25/05/2018, 17:26

Cua biển

Giống cua biển phân bố nhiều ở vùng biển nước ta , được nuôi nhiều ở các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến các tỉnh ven biển miền trung. là loài ăn tạp nghiên về động vật. Thời kì ấu trùng thức ăn là những loài động vật phù du ( luân trùng , moina , artemia… ). Thời ...

Giống cua biển phân bố nhiều ở vùng biển nước ta , được nuôi nhiều ở các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến các tỉnh ven biển miền trung. là loài ăn tạp nghiên về động vật. Thời kì ấu trùng thức ăn là những loài động vật phù du ( luân trùng , moina , artemia… ). Thời kì từ cua con đến cua trưởng thành thức ăn là cá , ốc , tép   tươi sống.Từ ấu trùng đến trưởng thành cua phải qua hai ba lần lột xác và qua mỗi lần lột thì đổi thay về kích thước và hình thái cấu tạo của cua. Ở thời kì ấu trùng và cua bột thời gian giữa các lần lột thường ngắn từ : 2-3 ngày hoặc 3-5 ngày. Ở thời kì cua trưỏng thành thường lột vào lúc có thuỷ triều ( đầu con nước ).Cua sống vùng nước lợ có độ pH trong khoảng 7.5 – 9.5 , thích hợp nhất là 7.5 – 8.2. Tuy nhiên cua có thể chịu đựng được trong nước có độ pH thấp hơn 6.5 .Cua có thể thích nghi cao với sự thay đổi độ mặn của nước. Cua có thể sống trong vùng nước cơ hồ ngọt cho đến độ mặn 33‰.Nhiệt độ nước : cua biển phân bố rất rộng ở cả những vùng vĩ tuyến cao cua chịu đựng nhiệt độ nước thấp tốt. Ở các tỉnh phía Nam nước ta cua biển thích nghi rất tốt với nhiệt độ nước từ 25 – 29oC. Nhiệt độ cao thường ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sinh lý của cua, đây là một trong nhưng nguyên nhân gây chết.Nơi trú ngụ :Cua thích sống ở nơi có nhiều thực vật thuỷ sinh , có những vùng bán ngập , có bờ để đào hang , tìm nơi trú ẩn , nhất là thời kỳ lột xác. Vùng rừng ngập mặn cửa sông ven biển có nhiều cua sinh sốngSau 3 tháng nuôi cua đạt trọng lượng từ 300 – 500 gam/con.Con giống trung cua biển : 30 con/kg. 

Hướng dẫn nuôi cua biển .

1. Chuẩn bị ao nuôi :

Ao nuôi cua con thành cua thương phẩm thường có diện tích từ 500m2 đến 5000m2. Đây là hình thức nuôi thâm canh : thả giống , cho ăn hăng hái , chăm sóc quản lý chặt chẽ. Ao nuôi cần được xây dựng ở vùng dễ thay nước nhờ vào thủy triều để giảm chi phí. Ở những vùng có nguồn nước sạch , không bị môi trường ô nhiễm công nghiệp , nông nghiệp , sinh hoạt , ít sóng gió mạnh và dòng chảy lớn. Bờ ao được đắp bằng đất ( cũng có xác xuất xây gạch nếu có xác xuất đầu tư ) , bờ cần được nén kỹ để chóng mội , rò rỉ và sạt lở. Chân bờ ao rộng từ 3-4m , chiều cao từ 1.5 đến 2m , cao hơn mực nước triều cao nhất ít ra là 0.5m. Mỗi ao nuôi nên có hai cống ở hai đầu đối diện nhau , nếu ao hình chữ   nhật thì hai cống sẽ đặt ở hai bờ thuộc chiều rộng. Cống thoát đặt sát đáy và thông với kênh trong ao. Phía trong ao , cách bờ 2-3m đào một kênh rộng 3-4m bao quanh ao. Ở giữa ao đắp một cồn nổi cao hơn mặt nước ao 0.2-0.3m. Trong kênh nên bỏ thêm bụi cây cho cua ẩn nấp. Làm chắn quanh bờ không cho cua vượt bờ ra ngoài , có xác xuất dùng lưới mùng loại thưa bao quanh , đăng tre , ….Rào chắn phải nghiêng về phía trong ao một góc 60 độ, phải cao từ   0.8-1m.Tuỳ theo độ phèn của đáy ao mà có cách xử lí cho ăn nhập , nếu pH của đất dưới 6 thì rải vôi bột ( CaCO3 ) cho đáy ao: tháo cạn nước rải vôi đều trên đáy ao , cả lòng kênh và mép bờ ao. Lượng vôi rải từ 7-10 kg/100m2 ao. Phơi đáy ao 2-3 ngày , sau thời gian ấy cho nước ra vào 3-4 lần xả sạch nước phèn.Độ mặn của nước : cua con trong giai đoạn sinh trưởng sống ở vùng nước lợ mặn 15- 25%0. Tuy thế cua chịu sự thay đổi độ mặn rất lớn , cua sống và phát triển tốt ở độ mặn 5%0 đến 30%o.

2. Thả cua giống :

Nguồn cua giống cung cấp cho nghề nuôi cua chủ yếu dựa vào nguồn giống tự nhiên. Nguồn cua giống thu được ở ghe cào ở các cửa sông , tìm bắt ở các bãi sình vùng ngập mặn.Cua giống có các cỡ khác nhau , nhưng đưa lại hiệu quả tốt nhất nên lựa chọn loại giống có khối lượng 30 con/kg , có bề dài mai từ 2.5 – 3.0cm.đưa lại hiệu quả tốt nhất là nên thu mua cua giống từ   vùng lân cận và sau khi đã đánh bắt được chuyển nhanh về nơi thả nuôi. Toan tính số lượng cần thả đặt mua trong mấy ngày liên tiếp để thả cua vào ao nuôi trong thời kì tự do tương đối ngắn.Trong từng ao nên thả cua cùng cỡ. Cũng có xác xuất chọn cỡ cua theo mong muốn ngay ở nơi cung cấp cua giống , hoặc tuyển chọn trước lúc thả nuôi.
  • Mật độ thả:
Cua nhỏ 3-5 con/m2 , loại vừa 2-3 con/m2 , cỡ lớn 0.5-1 con/ m2. Thả giống ở nhiều điểm khác nhau trong ao. Cắt bỏ sự hoạt động dây buộc , buông từ từ cua trên mép bờ để cua tự bờ xuống nước. Đây là cách để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của cua : những con khoẻ mạnh nhanh chóng chạy xuống nước , những con yếu thường nằm tại chổ hoặc bò chậm. Những con như vậy thu lại cho vào giai đểtheo dõi , nếu phục hồi thì thả xuống ao. Mỗi ao nên thả giống trong một hai ngày cho đủ số lượng.

3. Quản lý , chăm sóc :

Cho ăn : cua nuôi trong ao chủ yếu dựa vào thức ăn cung cấp hàng ngày , lượng thức ăn tự nhiên trong ao không có nhiều. Thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống : cá vụn , còng , ba khía , đầu cá … Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 4 – 6% trọng lượng cua , cua thường hoạt động bắt mồi vào buổi tối. Mỗi ngày cho cua ăn một lần vào thời kì từ 17 – 19h. Thức ăn được rải đều quanh ao để cua khỏi tranh nhau. Có xác xuất dùng sàng ăn để kiểm tra sức ăn của cua. Định kỳ thu mẫu để tính sản lượng cua có trong ao mà sắp xếp lượng thức ăn cho vừa đủ. Sau 2-3 giờ cho ăn kiểm tra sàng ăn , nếu cua ăn hết thức ăn trong sàng thì có xác xuất tăng lượng thức ăn , nếu thức ăn vẫn còn thì giảm lượng thức ăn.Hàng ngày phải cho cua ăn , không được để cua đói. Những cua lớn bị đói sẽ giết những cua nhỏ ăn thịt. Vì vậy nuôi cua phải có thức ăn dự trữ. Những ngày không có thức ăn tươi sống thì cho cua ăn thức khô : cá vụn , tép phơi khô. Trước lúc rải xuống ao cho cua ăn nên ngâm cá khô vào nước vài chục phút cho cá mềm ra.Việc đảm bảo môi trường nước trong sạch rất quan trọng đối với cua , nhất là nuôi mật độ dày cho ăn thức ăn tươi sống. Ở những nơi có hải triều lên xuống hằng ngày cần thay nước thường xuyên. Mỗi ngày thay từ 20-30% lượng nước trong ao. Một tuần thay tuốt nước trong ao một lần. Khi thay nước nên lấy nước ở tầng dưới và tầng giữa tránh lấy nước ở tầng mặt hay bị môi trường ô nhiễm. Nước mới trong lành kích thích cua hoạt động , ăn nhiều , lột xác tốt.  Thường xuyên kiểm tra tình trạng bờ, cống, rào cản tránh thất thoát cua.
Trong thời kì nuôi khoảng 2 tuần một lần bắt cua cân đo để xem sinh trưởng của cua , coi xét tình trạng của cua : cua lẹ làng , không bị ký sinh ngoài vỏ , xem trong xoang mang có bị ký sinh hay không. Ví như có hiện tượng bị bị lây bệnh thì phải tìm nguyên do và phương pháp xử lý. 
      Giai đoạn cuối của vụ nuôi trọng lượng cua trong ao có xu hướng gia tăng so với bình thường , cho ăn thức ăn nhiều nên môi trường rất dễ bị nhiễm bẩn. Thành thử việc thay nước thường xuyên kiểm tra môi trường rất có ý nghĩa. Trong một số trường hợp , đáy ao tích tụ nhiều thức ăn thừa , thối rữa , có xác xuất phải tháo cạn , gạn cua và làm vệ sinh đáy ao : cào bỏ lớp bùn trên mặt và thức ăn thừa thối rữa đi. 

Một số bệnh thường gặp ở cua xanh:

1. Bệnh rũ còng:

a. Triệu chứng:- Làm cho cua dừng ăn và trở lên bất động.- Cua nhanh gầy , giảm năng suất , chất lượng thịt cua kém.b. Điều trị:- Chưa có thuốc chữa trị bệnh. Nhưng bệnh có thể được phòng bằng cách trước khi thả cua giống thì nên sát trùng bằng dung dịch suphat đồng trong 20 – 30 phút để loại bỏ các mầm bệnh.- Nên cho cua ăn các loại thức ăn sạch , không có lẫn các tạp chất có xác xuất gây bệnh.

2. Bệnh nổi hạt đốm trắng - đen

a. Triệu chứng:- Cua bị bệnh bỏ ăn , yếu , không lột xác được , rêu và tảo bám trên mai , yếu dần rồi chết. Trên thân có những đốm trắng thỉnh thoảng có cả những đốm đen.b. Phòng và trị bệnh:- Tắm cho cua bằng Sulfat đồng nồng độ 0,5g/m3 có sục khí , thời kì chữa trị kéo dài 8 - 10 ngày.- Rải vôi bột thường xuyên để diệt khuẩn và tiệt trùng.

  3. Bệnh đen mang

a. Triệu chứng:- Mang cua hiện ra những đốm đen , các tơ và áo mang chuyển màu đen một thời kì mang có mùi rất tanh , thối từng phần cho tới toàn bộ mang cua. Thân cua bị bệnh phần vỏ ngoài có các đốm đen , sau thời gian ấy gây mù mắt.Bệnh hiện ra cả ở giai đoạn cua con và cua trưởng thành. Sau khi mắc bệnh cua bỏ ăn , gầy yếu , hô hấp kém nằm im không hoạt động.b. Phòng và điều trị: - Tắm cho cua bằng Formol với nồng độ 16 - 30ml/m3 nước trong 15 - 20 phút , có sục khí , thời kì chữa trị 6 - 8 ngày.- Tắm cho cua bằng dung dịch Sulfat đồng với nồng độ 0.6g/m3 , mỗi lần tắm trong 6 - 8 phút có sục khí. Thời kì chữa trị 6 - 8 ngày.- Dùng vôi bột để diệt các ký sing trùng , vi khuẩn.- Khi có dấu hiệu bệnh hoặc thời tiết xấu , mà kéo dài dùng kháng sinh Norfloxacin , Nalidixicacid trộn vào thức ăn với lượng 40 -60g/1kg thức ăn để phòng bệnh. Thời kì phòng bệnh 6 - 8 ngày.

4. Bệnh đốm trắng - vàng trên vỏ:

a. Triệu chứng: - Cua gầy yếu , chậm lột xác hoặc lột xác kéo dài , cua bỏ ăn rồi chết. Trên mai và yếm hiện ra đốm trắng -vàng.b. Phòng và điều trị:- Sử dụng thức ăn tươi sạch , cho ăn vừa đủ , thức ăn thừa phải dọn sạch.- Trộn thêm kháng sinh như Norfloxacin , Nalidixic acid , ... và các vitamin A , C bổ sung vào thức ăn để tăng sức để kháng cho cua. 
0