18/06/2018, 15:22

Công nghệ quân sự TQ và Đại Việt

Cuộc viễn chinh của Đại Việt Tk XV nguồn BBC.co.uk/vietnam tổng hợp: Lê Quỳnh Thế kỷ 15 chứng kiến Việt Nam (Đại Việt – quốc hiệu có từ thời nhà Lý) mở rộng cương vực rộng lớn chưa từng có. Sự bành trướng này bao gồm sự kiện nổi tiếng năm 1471 khi kinh đô Vijaya của Chămpa thất ...

Cuộc viễn chinh của Đại Việt Tk XV

Cuộc viễn chinh của Đại Việt Tk XV

nguồn BBC.co.uk/vietnam

tổng hợp: Lê Quỳnh

Thế kỷ 15 chứng kiến Việt Nam (Đại Việt – quốc hiệu có từ thời nhà Lý) mở rộng cương vực rộng lớn chưa từng có. Sự bành trướng này bao gồm sự kiện nổi tiếng năm 1471 khi kinh đô Vijaya của Chămpa thất thủ trước quân Lê Thánh Tông, và cuộc “trường chinh” ít người biết của Đại Việt đến sông Irawaddy của Miến Điện khoảng giữa 1479 và 1484. Trong chủ đề bài viết của Sun Laichen, câu hỏi chính đặt ra là vì sao, sau hàng trăm năm đối đầu với Chămpa, Đại Việt lại có thể đánh quỵ Chămpa vào thời điểm này? 

Trong số ra tháng Mười 2003, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (Journal of Southeast Asian Studies) của Đại học quốc gia Singapore giới thiệu chuyên đề về sự chuyển giao quân sự từ bên ngoài vào Đông Nam Á.

Chùm ba bài tiểu luận đặt trong chủ đề chung “Foreign military transfers in mainland Southeast Asian wars: adaptations, rejections and change.”

Trong phần giới thiệu, giáo sư Christopher E. Goscha, đại học Lyon II, viết:

“Như tại châu Âu, việc chuyển giao, thích ứng và sử dụng kiến thức và kỹ thuật quân sự nước ngoài đã đóng góp nhiều vào sự phát triển của các nhà nước Đông Nam Á. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng dễ để viết về những sự chuyển giao quân sự đó tại Đông Nam Á. Sau nhiều thập niên dưới chế độ thuộc địa phương Tây, chưa kể các cuộc chiến giải phóng dân tộc ở Đông Dương và Indonesia, các kiến trúc sư quá khứ, mang quan điểm dân tộc chủ nghĩa, muốn chọn cách nhấn mạnh yếu tố ‘bản địa’ và ‘chân thật’ thay vì ngoại lai.”

“Việc đưa các đóng góp ‘phương Tây’ và ‘Hoa kiều’ vào bức tranh chung có thể gây vấn đề cho các sử gia dân tộc chủ nghĩa, những người muốn nhấn mạnh vai trò của dân tộc họ trong việc xây dựng quốc gia và quá khứ của nó.”

“Mặc dù ba bài viết ở đây lưu ý các quan tâm ‘quốc gia’ và ‘khu vực’, nhưng chúng cũng dựa trên niềm tin rằng không quốc gia hay khu vực nào là một hòn đảo – cũng như quá khứ của quốc gia đó. Bản chất tương liên của Đông Nam Á, vị trí của nó ở giao lộ các tuyến thủy-bộ chính và sự đa dạng trong văn hóa-xã hội khiến các quan niệm về sự tự chủ quốc gia và khu vực khó đứng vững. Điều này đặc biệt đúng khi ta tìm hiểu dòng lưu chuyển kiến thức và kỹ thuật quân sự nước ngoài vào Đông Nam Á lục địa.”

Trong ba bài tiểu luận, một bài của Sun Laichen xem xét sự du nhập công nghệ từ nhà Minh vào Đông Nam Á lục địa thời kì từ 1390 đến 1527. Nhìn từ phía nam, Frédéric Mantienne tập trung vào chuyển giao quân sự của Pháp vào Việt Nam trong thế kỷ 18 và đầu 19. Bài của Christopher E. Goscha tìm hiểu dòng chảy vũ khí vào Việt Nam qua các ngả đường châu Á từ 1905 đến 1954.

Bài viết của Sun Laichen, giáo sư đại học bang California, Fullerton, bao quát cả khu vực Đông Nam Á, tuy vậy trong một bài tiểu luận khác (sẽ xuất bản trong tập Vietnam: Borderless Histories, Nhung Tuyết Trần & Anthony Reid biên tập, University of Wisconsin Press, 2004), ông tập trung hẳn cho chủ đề Đại Việt. Bài viết có tựa đề “Chinese Military Technology and Dai Viet: c. 1390-1497.” Nội dung nghiên cứu này sẽ mở đầu cho loạt bài về du nhập công nghệ quân sự giới thiệu lần này.

Xin lưu ý các bài viết trình bày ở đây chỉ mang tính giới thiệu, tóm tắt nội dung chính, chứ không phải là bản dịch lại trọn vẹn văn bản gốc. Người đọc quan tâm có thể tìm đọc nguyên bản trong Journal of Southeast Asian Studies (Đại học quốc gia Singapore, tháng Mười 2003)

Thế kỷ 15 chứng kiến Việt Nam (Đại Việt – quốc hiệu có từ thời nhà Lý) mở rộng cương vực rộng lớn chưa từng có. Sự bành trướng này bao gồm sự kiện nổi tiếng năm 1471 khi kinh đô Vijaya của Chămpa thất thủ trước quân Lê Thánh Tông, và cuộc “trường chinh” ít người biết của Đại Việt đến sông Irawaddy của Miến Điện khoảng giữa 1479 và 1484. Trong chủ đề bài viết của Sun Laichen, câu hỏi chính đặt ra là vì sao, sau hàng trăm năm đối đầu với Chămpa, Đại Việt lại có thể đánh quỵ Chămpa vào thời điểm này?

Việc chuyển giao công nghệ quân sự từ Trung Quốc vào Việt Nam đã có từ lâu, nhưng một diễn biến quan trọng xảy ra đầu thời Minh. Năm 1390, vua Chế Bồng Nga của Chămpa bị giết khi trúng đạn của quân nhà Trần. Loại súng được dùng để bắn vào thuyền vị vua họ Chế trước nay thường được hiểu là thần công, nhưng có lẽ nên hiểu đó là súng cầm tay. Như Momoki Shiro – đại học Osaka, Nhật Bản – chỉ ra, đó là loại vũ khí mới.

Năm 1839, Việt Nam mua con tàu chạy bằng hơi nước đầu tiên, sau đó là ba thuyền khác – có tên Yên Phi, Vũ Phi và Hương Phi.


Nội chiến thế kỷ 18

Mặc dù các chúa Trịnh và Nguyễn rất nhiệt tình trong việc thu lượm các súng kiểu phương Tây trong thế kỷ 17, nhưng có vẻ họ ít quan tâm đến các công nghệ liên quan việc đắp đồn lũy và đóng tàu. Việc ‘nhập khẩu’ công nghệ quân sự phương Tây chỉ trở nên đặc biệt quan trọng trong cuộc chiến Tây Sơn. Sau một chiến thắng chủ chốt của Tây Sơn năm 1773, và cái chết sau đó của hầu hết các hoàng tử nhà Nguyễn, người cuối cùng còn lại – Nguyễn Ánh – bị buộc chạy sâu vào trong đồng bằng sông Cửu Long. Trong năm 1776 hoặc 1777, vị hoàng tử trẻ làm quen với một nhà truyền giáo Pháp, Pierre Pigneaux de Béhaine (tức Bá Đa Lộc), linh mục xứ Adran, lúc đó đang sống ở Hà Tiên. Pigneaux thuyết phục vị hoàng tử nhà Nguyễn là ông chỉ có thể là đối trọng với sức mạnh Tây Sơn bằng cách sử dụng thiết bị và chiến thuật của châu Âu.

Nghệ thuật xây thành đắp lũy đã có từ rất xưa ở Việt Nam. Ngôi thành lớn xưa nhất là thủ đô của An Dương Vương tại Cổ Loa, cách trung tâm Hà Nội 15 cây số. Đến cuối thế kỷ 14, Hồ Quý Ly cho xây thành Tây Đô ở tỉnh Thanh Hóa. Trong thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông lệnh cho xây nhiều thành ở Hà Nội, Thanh Hóa, Đồng Hới. Một số thành tại Hà Nội và Thanh Hóa được dựa trên mô hình thành Trung Hoa hình vuông, còn các thành trong khu vực rừng núi xây theo mô hình rừng núi, tương tự như Vạn Lý Trường Thành. Sang thế kỷ 17, các chúa Nguyễn xây một hệ thống phòng thủ phức tạp trên vùng ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài để chống các đợt chinh phạt của nhà Trịnh từ Đàng Ngoài. Hệ thống này gồm nhiều lũy (Trương Dực và Đồng Hới), dài khoảng 10 cây số, với một pháo đài ở Dinh Muôi, nơi tập trung bản doanh, kho thóc và bộ máy hành chính tỉnh Quảng Bình. Lũy Đồng Hới đánh dấu biên giới giữa hai vương quốc đất Việt, hiệu quả đến mức sau nhiều cuộc tấn công không thành của nhà Trịnh, hai vùng ở trong tình trạng tạm yên ắng trong một trăm năm.

Trong những thế kỷ trước đó, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong có điểm đáng chú ý là cả hai miền đều không có những đội thuyền buôn.

Trong thế kỷ thứ sáu, các lãnh đạo địa phương chống lại sự chiếm đóng của các triều đại Trung Quốc suy thoái, nhưng đến đầu thế kỷ thứ bảy họ không có sự chống đỡ hiệu quả nào trước sự hiện diện của các nhà Tùy và Đường. Trong hai thế kỷ bảy và tám, các quan nhà Đường thành lập An Nam Đô hộ phủ ở miền Bắc Việt Nam. Đô hộ phủ là một dạng khu vực có tổ chức ở vùng biên giới tạo ra cho các khu vực chiến lược xa xôi mà cư dân là những người không phải dân Trung Quốc. Việc thiết lập An Nam Đô hộ phủ đi kèm với việc thâu thập, sát nhập giai cấp thống trị địa phương vào hệ thống phân tầng quan chức của đế chế. Chừng nào thế lực nhà Đường còn mạnh, khu vực này vẫn tương đối bình yên. Nhưng cuối thế kỷ tám và thế kỷ chín là giai đoạn bất ổn chính trị, với những thế lực địa phương tranh giành quyền lãnh đạo với tư cách là người ủng hộ hoặc chống đối chế độ nhà Đường mà ngày càng trở nên yếu kém; đến cuối thế kỷ Chín, triều đình Trung Quốc đã suy giảm ảnh hưởng đến mức chỉ còn đưa quân tiến vào khu vực với mục đích duy trì sự toàn vẹn biên giới mà thôi.

Lý Phật Mã (Lý Thái Tông, trị vì 1028-54) sinh năm 1000 và đã được chuẩn bị cẩn thận để lên làm vua. Nhiều điềm báo được gán cho lúc ông sinh ra và trưởng thành, để nói ông có một định mệnh của riêng mình chứ không đơn thuần là người kế vị cha. Thành tựu của ông là tạo ra các định chế cho triều Lý, và ông được xem là vị vua vĩ đại nhất của triều Lý cũng như là một trong những vị vua giỏi nhất trong lịch sử Việt Nam. Nghiên cứu 26 năm cai trị của ông cũng có thể xem là nghiên cứu về tiến trình phát triển của một bộ óc thông minh, phức tạp. Hơn bất kì vị vua nào khác của Việt Nam thời kì đầu lịch sử, Lý Phật Mã được các nguồn sử liệu thể hiện như một nhân cách sống động tranh luận với các cố vấn, và quan hệ giữa họ là một quan hệ khuyế́n khích lẫn nhau. Nếu Lý Công Uẩn chỉ sử dụng một niên hiệu trong những năm trị vì, Lý Phật Mã sử dụng sáu niên hiệu, mỗi cái thể hiện một giai đoạn trong sự phát triển tri thức của ông và một phong cách lãnh đạo tương ứng.

Các nguồn tư liệu Trung Quốc thể hiện Lý Nhật Tôn (Lý Thánh Tông, trị vì 1054-72) như vị vua Việt dám xem mình là hoàng đế, một điều đối với người Trung Quốc là sự thách thức trực tiếp với cái nhìn về thế giới của họ. Quan điểm Trung Hoa này có thể chỉ là một cách viết sử xuất phát từ cuộc chiến Hoa-Việt thập niên 1070, một công thức biện minh cho quyết định sau đó gửi quân chống Đại Việt. Nhưng ngay cả nếu quả tình là thế, thì vẫn có nhiều bằng chứng từ sử Việt Nam cho thấy Lý Nhật Tôn áp dụng nhiều nghi thức hoàng đế của Trung Quốc, từ việc nêu quốc hiệu, quần áo các quan, cho đến phẩm trật của quan lại, thành viên hoàng tộc và miếu hiệu cho các vua đi trước. Ngoài ra, trong thời cai trị của Lý Nhật Tôn đã diễn ra việc biên giới Hoa-Việt trở thành địa điểm đối đầu.

Phe nhà Trần cuối cùng thành công trong việc đánh bại các đối thủ và lập vương triều mới năm 1225.

Để tránh nguy cơ gia đình nhà ngoại can thiệp triều chính, các vua Trần chỉ lấy hoàng hậu từ họ Trần. Vào lúc tột đỉnh sức mạnh, các vua Trần ra quyết định tham khảo ý kiến của các chú, anh em – tạo nên sự đoàn kết trong nội bộ hoàng gia. Triều Trần bắt đầu sụp đổ khi những quy tắc đó không còn được tuân theo.

Lê Lợi, một địa chủ giàu có từ Thanh Hóa, nơi đồng bằng sông Mã, đã lập nên nhà Lê. Ông chỉ tại vị trong năm năm. Những người kế tục sau đó là con trai và cháu của ông, tất cả đều lên ngôi khi còn nhỏ và triều đình nằm trong tay các tướng lĩnh từng theo Lê Lợi trong kháng chiến chống Minh. Năm 1460, một người cháu khác của Lê Lợi, Lê Thánh Tông, lên ngôi. Thời gian ông trị vì, từ 1460 đến 1497, được nhớ như là một trong những triều đại nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam. Mô hình chính quyền của ông đã trở thành khuôn mẫu cho các vị vua Việt Nam trong năm thế kỷ tiếp theo. Đây là thời đại của học thuật và văn chương: các tác phẩm quan trọng ra đời và còn lại đến nay. Đó cũng là thời đại của sức mạnh quân sự, khi các cuộc chinh phục Lào và Chămpa thập niên 1470 đã mở rộng lãnh thổ. Sự nghịch lý của triều đại Lê Thánh Tông nằm ở chỗ, mặc dù nó tạo nên bộ máy chính quyền hoàn chỉnh, nhưng chỉ mười năm sau khi ông mất, triều đình đã rơi vào cuộc khủng hoảng mà nó không bao giờ còn gượng dậy nổi.


Đại Việt thời Hậu Trần – Hồ

Các quan điểm giải thích chính trước nay có thể tóm tắt như sau:

Đầu tiên, luận điểm về nông nghiệp và dân số: quan điểm này cho rằng sự tăng dân số của Đại Việt vừa tạo động lực lại vừa đem lại lợi thế cho tiến trình Nam tiến của người Việt. Chiến thắng của người Việt, tóm gọn lại, là chiến thắng của biển người.

Thứ hai, luận điểm về sự chuyển hóa Khổng giáo cho rằng cuộc xâm lược của nhà Minh năm 1406-1407 dẫn tới việc người Việt áp dụng mô hình Trung Hoa kiểu nhà Minh, đặc biệt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497), khiến nhà nước Việt Nam được chuyển hóa. Cụ thể, Đại Việt bám lấy hệ tư tưởng của Trung Hoa “văn minh đối nghịch dị chủng” và áp dụng nó trong quan hệ với Chămpa. Như lời của John K. Whitmore, một trong những chuyên gia nổi tiếng về triều Lê: “Giờ đây câu hỏi về đạo đức chiếm vai trò trung tâm và đánh dấu sự khác biệt giữa người “văn minh” và người “man di”. Sự tương đối văn hóa không còn ngự trị , và các cuộc tấn công cũng thôi không còn là các cuộc cướp phá để sau đó một hoàng tử địa phương khác được đặt lên ngôi. Giờ đây mục tiêu là đem ‘văn minh’ cho các địch quốc dị chủng.” Nói cách khác, người Việt phải chiếm vĩnh viễn Chămpa để khai hóa cho dân tộc đó.

Thứ ba, luận điểm về định chế. Nếu lý thuyết về Khổng giáo giải thích sức mạnh thể chế của Đại Việt, sự diễn giải định chế giải thích yếu kém của Chămpa. Theo Kenneth R. Hall, Chămpa là “một hệ thống nhà nước được thể chế hóa yếu ớt phụ thuộc vào các mạng lưới liên minh cá nhân để liên kết một dân số tản mác.” Kết quả là sự yếu kém thể chế cố hữu của nhà nước Chăm cuối cùng đóng dấu số phận của nó.

Thế bài của Sun Laichen có gì khác? Nghiên cứu của ông tiếp cận vấn đề từ góc độ kỹ thuật bằng cách xem xét khía cạnh công nghệ quân sự. Nó cho rằng hỏa khí lấy từ gốc Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong tiến trình tiến về miền Tây, Nam của Đại Việt trong cuối thế kỷ 15.


Vũ khí Đại Việt thời kỳ đầu

Để hiểu tầm quan trọng của chiến thắng năm 1390 của Đại Việt, cần nhớ trong suốt nhiều năm trước đó, sức mạnh của vua Chế Bồng Nga là nỗi kinh hoàng cho nhà Trần. Trong ba thập niên (1361-1390), Chế Bồng Nga thực hiện khoảng mười cuộc xâm lăng vào Đại Việt, và thủ đô Thăng Long rơi vào tay quân Chàm ba lần. Khi tướng Trần Khát Chân được cử đi chống quân Chămpa, vua tôi nhà Trần cùng khóc giữa lúc quân tiến lên đường. Giữa lúc khủng hoảng đó, thì một đầy tớ của họ Chế vì bị tội, trốn sang quân Trần chỉ cho biết thuyền của vua Chế. Tướng Trần Khát Chân cho tập trung hỏa lực bắn vào thuyền Chế Bồng Nga, Chiêm vương trúng đạn chết, quân tướng bỏ chạy. Trong tác phẩm về lịch sử Chămpa, học giả Pháp Maspero cho rằng sự phản bội của người đầy tớ Chàm đã ngừng bước tiến của quân Chàm và cứu Đại Việt khỏi sụp đổ. Tuy vậy, nếu không có kỹ thuật thuốc súng mới thu lượm, chiến thắng thủy chiến của Đại Việt, cũng như số phận vương quốc, sẽ không chắc chắn. Vì thế, năm 1390 được nhiều người xem là đánh dấu sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa Đại Việt và Chămpa. Có vẻ như hiệu quả của công nghệ quân sự mới của Đại Việt đóng một vai trò trong thay đổi này.

Mặc dù nguồn gốc của loại súng cầm tay của Đại Việt không được nhắc rõ, có thể suy đoán nó được học hoặc từ các thương nhân hoặc từ những binh lính đào ngũ nhà Minh trước năm 1390. Dường như việc áp dụng súng tại Đại Việt đã tăng nhu cầu về thuốc súng, giống như vào năm 1396, nhà Hậu Trần dưới sự kiểm soát của Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy và yêu cầu nhân dân đổi lại tiền đồng, có thể một phần với mục đích thu thêm đồng để sản xuất súng.

Sự xâm lăng và chiếm đóng của nhà Minh tại Đại Việt từ 1406 đến 1427 thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ quân sự từ Trung Quốc. Nhà Minh đã huy động các vị tướng và binh lính thiện chiến nhất cho chiến dịch tấn công Đại Việt. Để đối phó với hỏa khí của Đại Việt, vua Minh Thành Tổ ra lệnh sản xuất các khiên lớn và dày. Ông ra lệnh không được để lộ kỹ thuật làm súng cho đối phương, phải bảo đảm là khi rút quân, súng “phải được đếm theo số hiệu và không để một khẩu súng nào thất lạc.” Trong số 215.000 quân Minh tham gia chiến dịch viễn chinh, khoảng 21.000 lính thuộc khẩu đội được vũ trang bằng súng.

Ngày 19 tháng 11-1406, quân Minh do Trương Phụ dẫn đầu tiến vào từ Quảng Tây, còn đội quân của Mộc Thạnh tấn công từ Vân Nam. Sau các thắng lợi ban đầu, quân Minh tổ chức đánh thành Đa Bang, thuộc Sơn Tây, là tiền tuyến của quân Hồ. Việc chiếm thành Đa Bang bộc lộ vai trò quan trọng của súng ống của quân Minh. Đa Bang là vị trí chiến lược quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống phòng thủ khi ấy của Đại Việt, và nhà Hồ tập trung quân tướng và vũ khí tốt nhất để phòng thủ nơi này. Trận tấn công bắt đầu ngày 19 tháng Giêng, 1407. Khi quân Minh dùng thang ập vào thành mà leo lên, những người lính Việt chỉ có thể bắn vài mũi tên và đạn. Sau khi vào thành, quân Minh đối diện với các đoàn voi trận. Quân Minh vẽ hình sư tử trùm lên ngựa để làm voi sợ, và đặc biệt, nhóm quân súng thần cơ đóng vai trò quyết định cho thắng lợi của quân Minh. Các đoàn voi trận Đông Nam Á vốn vẫn là đối thủ đáng gờm trước quân Trung Quốc trong nhiều thế kỷ, nhưng trước hỏa lực mạnh của đối phương, voi đành bỏ chạy. Khi Đa Bang vỡ, quân nhà Hồ không còn ngăn được đà tiến về miền đông và nam của quân Minh. Ngày 20 tháng Giêng, Đông Đô (Thăng Long) sụp đổ, và sáu ngày sau, Tây Đô (vùng Thanh Hóa) cũng rơi vào tay quân viễn chinh.

Trong các trận chiến sau đó, súng của quân Minh cũng chứng tỏ hiệu quả. Ngày 21 tháng Hai, trên Lục giang, quân Minh huy động thủy – lục quân với nhiều loại súng, tấn công 500 chiến thuyền của Hồ Nguyên Trừng, giết chết hơn 10.000 lính Việt. Một nguồn sử Trung Hoa mô tả trận chiến là “súng bắn ra như sao rơi, sét đánh.” Đầu tháng Năm 1407, một trận lớn diễn ra ở bến Hàm Tử, Hưng Yên. Nhà Hồ huy động lực lượng đáng kể (70.000 quân) và nhiều chiến thuyền kéo dài trên sông đến năm cây số. Mặc dù quân Hồ cũng sử dụng súng chống trả, nhưng hỏa lực quân Minh vẫn đủ sức tạo chiến thắng, với 10.000 lính Việt tử trận. Ngày 16-17 tháng Sáu 1407, quân Minh kết thúc chiến dịch với việc bắt sống Hồ Quý Ly và các con. Chiến thắng nhanh chóng khiến tướng Hoàng Phúc bình luận: “Thành công nhanh chóng thế này chưa bao giờ xảy ra trong quá khứ.”

Đại Việt dưới thời Hồ Quý Ly đã chuẩn bị cho khả năng bị xâm lăng từ sớm, và huy động một lực lượng quân đội lớn chưa từng thấy. Tuy vậy, chế độ nhà Hồ sụp đổ nhanh chóng. Lý do, bên cạnh các yếu tố khác như bất mãn của tầng lớp quý tộc và dân chúng trong nước, sai lầm chiến lược, còn là ưu thế quân sự, bao gồm súng đạn, của nhà Minh.


Đại Việt áp dụng kỹ thuật súng

Tuy nhiên, quân Minh dần dần đánh mất ưu thế công nghệ này vì đối phương của họ, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, cướp ngày càng nhiều vũ khí của quân Minh trong các trận đánh năm 1418, 1420, 1421, 1424 và 1425. Ví dụ như trận Ninh Kiều cuối năm 1426. Trước đó, quân Minh ở Đông Quan (Thăng Long) đã sử dụng súng để chống đỡ đợt vây ráp của quân Lê Lợi. Người Việt rút lui, và quân Minh đuổi theo. Khoảng 100.000 quân Minh do Vương Thông và các tướng khác dẫn đầu bị phục kích và chịu thất bại thảm hại. Điều quan trọng cho chủ đề ta đang bàn ở đây là trong số quân Minh có 510 người lính thuộc đơn vị quân súng thần cơ. Vì thua trận, quân Minh mất gần hết vũ khí. Sau khi lui về Đông Quan, họ buộc phải tái sản xuất súng đạn, sử dụng chất liệu đồng từ việc phá hủy chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh (được gọi là hai trong số bốn tứ bảo của Việt Nam).

Chiến thắng Ninh Kiều có hai tầm quan trọng cho quân Lê Lợi. Thứ nhất, đây là lần họ thu được nhiều nhất súng ống của quân Minh, khiến trang bị được tăng cường. Thứ hai, trận đánh là điểm bước ngoặt trong phong trào chống Minh của Đại Việt. Đến tháng 12-1426, Lê Lợi đã đưa quân ra vây Đông Quan.

Ngoài ra, những tù binh và hàng tướng quân Minh cũng dạy lại cho người Việt các kỹ thuật quân sự. Trong số hàng binh, có lẽ viên sĩ quan có tên Cai Fu là nhân vật cao cấp nhất. Ông ta đã đóng vai trò lớn giúp quân Minh chiếm thành Đa Bang năm 1407, nhưng đến đầu năm 1427, ông đầu hàng và dạy cho quân của Bình Định Vương Lê Lợi các kỹ thuật đánh thành mà sau đó sẽ dùng để lấy Xương Giang và Đông Quan.

Các loại vũ khí, thu được hay chế tạo mới, đã giúp quân Đại Việt đánh đuổi quân Minh. Điều này đặc biệt thể hiện trong việc vây thành Xương Giang, có lẽ là cứ điểm quan trọng nhất của quân Minh đầu năm 1427. Quân Minh dựa vào đây để hỗ trợ Đông Quan trong lúc chờ viện binh từ Trung Quốc. Vì thế, quân Đại Việt quyết chiếm lấy Xương Giang trước khi viện binh Trung Quốc đến từ Vân Nam. Lê Lợi đã vây thành này hơn sáu tháng, nhưng vẫn chưa đánh được. Khoảng hai ngàn lính Minh đã dùng súng và máy bắn đá để bảo vệ thành phố. Cuối cùng, khoảng 80.000 chiến binh Đại Việt đã cướp được thành bằng cách dùng những kỹ thuật học từ người Trung Quốc. Đại Việt sử ký toàn thư chép quân Lê Lợi “mở đường đánh nhau với giặc, dùng câu liêm, giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, súng lửa, bốn mặt đánh vào, thành cuối cùng bị hạ.” Giống như việc quân Minh chiếm thành Đa Bang năm 1407 báo hiệu nhà Hồ sụp đổ, việc Xương Giang vỡ cũng báo hiệu ngày tàn của quân Minh. Nếu không có hỏa lực hạng nặng, gần như không thể có chiến thắng của quân Đại Việt. Hai mươi năm sau khi Đa Bang sụp đổ, quân Đại Việt giờ đây được vũ trang tốt hơn với các loại súng mà nhiều trong đó lấy của quân Minh.

Chiếm được Xương Giang, quân Đại Việt cướp thêm được nhiều vũ khí, và họ chiếm thêm được nhiều hơn nữa khi cuối năm 1427, quân Đại Việt đánh bại 150.000 viện binh nhà Minh. Đại Việt sử ký toàn thư chép là số vũ khí mà quân Lê Lợi lấy từ viện quân nhiều gấp đôi số lượng lấy được từ Xương Giang. Khi hơn 80.000 quân và thường dân nhà Minh cuối cùng rút khỏi Đại Việt tháng Giêng 1428, chắc chắn số binh lính Minh đã bi tước vũ khí. Số lượng vũ khí cũng như người Minh còn ở lại Đại Việt sau khi quân Minh rút lui đã gây lo ngại lớn cho triều đình phương Bắc. Nhà Minh liên tục đòi Đại Việt trao trả các quan binh, và vũ khí. Về vũ khí, mặc dù chính thức thì bảo đã trả hết, nhưng Đại Việt không trả lại món nào và cuối cùng triều Minh phải từ bỏ yêu sách.

Tuy vậy, cần nói rằng Đại Việt không chỉ du nhập công nghệ quân sự mà cũng xuất khẩu một số kỹ thuật ưu việt sang Trung Quốc.

Sau khi nhà Minh chiếm Đại Việt năm 1407, họ thu lấy một loại mũi tên của người Việt (shen qiang), có thể dịch ra là “thần tiễn”. Kỹ thuật này sau đó được Trung Quốc thu nhận cho loại súng ngắn vào năm 1415.


Đóng góp của người Việt

Ngoài ra, thiết bị gảy cò súng ngắn, làm ít nhất từ năm 1410 trở đi, được cải tiến ở chỗ, thay vì một lỗ nhỏ nơi chêm kíp nổ vào, thì bây giờ là một khe hình chữ nhật có nắp thêm vào phần đằng sau của nòng súng ngắn. Nhờ thế thuận tiện hơn khi kích hoạt thuốc súng trong khe và chiếc nắp thì che cho khỏi ướt thuốc súng trong những ngày mưa. Người ta đoán rằng thiết bị này có thể được người Việt sáng chế vì mô hình đầu tiên được làm năm 1410 sau khi nhà Minh xâm lược Đại Việt, và còn vì khí hậu nhiệt đới ở Đại Việt có lẽ đã khuyến khích tạo nên sáng chế này.

Theo lệnh của vua Minh, những tù binh Việt Nam giỏi làm súng được đưa về thủ đô Nam Kinh cùng với các thợ thủ công khác. Khoảng 17.000 người Việt được đưa về Trung Quốc, trong đó có Hồ Nguyên Trừng (tên tiếng Hoa là Li Cheng). Nguyên Trừng, con trưởng Hồ Quý Ly, là người phụ trách quân cơ dưới triều Hồ. Nhờ giỏi làm vũ khí, ông thoát cảnh tù tội, được vua Minh phong đến chức Công bộ Thị Lang. Khi Nguyên Trừng qua đời ở tuổi 73, con trai ông lại tiếp tục chế tạo vũ khí cho nhà Minh cho đến khi về hưu năm 1470. Cho mãi đến năm 1489, con cháu của những người này vẫn còn đang phục vụ trong triều Minh.

Trong bộ Minh Sử, hoàn thành năm 1739, có một đoạn văn nổi tiếng: “Đến thời Minh Thành Tổ, Giao Chỉ được bình định, kỹ thuật làm súng được học, một tiểu đoàn hỏa khí được đặc biệt thành lập để rèn luyện vũ khí.” Đoạn văn đã khiến nhiều người sau này tin rằng người Trung Quốc, sau khi xâm lăng Đại Việt năm 1406, đã học công nghệ hỏa khí từ người Việt. Theo tác giả Sun Laichen, vấn đề thực sự là Trung Quốc đã học thêm một số kỹ thuật mới, chứ không phải công nghệ thuốc súng, từ Đại Việt. Bộ Minh Sử có vẻ lấy thông tin từ quyển sách của Shen Defu. Theo Shen: “Triều đại chúng ta sử dụng hỏa khí để đánh rợ phương bắc, và hỏa khí này là vũ khí tốt nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, những kỹ thuật bản địa chỉ thu được khi Minh Thành Tổ bình định Giao Chỉ. Triều ta đã dùng viên tướng quốc Nguyên Trừng làm việc tại Công Bộ, phụ trách việc sản xuất các vũ khí của người Việt, và mọi kỹ thuật đều đã được nắm bắt.”


Đại Việt mở rộng về miền Tây, Nam

Dưới triều Lê Thánh Tông (1460-97), Đại Việt bước vào giai đoạn củng cố nội địa và bành trướng lãnh thổ nhanh chóng. Tháng Ba 1471, kinh đô Chà Bàn (Vijaya) của người Chàm thất thủ. Theo sử Việt Nam, hơn 30.000 người Chàm bị bắt, trong đó có vua Trà Toàn, trong lúc 40.000 người Chàm chết. Về phía người Chàm, không có bằng chứng cho thấy họ từng sử dụng hỏa khí. Một phái viên Trung Quốc đến Chămpa năm 1441 kể lại những người lính Chàm gác nơi tường thành chỉ mang theo giáo bằng tre. Một quyển từ điển Hoa-Chàm thế kỷ 15, trong phần từ vựng về vũ khí, chỉ cho người ta thấy các loại thông dụng như giáo mác. Cho mãi đến thập niên 1590, một quan sát của người Bồ Đào Nha còn viết là tuy người Chàm đã có súng, nhưng họ lại phải thuê nô lệ nước ngoài để sử dụng.

Sau khi Đại Việt đánh hạ Chămpa, nhiều láng giềng phía Tây bắt đầu gửi cống phẩm. Thế rồi năm 1479, Đại Việt tấn công thêm Ai Lao, Muong Phuan, Lan Sang. Năm 1480, quân nhà Lê lấn chiếm Nan, khu vực khi đó thuộc Lan Na. Cuối cùng, quân Đại Việt tiến xa lên đến sông Irrawaddy ở vương quốc Ava (thuộc Miến Điện ngày nay). Năm 1485, Đại Việt đưa thêm Melaka vào danh sách các nước nộp triều cống, cùng Chămpa, Lang Sang, Ayudhya và Java. Sự lớn mạnh của Đại Việt trong nửa đầu thế kỷ 15 có thể có một nguyên nhân quan trọng: đó là công nghệ vũ khí mà họ học được.

Sau triều vua Lê Thánh Tông, người Việt tiếp tục sử dụng hỏa khí với cường độ cao, tuy là kể từ đầu thế kỷ 16, các loại súng chủ yếu được sử dụng trong các cuộc tranh giành nội bộ, thay vì chống lại bên ngoài. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, các loại súng được dùng thường xuyên bởi cả hai lực lượng Mạc và Trịnh trong các năm 1530, 1555, 1557, 1578, 1589, 1591, 1592, 1593.

Từ nửa đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19, trong phân tranh Trịnh-Nguyễn, trận Tây Sơn đánh Thanh, phân tranh Nguyễn-Tây Sơn, mặc dù người Việt vẫn sử dụng các thuật ngữ gốc tiếng Hoa để chỉ các loại hỏa khí, nhưng các loại súng kiểu Trung Quốc dần dần nhường chỗ cho kỹ thuật Tây phương. Tuy vậy, chúng vẫn không biến mất hoàn toàn. Cần nói là kỹ thuật quân sự Tây phương sau này du nhập vào Việt Nam không phải trong một khoảng chân không, mà nó được hình thành từ lớp nền Hoa-Việt từ trước đó. Cũng đáng lưu ý là người Việt, khác với nhiều nước Đông Nam Á khác như Miến Điện, có khuynh hướng không dựa vào quân đánh thuê mà vào quân bản địa. Kỹ năng hỏa khí thuần thục của người Việt có lẽ đã khiến cho việc thuê mướn thành không cần thiết.


Kết luận

Hỏa khí Trung Quốc như vậy đã vào Đại Việt khoảng năm 1390, hơn 120 năm trước khi Melaka rơi vào tay người phương Tây (Bồ Đào Nha) năm 1511. Việc chuyển giao công nghệ lại được thúc đẩy với việc chiếm đóng của quân Minh thời kì 1406-1427. Quân Minh, nhờ một phần vào ưu thế hỏa khí, đã chinh phục Đại Việt – một thành tích mà sau này không còn triều đại Trung Quốc nào lặp lại được. Tuy vậy, ưu thế hỏa khí này sau đó đã bị người Việt học hỏi và góp phần vào cuộc đánh đuổi người Minh ra khỏi Đại Việt.

Trao đổi văn hóa diễn ra hai chiều và điều này cũng áp dụng cho sự lan truyền công nghệ quân sự giữa Trung Quốc và Đại Việt. Mặc dù Đại Việt ban đầu học công nghệ thuốc súng từ Trung Quốc, người Việt cũng xuất khẩu một số kỹ thuật sang vùng đất Bắc.


Các nhà nước và dân tộc phát triển và suy thoái vì nhiều lý do. Sự sụp đổ của Chămpa có nhiều nguyên nhân, và công nghệ thuốc súng có thể là một trong nhiều yếu tố đó. Nửa cuối thế kỷ 15 là thời đại vàng son của Đại Việt, đặc biệt về mặt bành trướng ra nước ngoài. Về phía nam, Đại Việt đè bẹp Chămpa sau mấy trăm năm đối đầu để rồi từ đó trở đi Chămpa không còn sức mạnh, khiến tính chất địa chính trị của khu vực Đông Nam Á lục địa thay đổi nhiều. Về hướng tây, Đại Việt không chỉ bình ổn vùng biên giới với các dân tộc Thái, mà còn tiến lên cả sông Irrawaddy ở Miến Điện cuối thập niên 1470. Kết quả là các vương quốc ở mạn bắc của Đông Nam Á lục địa gồm Lan Sang, Chiang Mai, Sipsong Panna và Miến Điện lo ngại, đến cả nhà Minh cũng thấy cần báo động.

Có thể cho là Đại Việt đã mượn, lĩnh hội và nội hóa công nghệ quân sự Trung Quốc và dùng nó cho mục đích của mình, trong lúc Chămpa, vì những lý do chưa rõ ràng, lại không học công nghệ này và hứng chịu hậu quả. Các vương quốc khác tại Đông Nam Á, mặc dù cũng thu lấy công nghệ thuốc súng, nhưng áp dụng nó không hiệu quả như Đại Việt thế kỷ 15. 

Phụ lục 1 : Chuyển giao quân sự:Trường hợp nhà Nguyễn

Đáng lưu ý là ngay cả người Pháp, cho đến trước năm 1816-1818, còn chưa dùng tàu hơi nước cho các sứ mạng thương mại. Đến cuối thập niên 1820, các hạm đội Anh và Pháp mới đặt hàng các tàu hơi nước đầu tiên.

Trong khu vực, đến thập niên 1830, vua Rama III của Thái Lan mới quyết định chỉ dùng toàn mô hình châu Âu cho hạm đội nhà nước Thái. Tức là trong khi người Thái mới bắt đầu nói về tàu kiểu Tây phương, thì Việt Nam đã mua tàu chạy bằng hơi nước.

Đây là một trong vài ví dụ nêu ra trong bài viết của Frédéric Mantienne, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (Đại học quốc gia Singapore, số tháng Mười 2003).

Frédéric Mantienne, làm việc tại Laboratoire Péninsule Indochinoise thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ, Paris, là tác giả quyển “Les relations politiques et commerciales entre La France et la Peninsule Indochinoise” (2001). Quyển sách nói về quan hệ trong thế kỷ 17-18 giữa Pháp và các nước thuộc bán đảo Đông Dương và các vùng phụ cận: Việt Nam, Thái Lan, Campuchia và Miến Điện.

Tiếp tục loạt bài giới thiệu các nghiên cứu mới về chuyển giao quân sự từ ngoài vào Việt Nam, chúng tôi xin tóm tắt nội dung chính bài viết của Frédéric Mantienne có tựa đề “The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in the Late 18th and early 19th centuries: The case of the Nguyễn.” 

Bước ngoặt bắt đầu với chuyến đi của Pigneaux đến Pondicherry và sau đó là đến Pháp giữa năm 1785 và 1789. Ở đó vị cha xứ ký một hiệp ước quân sự với triều đình Pháp nhân danh Nguyễn Ánh. Nhưng cuối cùng ông không thuyết phục được triều đình Pháp thực thi hiệp ước. Dẫu vậy, ông linh mục cũng quyên đủ tiền và khiến người Pháp đủ quan tâm tới tương lai Nguyễn Ánh để tập hợp nhiều chuyến hàng vũ khí, đạn dược xuất xứ từ Pondicherry và Mauritius. Nhiều thuyền lớn cập cảng tại Đàng Trong và được Nguyễn Ánh thuê cùng với thủy thủ đoàn, cùng một số sĩ quan Pháp được giáo sĩ thuyết phục tham gia. Đa số những người Tây phương này là thủy thủ, nhưng có hai người là chuyên viên quân sự quen thuộc với đạn pháo và các kỹ thuật xây đồn lũy. Trước nay nhiều người thường khẳng định có tới khoảng 400 người Pháp phục vụ trong quân đội Nguyễn Ánh, nhưng con số này đã bị phóng đại nhiều. Dựa trên các nguồn tư liệu của Pháp đương thời, theo Frédéric Mantienne, ta có thể cho rằng có không quá 100 người Pháp tại Đàng Trong̣ trước năm 1792, và sau năm đó thì chỉ còn vài người ở lại – khoảng 12 sĩ quan và một số lính tráng. Trong những năm 1799-1802, khi chiến tranh ở giai đoạn ác liệt nhất, chỉ còn sáu sĩ quan hải quân còn ở lại Đàng Trong. Vì thế không thể nói tự thân những người Pháp một tay thay đổi chiến cuộc. Tuy nhiên, họ đã dạy lại cho quân đội Nguyễn Ánh các kỹ thuật mới và chia sẻ kỹ thuật tác chiến mà cho phép quân thủy bộ nhà Nguyễn trở thành đối trọng của quân Tây Sơn.

Các công nghệ châu Âu trong việc đắp đồn lũy và đóng tàu trong mấy thập niên cuối của thế kỷ 18 đã kéo dài trong thời gian sau đó trong lịch sử Việt Nam. Chúng tiếp tục được áp dụng và cải tiến trong thời Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Bài viết của Frédéric Mantienne chủ yếu tập trung vào ba triều đại này.


Xây đồn lũy

Như thế nghệ thuật xây thành đắp lũy của người Việt khi ấy chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn của Trung Quốc, theo hình vuông hoặc chữ nhật. Sau khi chiến tranh Trịnh-Nguyễn chính thức chấm dứt năm 1672, có ít bằng chứng để nói có các đợt xây dựng mới nhằm mục đích quân sự. Tuy nhiên, đến thế kỷ 18, cuộc chiến Tây Sơn làm sống lại tầm quan trọng của việc xây thành, với các bên đối nghịch thực thi các cuộc vây thành và xây đồn lũy mới. Tây Sơn củng cố thành đô của họ ở Chà Bàn, gần cảng Thị Nại, phía bắc Quy Nhơn. Trong lúc đó, Nguyễn Ánh biến Sài Gòn thành thủ đô; thành phố và khu vực xung quanh nó được biết đến với tên Gia Định. Cứ mỗi mùa xuân, Tây Sơn đưa đại quân và thuyền chiến đánh tràn vào Gia Định. Lực lượng Nguyễn Ánh liên tục bị đánh bại, và vị lãnh đạo có lúc phải bôn tẩu cả ra nước ngoài.

Đến tháng Bảy 1789, Bá Đa Lộc trở về Sài Gòn từ Pháp. Một trong các bước đầu tiên của Nguyễn Ánh là yêu cầu các sĩ quan Pháp dựng đề án, và giám sát việc xây đắp, một tòa thành hiện đại theo kiểu châu Âu tại Sài Gòn. Đề án do Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel lập ra, và 30.000 người được huy động để xây thành. Thành này làm bằng đá; chu vi khoảng 4.176 mét. Sébastien Le Prestre (1633-1707), bá tước xứ Vauban, đã xây dựng, tái thiết hơn 300 thành lũy tại Pháp và các ý tưởng của ông về việc xây thành được châu Âu áp dụng trong hơn một thế kỷ. Và thành Sài Gòn được xây dựa trên mô hình Vauban. Tuy vậy, thành này lại thường được mô tả như có phong cách ‘Trung Quốc’, xây hình bát giác, với tám cổng thành. (Trong bài viết, Frédéric Mantienne sử dụng hai tấm bản đồ Sài Gòn làm năm 1799 và 1815, cộng thêm quan sát của người nước ngoài để chứng minh thành Sài Gòn được xây dựa trên mô hình châu Âu.)

Tòa thành Sài Gòn đóng vai trò quan trọng cho Nguyễn Ánh; khi nó hoàn thành năm 1790, ông có một cứ địa vững tại miền Nam, và từ thời điểm đó, quân Tây Sơn không còn có thêm nỗ lực chiếm Sài Gòn nữa. Việc xây thành cho phép Nguyễn Ánh bắt đầu không chỉ nghĩ đến việc phòng thủ mà cả tái chinh phục; vì như đoạn sau sẽ trình bày, việc phòng thủ dựa trên gạch đá, nhưng cũng dựa vào gió mùa, tức thủy quân. Ta cần nhớ mỗi năm thủy quân của Nguyễn Ánh thường rời Gia Định và hướng về bắc trong tháng Sáu-Bảy – khi gió mùa thổi từ mạn tây nam – để gia nhập lực lượng lục quân đóng trên lãnh địa Tây Sơn và tổ chức tấn công. Khi gió đổi hướng, thủy quân buộc phải quay về nam, sử dụng gió thổi từ mạn đông bắc.

Năm 1794, sau một chiến dịch thành công ở Nha Trang, thay vì quay về nam trước lúc gió mùa chuyển hướng, Nguyễn Ánh lại xây một thành ở Diên Khánh, gần Nha Trang. Được de Puymanel xây, tòa thành do hoàng tử Cảnh, con Nguyễn Ánh, trấn thủ với sự giúp đỡ của linh mục xứ Adran và de Puymanel. Quân Tây Sơn vây thành tháng Năm 1794, nhưng không chiếm được. Ngay sau khi cuộc bủa vây kết thúc, quân nhà Nguyễn từ Sài Gòn quay lại Nha Trang và tái tục hoạt động quân sự ở khu vực này. Lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu, quân Nguyễn Ánh có thể ở lại trong mùa thời tiết xấu tại một khu vực mà trước đó vẫn thuộc Tây Sơn. Vì thế các thành Sài Gòn và Diên Khánh đóng vai trò rất quan trọng trong thành công của Nguyễn Ánh. Tầm quan trọng không hẳn mang tính quân sự – mặc dù trận vây Diên Khánh là một trận lớn – mà chủ yếu mang tính tâm lý: Sài Gòn có vị trí như một đại bản doanh mạnh, còn Diên Khánh là cái gai ngay trong da thịt Tây Sơn.

Đến khi chiến tranh kết thúc và Gia Long thống nhất Việt Nam (theo nghĩa một Việt Nam về mặt địa lý mà ta biết hiện nay), chỉ mới có hai tòa thành được xây dưới sự giám sát của người Pháp. Nhưng rõ ràng Gia Long và Minh Mạng tin tưởng tính hiệu quả của chúng, vì thời kì hòa bình sẽ chứng kiến việc xây cất 32 tòa thành kiểu Vauban trong năm 1802 đến 1844: 11 thành dưới thời Gia Long, 20 dưới thời Minh Mạng và một khi Thiệu Trị lên ngôi. Các thành mới trải dài từ bắc đến nam, từ Cao Bằng đến Hà Tiên.

Tuy vậy, dưới thời Minh Mạng, hình thù các tòa thành mới xây được chuyển sang hình vuông hoặc chữ nhật, với bốn tòa tháp ở các góc mà thôi. Thành Sài Gòn là một ví dụ: Xây năm 1790 theo mô hình Vauban, nó bị phá bỏ năm 1835 sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Ngay sau đó, Minh Mạng cho xây thành mới, lần này có thiết kế giản dị hơn, hình vuông với chỉ bốn tháp canh.

Liệu có thể kết luận mô hình châu Âu đã bị từ bỏ để thay bằng hình mẫu Trung Hoa truyền thống? Có người đã khẳng định khi không còn sự trợ giúp của các cố vấn châu Âu, những kỹ sư Việt Nam không còn có thể xây theo các mô hình châu Âu và điều này giải thích cho sự trở lại của mô hình cổ điển Trung Hoa. Thế nhưng một điều thú vị ở đây: các thành mới xây dựng sau năm 1822 thực tế được thiết kế theo các cải tiến mới nhất trong việc xây thành đang diễn ra tại châu Âu vào lúc đó. Cũng lấy ví dụ từ thành Sài Gòn xây lại năm 1836: nó có hình thức chữ nhật, với các tháp canh lớn ở bốn góc. Các tháp canh bên ngoài, tiêu biểu cho mô hình Vauban từ thời các cỗ pháo có tầm bắn ngắn hơn, đã không còn được dùng. Vẻ ngoài của thành rất giống các pháo đài xây tại Pháp dưới thời Đệ nhất đế chế (1804-1814). Nó nhắc người ta về pháo đài Liédot trên bờ biển Thái Bình Dương và đa số các pháo đài được xây sau đó, gồm cả các pháo đài quanh Paris sau năm 1840. Trong thập niên 1830 và 1840, cũng các pháo đài, thành lũy kiểu tương tự được xây tại cả Việt Nam và châu Âu. Các kỹ sư Việt Nam, tưởng như phải đơn giản hóa cách xây kiểu Vauban vì nó phức tạp quá, hóa ra lại đi theo những kỹ thuật tân tiến nhất của châu Âu.

Một ví dụ khác của việc áp dụng kỹ thuật mới được Finlayson cung cấp. Ông này đến thăm Huế năm 1822 và ngạc nhiên về tòa thành, lúc đó đang xây dở dang. Ông viết: “Phần bờ tường này đã được xây xong, rất hoàn chỉnh. Nhưng vị vua đương thời Minh Mạng không hài lòng với các nguyên tắc Vauban. Ông xây các lỗ châu mai theo một đề án của riêng ông. Trật tự của chúng đổi ngược lại, tức là càng tiến về hào thì các lỗ châu mai càng hẹp hơn, và càng hướng về thành lũy thì chúng rộng ra.”

Cả hai ví dụ trên biểu lộ rằng các kỹ sư của Minh Mạng nắm vững các diễn biến mới nhất trong nghệ thuật xây thành ở châu Âu và áp dụng ngay vào Việt Nam. Chúng ta có thể nghĩ rằng thông tin mới đã được cung cấp bởi Jean-Baptiste Chaigneau, một trong hai sĩ quan hải quân ở lại Huế sau khi chiến tranh chấm dứt, vì ông quay lại Pháp năm 1819 và hai năm sau trở lại Việt Nam. Người ta biết ông mang về nhiều quyển sách do Gia Long đặt mua, gồm các nghiên cứu khoa học kỹ thuật mới nhất. Vai trò của Chaigneau trong việc cung cấp các sách mới nhất được thể hiện qua việc các tòa thành do Gia Long xây (trước lú Chaigneau đi Pháp năm 1819) được xây theo kiểu Vauban, nhưng khi ông quay lại Việt Nam dưới thời Minh Mạng, tất cả các tòa thành mà người ta còn giữ được bản vẽ đều theo kiểu hình vuông.

Tòa thành Sài Gòn được xây dưới sự hướng dẫn của Puymanel và Lebrun, còn Diên Khánh có sự chỉ đạo của Puymanel. Hai sĩ quan này rời Việt Nam ngay trước khi chiến tranh kết thúc. Khi Gia Long bắt đầu xây thêm thành sau năm 1802, chỉ còn bốn người Pháp có mặt ở Việt Nam – một bác sĩ và ba sĩ quan hải quân – và không có bằng chứng để nói họ liên quan việc xây các thành mới. Các tài liệu còn lại xác nhận các kĩ sư Việt Nam tự mình vẽ đồ án và giám sát việc thi công. Họ đã được Lebrun và Puymanel dạy nghệ thuật xây thành kiểu Vauban, và họ cũng có các quyển sách và bức tranh do cha xứ Adran dịch lại. Chắc chắn chúng được dùng để huấn luyện các kĩ sư người Việt. Một quân đoàn đặc biệt cũng được thành lập để xây cất và bảo dưỡng các thành mới; việc tạo ra ‘văn phòng’ Giám thành (coi sóc thành) chứng tỏ tầm quan trọng mà Gia Long dành cho vấn đề này.

Việc giới thiệu các nguyên tắc Vauban vào Việt Nam cuối thế kỷ 18 tạo nên thay đổi lớn trong nghệ thuật xây thành của người Việt. Mặc dù các kỹ sư Việt Nam được người Pháp truyền dạy, nhưng sau đó họ tự mình quản lý việc xây thành không cần nước ngoài giúp. Theo Frédéric Mantienne, lúc đó các tòa thành ở Việt Nam được xem là độc đáo tại châu Á, tính cả các thuộc địa của phương Tây. Các kỹ sư Việt Nam biến đổi kỹ thuật học được cho phù hợp môi trường địa phương và nắm bắt những diễn biến mới tại châu Âu. Từ cuối thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, họ áp dụng các kỹ thuật tiên tiến châu Âu vào lĩnh vực xây thành. Để so sánh, viên tùy viên Pháp tháp tùng đoàn quân Anh-Pháp tấn công Trung Quốc năm 1860 đã xem xét cách phòng thủ ở các thành lũy và các pháo đài bảo vệ Thiên Tân. Ông ghi lại rằng người Trung Quốc vẫn còn ở trình độ thô sơ trong việc xây thành, chưa chắc tương đương châu Âu thời Trung Cổ trong việc phòng thủ và tấn công các điểm dinh lũy.

Sau cuộc chiến Tây Sơn, các tòa thành kiểu châu Âu xây trong thời bình trở thành biểu tượng, và là dinh cơ, của quyền lực vương triều, vì đại diện cấp tỉnh của triều đình sống trong đó. Chắc chắn mạng lưới thành lũy khắp toàn quốc đã giúp nhà Nguyễn củng cố chế độ mới vì thành lũy là công cụ giúp đẩy lui các cuộc nổi loạn nổ ra. Nhà Nguyễn hiểu rõ công dụng của thành lũy trong việc xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh – một điều mà các vương triều châu Âu từ lâu đã biết

Viết trong thế kỷ 17, Alexandre de Rhodes ghi nhận là người Việt tại Đông Kinh không bao giờ đi buôn ra ngoài địa phận vương quốc, vì nhiều lý do. Đầu tiên, họ không nắm vững nghệ thuật xác định phương hướng trên đại dương và chỉ tham dự các trao đổi dọc bờ biển. Thứ hai, thuyền của họ không đủ chắc để ra biển lớn.Cuối cùng, nhà cầm quyền không cho phép con dân được ra khỏi vương quốc.

Thủy quân và việc đóng thuyền

Ngoại trừ việc ra biển của các đoàn thuyền nhỏ, chúng ta có ít bằng chứng cho thấy các tàu Việt Nam đến các nước khác. Nếu có thuyền ra ngoài, thì cũng không rõ thuyền đó thuộc về người Hoa hay người Việt. Dù vậy cũng có các thuyền nhỏ đi từ Đàng Trong đến Xiêm trong thế kỷ 17, đưa thương nhân Việt Nam dưới lớp vỏ sứ thần đến triều đình vương quốc Ayudhya. Năm 1682, một cha xứ Pháp và hai thương nhân Anh thuê một tàu đánh cá nhỏ của người Việt và thuê một thủy thủ Bồ Đào Nha chở họ đi từ Đông Kinh đến Ayudhya. Dẫu vậy, việc một chiếc thuyền Việt Nam đến Xiêm được các cha xứ tường thuật như là một sự kiện ngoại lệ.

Hai thực thể Việt Nam – Đông Kinh và Đàng Trong – cùng chung một điểm là cả hai đều không trực tiếp tham dự vào mọi hình thức buôn bán ra ngoài nước: tất cả nhập khẩu các sản phẩm đưa đến các cảng Việt Nam bởi thương nhân nước ngoài trên các tàu nước ngoài. Hàng xuất khẩu được chở đi cùng một cách thức n

0