đỡ cho đế chế của họ, với mục đích khai thác chúng như là nguồn thu nhập quốc gia. Ngoài ra, al-Mahdi tiếp tục mở rộng các hoạt động dịch thuật của The House Of Knowledge (Ngôi Nhà Kiến ​​Thức) tại Baghdad. Ông không có ý định phá hủy nền văn hóa Ấn Độ, nhưng học hỏi từ nó.

Yahyaibn Barmak, cháu trai của người Hồi giáo, ông ta là  một  trong những Phật tử  lãnh đạo tài chính (Skt. pramukha,Ark.barmak) của Tu viện Nava Vihara, là vị công sứ của đế chế Hồi giáo Abbasid tiếp theo-al-Rashid (trị vì 786-808). Dưới ảnh hưởng của ông, Vua Caliph mời nhiều học giả và pháp sư từ Ấn Độ đến Baghdad, đặc biệt là Phật tử. Một bản liệt kê về kinh sách của cả Hồi giáo và phi-Hồi giáo  được chuẩn bị vào thời gian này, Kitab alFihrist, bao gồm một danh sách các tác phẩm Phật giáo. Trong số đó có một phiên bản tiếng Ả Rập nói về câu chuyện tiền kiếp của Đức Phật, sách củaPhật (Ar. Kitab al-Budd).

Hồi giáo làm chủ vùng Bactria tại thời điểm này giữa các chủ đất và các công chức cao. Đào tạo các lớp học tại đô thị bằng sự hấp dẫn mức độ cao của nền văn hóa và nghiên cứu. Để theo học Phật giáo, người ta cần phải bước vào một tu viện. Nava Vihara, mặc dù vẫn còn hoạt động trong thời gian này, bị giới hạn trong khả năng của mình và yêu cầu mở rộng việc đào tạo trước khi người ta đi vào (tu viện). Mặt khác, văn hóa và học tập của Hồi giáo dễ dàng tiếp cận hơn. Giai đoạn này Phật giáo vẫn còn mạnh mẽ chủ yếu giữa các tầng lớp nông dân ở ngoại ô, hầu hết là trong hình thức thực hành tín ngưỡng ở các đền thờ tôn giáo.

Ấn Độ giáo cũng có mặt trong khu vực này. Vào năm 753, một người Hán Trung Quốc hành hương đến đây tên là Wukong (Ngộ Không -Wu-k’ung) đã ghi nhận rằng các chùa  Ấn Độ giáo và Phật giáo đặc biệt là ở tại thung lũng Kabul. Khi Phật giáo suy sụp bởi các tầng lớp thương gia, Ấn Độ giáo cũng phát triển mạnh mẽ hơn.

Cuộc nổi loạn chống lại đế chế Abbasids

Những đế chế Abbasids bị tai nạn bởi các cuộc nổi loạn. Caliph al-Rashid đã chết vào năm  808  vào lúc ông ta đàn áp cuộc nổi dậy tại Samarkand, thủ đô Sogdia. Trước khi qua đời, ông chia đế chế của mình cho hai người con trai của mình. Al-M’amun, người đã tháp tùng cha của mình trên các chiến dịch tại Sogdia, nhận được phân nửa phía Đông, bao gồm Bactria. Al-Amin, người nhiều quyền thế hơn cả hai, đã nhận được phân nửa phía Tây có uy tín hơn, bao gồm cả Baghdad và Mecca.

Để đạt được sự ủng hộ của số đông, và để chiếm hơn một nửa của đế chế Abbasid  thuộc về al-Amin, al-Ma’mun sắp xếp đất đai và của cải ở Sogdia. Sau đó ông đã tấn công anh trai của mình. Trong cuộc chiến tương tàn xảy ra đó, người Shahis Turki tại thủ đô Kabul hợp lực với các đồng minh Tây Tạng của họ, gia nhập lực lượng với quân nổi dậy chống Abbasid ở Sogdia và Bactria để tận dụng lợi thế của tình hình và cố gắng để lật đổ sự cai trị của đế chế Abbasid. Al-Fadl, công thần và tướng lãnh của Al-Ma’mun đã khuyến khích người cai trị của mình tuyên bố một cuộc thánh chiến (Jihad), một cuộc thánh chiến chống lại liên minh này nhằm nâng cao hơn nữa uy tín của Caliph (vua Hồi giáo). Chỉ có những nhà lãnh đạo duy trì đức tin thuần khiết mới có thể tuyên bố một cuộc thánh chiến để ngăn ngừa những kẻ thù xâm lược chống lại Hồi giáo.

Sau khi đánh bại anh trai của mình, al-Ma’mun tuyên bố cuộc thánh chiến này. Năm 815, ông đã đánh thắng người cại trị xứ Turki Shahi  được biết là Shah Kabul, và buộc ông này phải cải sang đạo Hồi. Sự xúc phạm lớn nhất đối với tín ngưỡng Hồi giáo là đối với thần tượng tôn thờ. Các giáo phái ngoại đạo của người Ả Rập thì các tượng thờ đặt  trước tượng thần Muhammad và giữ bức tượng của họ ở Mecca tại đền thờ Kaaba. Vào lúc thiết lập Hồi giáo, Vị Prophet phá hủy tất cả. Vì vậy, như là một dấu hiệu của sư phục tùng, al-Ma’mun sắp đặt cho Shah gửi một bức tượng Phật bằng vàng đến thánh địa Mecca. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì mục đích tuyên truyền để bảo đảm sự hợp pháp của mình, al-Ma’mun giữ bức tượng được trưng bày công khai tại Kaaba trong hai năm, với thông báo rằng Allah đã đưa vua Tây Tạng sang đạo Hồi. Người Ả Rập bấy giờ đã hoang mang rằng vua của Tây Tạng là chư hầu của ông ta, là người Shah Turki của Kabul. Năm 817, người Ả Râp nấu chảy tượng Phật để đúc tiền vàng.

Sau sự thành công chống lại Shahis Turki, người Ả Rập (Abbasids) này tấn công Tây Tạng-khu vực kiểm soát của Gilgit, ngày nay là miền bắc Pakistan, trong một thời gian ngắn, họ đã sáp nhập. Họ đã gửi một người chỉ huy Tây Tạng đã bị bắt để làm bẻ mặt lại Baghdad.

Sự thành lập đế chế Qarakhanid

Khi người Thổ Nhĩ Kỳ Orkhon Uighur được điều khiển từ Mông Cổ bởi sự tiếp quản của Kyrgyz vào năm 840 CE, họ bị mất sở hữu lãnh địa thiêng liêng- ngọn núi vàng Otukan gần thủ đô xưa của họ, Ordubaliq. Theo tín ngưỡng Manichaean Tengrian và Phật giáo trước kia của người Turks, bất cứ ai kiểm soát ngọn núi này là những nhà cai trị học thuyết của toàn bộ thế giới Thổ Nhĩ Kỳ. Chỉ có ông ta và con cháu ông ta mới có thẩm quyền tinh thần để chấp nhận danh xưng qaghan, và chỉ có bộ lạc của ông ta mới có thể cung cấp các nhà lãnh đạo chính trị cho các bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ khác. Các lực lượng tâm linh (qut) đại diện cho vận mạng của Thổ Nhĩ Kỳ như một toàn thể cư trú trong ngọn núi này và sẽ hiện thân trong qaghan như là lực lượng quan trọng của chính ông ta hoặc sức mạnh lôi cuốn với việc chịu trách nhiệm cho sự thành công hay thất bại của mình.

Các nhà lãnh đạo của hai vương quốc lớn được thiết lập bởi những người tị nạn Duy Ngô Nhĩ, người Duy Ngô Nhĩ Qocho ở hướng bắc Tarim Basin và người Yugurs Vàng ở Gansu Corridor đã không hội đủ điều kiện cho danh xưng chính trị-tôn giáo này kể từ khi lãnh địa của họ đã không mở rộng đến Mông Cổ. Từ khi người Kyrgyz thuộc về chủng tộc Mông Cổ và đã không nói tiếng gốc Thổ Nhĩ Kỳ, họ cũng không làm nhà cai trị Hyrgyz của chính Mông Cổ. Họ là những người của vùng rừng Siberian, không phải của thảo nguyên, và không tin vào sự thiêng liêng của Otukan.

Tuy nhiên có một ngọn núi thiêng liêng thứ hai, Balasaghun, trên sông Chu River ở miền bắc Kyrgyzstan gần Lake Issyk Kul. Nó được dưới sự kiểm soát của Western Turks, những người đã xây dựng nhiều tu viện Phật giáo trên các sườn dốc của nó. Khi ngọn núi nằm trong lãnh thổ Qarluq Turk, nhà cai trị Qarluq, Bilga Kul Qadyr, vào năm 840 tuyên bố mình là “qaghan”, nhà lãnh đạo hợp pháp và bảo vệ của tất cả các bộ lạc gốc Thổ Nhĩ Kỳ, và đổi tên vương quốc và triều đại của ông ta thành Qarakhanid (Karakhanid ).

Ngay sau khi thành lập, Đế chế Qarakhanid chia làm hai. Chi nhánh phía tây có thủ đô của nó tại Taraz trên Talas River và bao gồm các thành phố lớn của Kashgar với phía đông nam, xuyên qua dãy núi Tianshan ngay cuối cực tây của lưu vực Tarim Basin. Việc phân chia phía đông, đến phía bắc qua dãy Kyrgyz Range được tập trung xung quanh ngọn núi linh thiêng của Balasaghun trên Chu River.

Sự quan hệ giữa Qarakhanids và Uighurs (Ngô Duy Nhĩ)

Trong suốt giai đoạn của họ (840 – 1137), những đế chế Qarakhanids không bao giờ phát động một chiến dịch quân sự chống lại những lãnh chúa cũ của mình-đế chế Duy Ngô Nhĩ (Uighurs), mặc dù trước đó, như Qarluqs, họ đã thường xuyên chiến đấu. Hai trong số bốn cộng đồng tị nạn Orkhon Uighur là rất nhỏ và đã định cư ở trong đế chế Qarakhanid – tại Kashgar và dọc theo thung lũng Chu River Valley. Không rõ vì lý do gì họ trở nên đồng hóa, hoặc nếu có thể họ duy trì chính mình như là dân tộc thiểu số nước ngoài. Tuy nhiên, các đế chế Qarakhanids đã duy trì một sự cạnh tranh văn hóa với hai dân tộc khác, nhiều nhóm lớn hơn, người Duy Ngô nhĩ Qocho và người Yugurs Vàng. Họ cố gắng dùng văn hóa khác, với mục đích phi quân sự để đạt được uy thế cho mình.

Bộ lạc Duy Ngô Nhĩ Qocho đã trở thành đô thị hóa cao trong các ốc đảo phía bắc của Tarim Basin. Từ bỏ những truyền thống quân sự ngày xưa với những thảo nguyên và tiếp nhận Phật giáo, họ sống chủ yếu trong hòa bình với các vương quốc xung quanh. Bộ lạc Yugurs Vàng cũng trở thành đô thị hóa ở các thành phố chính của Gansu Corridor, họ cũng trở thành Phật tử, nhưng chiến tranh gần như liên tục với các nước láng giềng của họ-Tanguts, với phía đông tiếp tục đe dọa họ. Các bộ lạc Uighur có quan hệ thân thiện với Trung Quốc, kể từ khi những người định cư bản địa Hán tại đây đã giúp họ lật đổ những cựu lãnh đạo Tây Tạng của khu vực và thiết lập vương quốc của họ.

Quan hệ ban đầu giữa đế chế Qarakhanids và Tây Tạng

Hai dân tộc Duy Ngô Nhĩ cùng nhau thành lập nhóm Thổ Nhĩ Kỳ duy nhất vào thời điểm đó với một ngôn ngữ viết và một nền văn hóa cao mà họ đã đạt được với sự giúp đỡ của các thương nhân Sogdian và các tu sĩ sống trong cả hai lãnh địa của họ. Người Qarakhanids thiếu những phẩm chất này, mặc dù sự kiểm soát của họ ở Kashgar, cũng có một sự hiện diện Sogdian. Tuy nhiên, với chủ hữu vùng Balasaghun, họ đã có một sự tuyên khai mạnh mẽ cho sự lãnh đạo của của dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ.

Qarakhanids duy trì pháp tục ủng hộ sự pha trộn của Phật giáo, Thổ Nhĩ Kỳ Shaman giáo, và Tengrism giống như người Western Thổ Nhĩ Kỳ trước họ. Họ cũng tiếp tục quan hệ hữu nghị truyền thống với cựu đồng minh, quân sự lâu dài với Tây Tạng. Sau này, mặc dù chính trị suy yếu, họ vẫn tạo nên một sự ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ vào các lãnh thổ trực tiếp ở hướng đông của Qarakhanids. Với hơn một thế kỷ sau vụ ám sát của Langdarma vào năm 842, Tây Tạng là ngôn ngữ quốc tế của thương mại và ngoại giao được sử dụng từ vùng Khotan đến Gansu. Do sự chiếm đóng dài hạn của Tây Tạng đối với khu vực, nó chỉ là ngôn ngữ địa phương thông thường. Nhiều kinh văn Phật giáo của người Hán và người Duy Ngô Nhĩ đã được chuyển thành chữ Tây Tạng để sử dụng rộng rãi nhất, một số tác phẩm thậm chí được tài trợ bởi hoàng gia Kyrgyz.

Vương quốc Saffarid

Bằng sự biểu hiện liên kết chặt chẽ hơn giữa Qarakhanids và Tây Tạng, sau sự đàn áp của Langdarma đối với truyền thống tu viện Phật giáo, ba nhà sư tại miền trung Tây Tạng đã trốn thoát cuộc đàn áp bằng cách đi băng qua phía tây Tây Tạng và chấp nhận tị nạn tạm thời trên lãnh thổ Qarakhanid của Kashgar. Người Qarakhanids đã thông cảm với hoàn cảnh của họ, và Phật giáo đã đủ ổn định trong khu vực đó giúp họ cảm giác an toàn. Các nhà sư tiếp tục về phía đông, hầu hết dọc theo bờ rìa phía nam của vùng lòng chảo Tarim Basin, và hướng dẫn nhiều đồng bào của họ tại Gansu, cuối cùng họ định cư tại khu vực Kokonor thuộc đông bắc Tây Tạng, nơi mà vương quốc Tsongka Kingdom sớm được thành lập. Họ chịu trách nhiệm cho sự sống còn của hệ thống truyền thừa của các tu sĩ và được hồi sinh ở trung Tạng từ Tsongka một thế rưỡi sau đó.

Sau khi Tướng Tahir thành lập nhà nước Tahirid tại Bactria năm 819, tiếp theo nhà lãnh đạo Hồi giáo địa phương tuyên bố quyền tự trị dưới đế chế Abbasids là Yaqub bin al-Saffar, người thành lập triều đại Saffarid (861-910) từ thành trì của mình ở Sistan, đông nam Iran. Ông ta là một nhà thống lãnh quân sư cực kỳ tham vọng, trong năm 867 khởi hành chinh phục tất cả vùng Iran. Năm 870, lực lượng Saffarids của ông ta xâm chiếm Kabul. Đối mặt với sự thất bại kế tiếp, những nhà lãnh đạo cuối cùng của Phật giáo Shahi Turki đã bị lật đổ bởi giáo sĩ Bà La Môn của ông ta-Kallar, người đã từ bỏ Kabul với Saffarids và thành lập triều đại Hindu Shahi (870-1015) tại Gandhara và Oddiyana.

Nhà lãnh đạo Saffarid đánh cướp những tu viện của Kabul Valley và gửi những bức tượng Phật từ những tu viện này đến vua Abbasid caliph như là chiến lợi phẩm chiến tranh tại Baghdad. Sự chiếm đóng của những chiến binh Hồi giáo này tại Kabul là đòn khốc liệt đầu tiên chống lại Phật giáo tại đây. Sự thất bại trước đó và sự cải sang Hồi giáo của Kabul Shah vào năm 815 chỉ có tác động nhỏ trên tình trạng chung của Phật giáo trong khu vực.

Lực lượng Saffarids tiếp tục chiến dịch chinh phục của họ và phá hủy vùng bắc, chiếm Bactria và đánh bật lực lượng Tahirids trong năm 873. Tuy nhiên, vinh quang của họ thì thật ngắn ngủi. Năm 879, Binh lính Shahis Hindu lấy lại quyền kiểm soát của khu vực Kabul. Họ bảo trợ cả Ấn Độ giáo và Phật giáo qua quần chúng của họ, và Phật giáo được hồi sinh bao trùm cả khu vực.

Các tu viện Phật giáo tại Kabul nhanh chóng khôi phục lại sự sang trọng và vinh quang từ quá khứ của chúng. Asadi Tusi, trong tác phẩm Garshasp Name của ông ta viết vào năm 1048, mô tả tu viện Subahar được tìm thấy bởi lực lượng Ghaznavids khi họ chiếm Kabul từ Hindu Shahis khoảng năm mươi năm trước đó. Nó là một trong những ngôi chùa có bức tường đá cẩm thạch, cửa ra vào được mạ vàng, sàng nền bằng bạc, và ở trung tâm của nó, một vị Phật ở trên ngôi được làm bằng vàng. Bức tường của nó được trang trí với các biểu tượng của các hành tinh và mười hai cung hoàng đạo, giống hệt với chủ đề Zurvanite được tìm thấy trong phòng ngai vàng của cung điện Iranian Sassanid –Taqdis trong nhiều thế kỷ trước đó.

Vương quốc Samanid và Buyid

Trong khi đó, các thống đốc Ba Tư của Bukhara và Samarkand cũng đã tuyên bố quyền tự trị của họ từ lực lượng Abbasids và đã sáng lập ra triều đại Samanid (874-999). Năm 892, người sáng lập đế chế Samanid, Ismail bin Ahmad (r. 874-907) chiếm thủ đô Western Qarakhanid, Taraz, khiến nhà cai trị của nó là Oghulcahq dời thủ đô của mình đến Kashgar. Ismail bin Ahmad sau đó đã chiếm Bactria từ lực lượng Saffarids vào năm 903, khiến cho những nhà cai trị khắc nghiệt Saffarid rút lui vào miền trung Iran.

Người Samanids đã nâng cao trở lại với truyền thống văn hóa của Iran, nhưng duy trì sự trung thành chính trị với người Ả Rập. Họ là những người đầu tiên viết Tiếng Ba Tư trong văn bản Ả Rập và đã làm phát triển văn học Ba Tư. Ở đỉnh cao quyền lực của họ, dưới thời Nasr II (r. 913-942), nền hòa bình đã hưng thịnh tại Sogdia và Bactria, với một mức độ cao của văn hóa.

Người Samanids thuộc giáo phái Sunni, nhưng Nasr II cũng có cảm tình với giáo phái Shiite và Ismaili. Ông ta cũng hòa bình với Phật giáo, thực tế được chứng minh rằng những hình ảnh Đức Phật được chạm khắc vẫn được thực hiện và được bán tại thủ đô Samanid của Bukhara trong thời gian này. Người Samanids lại còn cảm thông với nhiều sự bức hại đối với người Ma Ni giáo, và nhiều người lánh nạn được tìm thấy tại Samarkand trong thời gian cai trị của họ.

Nhóm tôn giáo duy nhất cảm thấy không được hoan nghênh là Zoroastrians, những tín đồ của của người sáng lập Samanid trước khi ông ta cải sang Hồi giáo. Một cộng đồng lớn của họ đã di cư đến Ấn Độ, đến Gujarat bằng đường biển vào năm 936. Ở đây, họ đã được biết đến như những tín đồ Parsis (tín đồ giáo phái thờ lửa). Ngay sau đó, người kế nhiệm của Nasr II, Nuh ibn Nasr (r. 943-954), đã đàn áp khốc liệt giáo phái Ismaili của Hồi giáo.

Trong suốt thời gian này, lực lượng Abbasid caliphs ở Baghdad đã yếu hơn bao giờ hết. Ngay sau khi sự sụp đổ của Saffarids vào năm 910, lực lượng Buyids đã thành lập triều đại cai trị của họ phần lớn tại Iran (932-1062). Đế chế Buyids là tín hữu của Shiite, và trong suốt triều đại của họ, họ kiểm soát Baghdad caliphs một cách có hiệu quả. Họ tiếp tục hỗ trợ sự quan tâm của Abbasid với sự nghiên cứu của nước ngoài, nhưng đặc biệt là khoa học. Năm 970, một nhóm học giả Baghdad được biết qua tác phẩm “Huynh Đệ của Sự Tinh Khiết (Ikhwanu’s-Safa)” được xuất bản với bộ một bách khoa toàn thư năm mươi tập bao gồm tất cả các lĩnh vực của kiến ​​thức đương đại, những nguồn tài liệu được dịch từ tiếng Hy Lạp, Ba Tư, và Ấn Độ.

Đế chế Tây Liêu- Khitan

Trong khi đó, một đế chế quan trọng khác đang phát triển ở phía tây nam Mãn Châu đã nhanh chóng tác động cán cân quyền lực ở Trung Á. Đây là đế chế Khitans. Nhà lãnh đạo Apaochi (872-926) đã thống nhất các bộ lạc Khitan khác nhau trong khu vực và tuyên bố mình là “khan” vào năm 907, một năm sau sự sụp đổ của triều đại nhà Đường Trung Quốc. Đế chế Khitans theo một sự pha trộn của truyền thống Phật giáo Trung Quốc và Hàn Quốc cùng với hình thức bản địa của Shaman giáo. Apaochi đã xây dựng một ngôi chùa Phật giáo Khitan trong năm 902, và năm 917 tuyên bố Phật giáo là quốc giáo.

Người Khitans là nhóm được biết đầu tiên nói tiếng Mông Cổ. Họ đã có một nền văn minh phát triển cao với các kỹ năng đặc biệt trong kim loại. Với mong muốn giữ một bản sắc riêng biệt cho dân tộc của mình, vào năm 920, Apaochi đã ra lệnh thành lập chữ viết cho ngôn ngữ Khitan, theo mô hình mẫu tự của người Trung Quốc, nhưng phức tạp hơn nhiều. Trong những thế kỷ sau, nó trở thành căn bản cho hệ thống chữ viết của người Jurchen và Tangut.

Năm 924, Apaochi Khan lật đổ đế chế Kyrgyz và chiếm Mông Cổ. Tuy nhiên, ông có đầu óc rất phóng khoáng, và dung nạp các tín hữu Kitô giáo và Ma Ni giáo còn lại ở đây sau khi người Duy Ngô Nhĩ Orkhon ra đi. Ông cũng mở rộng quyền bá chủ của mình đến Gansu Corridor và phía bắc Tarim Basin, nơi mà người Yugurs Vàng và người Duy Ngô Nhĩ Qocho đã quy phục một cách hòa bình và trở thành những quốc gia chư hầu. Năm 925, ông ta đã tiếp nhận chữ viết Uighur như chữ thứ hai, đơn giản hơn chữ viết Khitan. Thậm chí ông ta còn mời hai nhóm người Duy Ngô Nhĩ trở về với những vùng đất thảo nguyên của họ. Tuy nhiên, Họ đã chấp nhận một đời sống ổn định ở đô thị và có lẽ cũng lo sợ người Khitan tiếp quản toàn bộ con đường Tơ Lụa trong sự vắng mặt của họ, cả người Duy Ngô Nhĩ và Yugurs đều từ chối.

Đế chế Khitan nhanh chóng mở rộng theo nhiều hướng. Ngay sau đó, nó bao gồm tất cả vùng Mãn Châu, một phần của phía Bắc Hàn Quốc, và một vùng rộng lớn của vùng đông bắc và hướng bắc Trung Quốc. Những người kế thừa Apaochi đã tuyên lập triều đại Liêu (947-1125), là một đối thủ và kẻ thù liên tục của triều đại Bắc Tống Trung Quốc (Song Dynasty 960-1126). Người thừa kế sau đã thành công trong việc tái thống nhất lãnh thổ Trung Quốc sau nửa thế kỷ của sự phân mảnh.

Mặc dù giới quý tộc Khitan chiếm đóng lãnh thổ Trung Quốc và hầu hết đã trở thành Trung Quốc hóa, những người Khitans bên ngoài Trung Quốc tiếp tục duy trì bản sắc văn hóa và phong tục riêng của họ. Các nhà lãnh đạo Khitan luôn luôn duy trì triều đình và trung tâm sức mạnh quân sự của mình ở tây nam Mãn Châu. Họ chỉ giao thoa đãi bôi bên ngoài đối với nghi lễ Nho giáo thay vì nhấn mạnh những phong tục mạnh mẽ của Phật giáo mà họ đã pha trộn với các niềm tin truyền thống Shaman giáo của họ. Dần dần, giá trị Phật giáo chiếm ưu thế. Việc cúng tế người tại lăng mộ hoàng đế Khitan được ghi nhận cuối cùng vào năm 983. Hoàng đế Khitan, Xingzang (Hsing-Tsang) sau khi đã quy y Phật giáo vào năm 1039 và ra lệnh cấm giết ngựa và bò tại tang lễ vào năm 1043.

Từ khi các đế chế Khitans đã quen thuộc với Phật Giáo Trung Hoa trong nhiều thế kỷ trước khi tuyên lập triều đại của họ và cũng bởi vì nền văn học Phật giáo rộng lớn nhất đã có sẵn trong ngôn ngữ Trung Quốc, nền văn minh của người Hán nhanh chóng làm lu mờ cá yếu tố văn hóa Duy Ngô Nhĩ (Uighur) như ảnh hưởng chính của ngoại bang trên xã hội Khitan. Người Duy Ngô Nhĩ Qocho và Yugurs Vàng cảm thấy ngày càng xa rời. Sau đó, trong khi vẫn duy trì quan hệ ngoại giao và thương mại với lãnh chúa của họ-đế chế Khitans, họ đã theo đuổi một tiến trình tự trị hơn. Tuy nhiên, Họ không bao giờ nổi loạn, có lẽ vì một số lý do. Lực lượng Khitans có ưu thế quân sự. Người Duy Ngô Nhĩ và Yugurs sẽ không có khả năng đánh bại họ, ngược lại họ có thể, và có được lợi ích từ việc có họ (các chư hầu) như là những người bảo vệ. Hơn nữa, cả hai nhóm người Duy Ngô Nhĩ, mặc dù đã theo Phật giáo, chắc chắn vẫn còn để đôi mắt của họ trên ngọn núi thiêng Otukan ở Mông Cổ, dưới sự kiểm soát của Khitan, và không muốn mất tất cả sự liên lạc với nó. Phật giáo Uighur, giống như những người tiền bối Old Turk với hình thức Khitan song song của nó, kết hợp những yếu tố Tengrian và Shaman giáo thành tín ngưỡng.

Sự cải đạo của bộ lạc Qarakhanids sang Hồi giáo

Trong thời gian từ năm 930, Nasr bin Mansur, một thành viên nổi bật của hoàng gia Samanid đào ngũ sang đế chế Western Qarakhanids và được nhậm chức như thống đốc của Artuch, một vùng nhỏ ở phía bắc của Kashgar. Ông ta rõ ràng đã cố gắng xâm nhập vào phía sau phòng tuyến Qarakhanid để có điều kiện mở rộng thêm đế quốc Samanid. Là một tín hữu Hồi giáo, Samanid ra lệnh cho một nhà thờ Hồi giáo đầu tiên được xây dựng ở Artuch tại Tarim Basin. Khi Satuq, cháu trai của Oghulchaq- nhà lãnh đạo Western Qarakhanid đến thăm khu vực này, ông đã phát khởi sự thích thú trong tôn giáo mới và rồi cải đạo.

Theo sử liệu Hồi giáo, khi Satuq cố gắng để thuyết phục chú của mình thay đổi tôn giáo, sau đó bị kháng cự và dẫn đến một cuộc đụng độ kéo dài. Người cháu trai cuối cùng lật đổ chú của mình và tự xưng Satuq Bughra Khan. Với tuyên ngôn Hồi giáo sunni là một quốc giáo, người Western Qarakhanids thuộc Kashgar đã trở thành người đầu tiên của bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ chính thức chấp nhận tín ngưỡng Hồi giáo. Sự kiện này xảy ra vào những năm cuối thập niên 930.

Động cơ đối với việc cải Đạo

Mặc dù lòng hăng say đối với đạo có thể đã thúc đẩy hành động của Satuq, chắc chắn ông ta còn có thêm một lý do tham vọng quyền lực. Để đạt được mục tiêu cai trị Qarakhanids, ông ta liên minh với người xâm nhập Samanid, người này cũng có một mục tiêu tương tự. Để đạt được mục tiêu mà ông ta tin tưởng, Satuq hẳn cần phải áp dụng một chiến lược.

Lực lượng Samanids Iran đã theo tục quán của Abbasid Ả Rập về việc đối xử với các bộ lạc gốc Thổ Nhĩ Kỳ như nô lệ và cưỡng ép các chiến binh của họ vào quân đội của mình. Mặc dù đế chế Samanids không có khoan dung đối với các tôn giáo khác, họ vẫn cung cấp sự tự do cho các nô lệ này trên danh nghĩa nếu họ cải sang đạo Hồi. Hơn một ngàn người Qarakhanids sống trong lãnh thổ Samanid đã thay đổi tôn giáo theo cách này. Nếu Satuq tự quy phục mình và những người của ông ta theo ông Hồi giáo, ông ta sẽ dễ dàng đạt được sự tin tưởng của nhà lãnh đạo Samanids và được niêm dấu trong một một liên minh quân sự.

Hơn nữa, nếu Satuq có tham vọng của riêng mình để xoay hướng thiệt hại lãnh thổ West Qarakhanid và đưa người Thổ Nhĩ Kỳ vào trong quyền lực khu vực, bước di chuyển của ông ta sẽ được thuận lợi qua việc thống nhất người dân của mình xung quanh một tôn giáo mới. Đây là mô hình thời gian thử nghiệm trước Tây Tạng, Đông Turk, và những thành công của người Duy Ngô Nhĩ. Sự kết hợp của Phật giáo và Shaman giáo đã không cung cấp sự ủng hộ trợ siêu nhiên cho người chú của ông ta để giữ quyền kiểm soát những vùng đất của ông ta khắp vùng Tianshan Mountains, nhưng khi với Hồi giáo ở phía sau, Samanids đã thành công trong việc đạt được chiến thắng. Sự lựa chọn tôn giáo mới là rõ ràng như vậy.

Những bộ tộc Duy Ngô Nhĩ Qocho bấy giờ đang phát triển mạnh nhờ sự nâng đỡ của Phật giáo và các lãnh chúa của chi nhánh phía bắc con đường Tơ Lụa xuyên qua lưu vực Tarim Basin. Người anh em chủng tộc của họ, người Yugurs Vàng, cũng là Phật tử mạnh mẽ, đã kiểm soát vùng Gansu Corridor nơi mà sau khi các chi tộc phía Bắc và phía Nam đã hợp nhau tại Đôn Hoàng, và con đường Tơ Lụa hướng vào Trung Quốc. Để tập hợp các bộ lạc Turkic đằng sau tham vọng của mình, tách rời người Duy Ngô Nhĩ, Satuq cần một tôn giáo không chỉ khác biệt từ Phật giáo. Ông cần tôn giáo mà sẽ thừa nhận ông ta tái mở lại chi nhánh thay thế phía Nam của tuyến đường này và thay đổi trọng tâm của sự kiểm soát thương mại từ hướng đông đến các khu vực hướng tây.

Khi những bến ga phía tây của con đường Tơ Lụa tại Sogdia nằm trong tay của Hồi giáo, kế hoạch của Satuq dường như là để chinh phục Sogdia. rồi kiểm soát hướng đông từ Kashgar, ông ta đã có thể sử dụng Hồi giáo để tạo nên một sự thống nhất văn hóa cùng bộ lạc phía Nam của tuyến đường này và đi qua Gansu Corridor, với chính mình là người bảo vệ và lãnh chúa. Đúng ngay lúc người Duy Ngô Nhĩ đã sử dụng ngọn cờ Phật giáo để giành chiến thắng và củng cố sự kiểm soát của họ trên chi nhánh phía bắc Tarim của con đường Tơ Lụa, Satuq hiển nhiên mong ước hoàn thành tương tự đối với lực lượng Qarakhanids với bộ lạc phía Nam dưới ngọn cờ của Hồi giáo. Tuy nhiên, đầu tiên, để tập hợp các dân tộc gốc Thổ Nhĩ Kỳ đứng sau lưng mình, ông ta cầu khẩn ngọn núi thiêng liêng của người Thổ Nhĩ Kỳ biến đổi lợi thế siêu nhiên về phe của mình.

Củng cố Quốc gia Hồi giáo Qarakhanid

Năm 942, Sa

0