18/06/2018, 15:22

Trận Tours (Poitiers) 732

Trận Tours (October 10, 732) còn được gọi là Trận Poitiers là một trận chiến xảy ra ở một địa điểm giữa các thành phố Poitiers và Tours, nằm ở phía bắc-trung tâm nước Pháp, gần ngôi làng Moussais-la-Bataille, khoảng 20 km (12 dặm) về phía đông bắc của Poitiers. Vị trí của trận chiến ở gần ...

Trận Tours (October 10, 732) còn được gọi là Trận Poitiers là một trận chiến xảy ra ở một địa điểm giữa các thành phố Poitiers và Tours, nằm ở phía bắc-trung tâm nước Pháp, gần ngôi làng Moussais-la-Bataille, khoảng 20 km (12 dặm) về phía đông bắc của Poitiers. Vị trí của trận chiến ở gần biên giới giữa vương quốc Frank và công quốc Aquitaine. Trận đọ sức giữa lực lượng kết hợp của người Frank và Burgundy dưới sự chỉ huy của tể tướng Charles Martel chống lại một đội quân Hồi giáo của Umayyad dưới sự chỉ huy của Abdul Rahman Al Ghafiqi – Tướng toàn quyền vùng al-Andalus. Người Frank đã chiến thắng, “Abdul Rahman Al Ghafiqi đã bị giết chết và sau đó Charles mở rộng quyền lực của mình ở phía nam. Các nhà viết sử thế kỷ IX đã giải thích kết quả của cuộc chiến như là một phán xử của Thiên Chúa mang lại ân huệ cho người Công giáo, Các thông tin chi tiết của trận đánh, bao gồm cả vị trí chính xác của nó và số lượng chính xác binh lính đôi bên không thể được xác định một cách chính xác từ các ghi chép còn sót lại. Một điều đáng chú ý là quân Frank thắng trận mà không hề có lực lượng kỵ binh.

Bối cảnh

Trận Tours xảy ra 23 năm sau khi Umayyad bắt đầu các cuộc chinh phục ở châu Âu mà đầu tiên là cuộc xâm lược vào Vương quốc Visigoth theo Công giáo trên Bán đảo Iberia trong năm 711. Sau đó là các cuộc viễn chinh quân sự vào vùng lãnh thổ của người Frank ở xứ Gaul, các tỉnh cũ của Đế quốc La Mã. Các chiến dịch quân sự đã làm cho Umayyad chiếm được các thành phố phía bắc của các công quốc Aquitaine và Burgundy, bao gồm một trận tấn công lớn vào thành phố Bordeaux và một nữa vào Autun. Chiến thắng của Charles được nhiều người cho là đã chặn đứng bước tiến về phía bắc của lực lượng Umayyad từ Bán đảo Iberia và có bảo vệ cho Kitô giáo ở châu Âu trong một thời gian khi mà luật lệ của Hồi giáo đã được ban bố ở các phần còn lại của các đế chế La Mã và Ba Tư trước đây.

Hầu hết các sử gia cho rằng hai đội quân đã gặp nhau ở giữa các con sông Clain và Vienne ở giã vùng Tours và Poitiers. Số lượng binh lính trong từng đội quân không biết đến một cách chính xác. Tài liệu tiếng Latinh của các nhà sử học người Ả rập – Moor năm 754 mô tả trận đánh cụ thể lớn hơn bất kỳ nguồn tài liệu Latin hoặc Ả Rập nào khác, nói rằng “người Austrasia [lực lượng Frank] có số binh lính đông hơn và được vũ trang tốt hơn do vậy đã giết được Abd ar-Rahman ” thông tin này được sự đồng tình của nhiều sử gia Ả Rập và Hồi giáo. Tuy nhiên, hầu hết tất cả các nguồn tin phương Tây đã không chấp nhận như vậy và họ ước tính người Frank có khoảng 30.000, ít hơn một nửa lực lượng Hồi giáo. Các nhà sử gia hiện đại ước tính về lực lượng có thể huy động tại chỗ và số lượng mà Martel có thể mang tới từ vương quốc của mình cùng với lực lượng được tăng cường trong quá trình chiến dịch không thể vượt quá 30.000 nghìn, còn lực lượng Hồi giáo nếu tính tổng số, kể cả các lực lượng đi cướp phá ở nơi khác đã kịp gia nhập vào lực lượng chính trước trận tours có thể lên đến 80.000 người hoặc nhiều hơn. Còn về số thương vong của đôi bên, đã có rất nhiều số liệu trái ngược nhau nhưng các nhà nghiên cứu hiện đại đưa ra một con số ước đoán tương đối hợp lý, khoảng 1.500 người chết ở bên phía người Frank và 12.000 ở phía người Hồi giáo.

Người Moor là ai?

Bước tiến của người Hồi giáo từ xứ sở Hispania

Quân đội Umayyad, dưới sự chỉ huy của Al-Malik ibn Samh al-Khawlani, Thống đốc al-Andalus (nay là xứ Aldalucia của TBN), tràn qua Septimania vào năm 719 sau khi quét sạch đối thủ của mình trên Bán đảo Iberia. Al-Samh lập thủ đô của mình vào năm 720 tại thành phố Narbonne, mà người Moor gọi là Arbūna. Với chiếc cảng quá an toàn của Narbonne, Umayyad nhanh chóng chinh phục các thành phố lớn như Alet, Béziers, Agde, Lodève, Maguelonne và Nîmes của người Visigothic mà không gặp một sự kháng cự đáng kể nào.

Các chiến dịch của Umayyad vào Aquitaine phải chịu thất bại tạm thời tại Trận Toulouse (721), Khi Công tước Odo của Aquitaine (Còn gọi là Eudes Đại Đế) đã phá vỡ cuộc bao vây vào Toulouse, bất ngờ tấn công vào Lực lượng của Al-Malik ibn Samh và giết và làm bị thương rất nhiều ngườI Hồi giáo trong đó có cả chính Tổng đốc Al- Malik ibn Samh. Thất bại này đã không chặn được các cuộc xâm lược của lực lượng Hồi giáo người Moor vào xứ Gaul cũ của Rome, họ tiếp tục chiếm đóng và đặt tổng hành dinh ở thành phố Narbonne để được thuận tiện cho việc cung cấp bằng đường biển và tấn công về phía đông trong những năm 720 khi xâm nhập vào thành phố Autun thuộc công quốc Burgundy trong năm 725.

Bị đe dọa bởi cả Umayyad ở phía nam và người Frank ở phía bắc, trong năm 730 Odo liên minh với đô đốc Berber Ả rập – Uthman ibn Naissa, được gọi là “Munuza” bởi người Frank, vị phó vương của vùng mà sau này là Catalonia. Khi đó để đánh dấu sự liên minh, Uthman đã cưới Lampade con gái của Odo và các cuộc tấn công của người Moor trên toàn rặng núi Pyrenees, biên giới phía nam của Odo đã chấm dứt. Tuy nhiên, năm tiếp theo, Uthman nổi dậy chống lại thống đốc al-Andalus – Abd-al-Rahman, người đã nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy và hướng sự chú ý của mình vài Odo. Abd-al-Rahman đã đưa một lực lượng rất lớn của các kỵ binh nặng Ả Rập và kỵ binh nhẹ Berber, cộng với bộ binh từ tất cả các tỉnh của Tiểu vương Hồi giáo, trong nỗ lực của Umayyad để làm một cuộc chinh phục châu Âu từ phía bắc của rặng núi Pyrenees. Công tước Odo (được gọi là Vua bởi một số người), thu thập quân đội của mình tại Bordeaux, nhưng đã bị đánh bại, và Bordeaux bị cướp bóc. Việc tàn sát các Kitô hữu tại Trận sông Garonne rõ ràng là khủng khiếp; Những kỵ binh của Umayyad sau đó hoàn toàn tàn phá một phần của xứ Gaul, các nhà viết sử riêng của họ nói với các Giáo hữu đạo Hồi rằng ” binh lính đã vượt qua các ngọn núi, dẫm lên trên mặt đất gồ ghề và mức độ, cướp bóc vào đất nước của người Frank và phá hủy tất cả bằng những thanh kiếm, đến nỗi khi Eudo đến để giao chiến đấu với họ ở sông Garonne, ông ta đã phải bỏ chạy. “

Kêu gọi sự chi viện của người Frank

Odo kêu gọi người Frank chi viện, mà Charles Martel chỉ chấp nhận sau khi Odo đã đồng ý thuần phục trước người Frank.
Hơn nữa, Umayyad dường như không tiến hành trinh sát lên phía bắc để tìm hiểu về kẻ thù tiềm năng, vì nếu họ đã làm thì chắc chắn họ sẽ phải lưu ý tới Charles Martel như là một lực lượng được tính đến trong các ghi chép của họ, vì sự thống trị toàn diện của ông tại châu Âu từ năm 717: điều này có thể đã cảnh báo cho Umayyad rằng một quyền lực thực sự được dẫn đầu bởi một vị tướng tài năng đang vùng lên trong đống tro tàn của Đế quốc La Mã phương Tây.

Tiến tới Loire

Năm 732, lực lượng tiên phong của Umayyad đã tiến tới phía bắc Sông Loire và đã ở vào tình huống quá tải trong việc cung cấp cho một quân đội quá lớn của họ. Về cơ bản, họ có thể dễ dàng tiêu diệt tất cả những kháng cự trong một phần của xứ Gaul, quân đội xâm lược đã tách ra một số lực lượng để tiến hành tấn công cướp phá các làng mạc người Frank ở bên bờ sông trong khi lực lượng chính của họ tiến lên với tốc độ chậm hơn.

Các đợt tấn công của Umayyad xảy ra quá muộn vào thời điểm cuối năm vì khả năng nhiều người và ngựa cần thiết được dùng để canh tác vụ mùa nông nghiệp, do đó trước khi họ tiến quân họ đã phải chờ đợi cho đến khi các cánh đồng lúa mì của người Frank sắp đến mùa thu hoạch và sau đó cho đến khi một số lượng hợp lý ngũ cốc đã được gặt đập và được cất trữ. Xa hơn nữa về phía bắc vụ mùa được thu hoạch muộn hơn và trong khi những binh lính xâm lược có thể giết gia súc vật, nuôi để làm thức ăn thì ngựa nghẽo của họ không thể ăn thịt mà chúng cần được cung cấp cở và ngũ cốc. Cho chúng gặm cỏ mỗi ngày thì quá lâu và việc thẩm vấn người bản địa để tìm nơi cất giữ lương thực là không thực sự hiệu quả vì cả hai bên không có một ngôn ngữ chung.

Một lời giải thích tại sao quân đội của Odo ( quận công vùng Aquitaine ) đã bị đánh bại dễ dàng như vậy tại Bordeaux và tại Trận sông Garonne sau khi đã giành được chiến thăngd 11 năm trước tại Trận Toulouse là rất đơn giản. Tại Toulouse, Odo cố gắng mở một cuộc tấn công bất ngờ cơ bản chống lại một kẻ thù quá tự kiêu và không chuẩn bị tốt cho trận chiến, tất cả các công trình phòng thủ có mục đích nhắm trặn các cuộc tấn công từ bên trong ra (tư thành phố Toulouse), trong khi ông ta lại triển khai tấn công từ bên ngoài vào. Các lực lượng chủ yếu của Umayyad là bộ binh, kỵ binh và họ đã không có một cơ hội để huy động lực lượng để đối mặt với ông ta trong một trận đánh mở. Như Herman của Carinthia viết trong một bản dịch của ông về một lịch sử của al-Andalus, Odo đã cố gắng bao vây rất thành công khi những kẻ tấn công đã hoàn toàn chiếm thế bất ngờ – và kết quả là một trận tàn sát trong sự hỗn loạn của các lực lượng Hồi giáo.

Tại Bordeaux, và một lần nữa tại Trận sông Garonne, lực lượng của Umayyad là kỵ binh chứ không phải là bộ binh và đã không bị tấn công bất ngờ có cơ hội để đánh một trận lớn dẫn đến sự hủy diệt của quân đội của Odo, hầu như tất cả đều bị giết với thiệt hại tối thiểu cho người Hồi giáo. Lực lượng của Odo giống như những quân đội khác ở châu Âu thời đó, thiếu dây đai ngựa do đó không có kỵ binh nặng. Hầu như tất cả các binh sĩ của họ là bộ binh. Kỵ binh hạng nặng Umayyad đã phá vỡ các binh sỹ Kitô giáo ở lớp đầu tiên trong đội hình của họ và sau đó tàn sát những người còn lại khi họ bị phân tán và bỏ chạy.

Lực lượng xâm lược tiếp tục tàn phá miền nam Gaul. Một động cơ có thể, như theo hậu nhân đời thứ hai của Fredegar, là vùng giàu có Abbey – Saint Martin thuộc Tours – khu l.ă.n.g tẩm nổi tiếng nhất và thiêng liêng nhất ở Tây Âu vào thời điểm đó. Khi nghe tin này Tể tướng Charles Martel của xứ Austrasia đã tập hợp quân đội của mình để tiến về phía nam, tránh xa những con đường cổ của xứ La Mã và hy vọng làm cho người Hồi giáo bị bất ngờ. Vì ông có ý định sử dụng đội hình phalanx, nên ông cảm thấy rất cần thiết phải lựa chọn chiến trường. Kế hoạch của ông là tìm một vùng có đồi cao tương đối bằng phẳng, cây cối rậm rạp, bố trí quân của mình ở đó và lực lượng Hồi giáo phải đến và đối mặt với lực lượng của ông ta – tất cả đều phụ thuộc vào yếu tố bất ngờ.

Theo như tất cả các bản thảo ghi chép lại thì lực lượng xâm lược đã hoàn toàn mất cảnh giác để tìm một lực lượng lớn, cũng xử lý và chuẩn bị cho trận chiến, với vùng đất cao, trực tiếp phản đối cuộc tấn công của họ trên lịch. Charles đã đạt được sự ngạc nhiên, ông hy vọng. Ông sau đó đã chọn để bắt đầu một trận chiến trong phòng thủ, gần giống như đội hình Falanx. Theo nguồn tin Ả Rập, người Frank đã lập lên trong một đội hình hình vuông lớn, với các cây và dốc lên để phá vỡ bất cứ trách kỵ binh

Trong bảy ngày, hai quân đội đối mặt nhau và chỉ tung ra những trận đụng độ nhỏ. Umayyads chờ đợi cho đến khi họ có đầy đủ lực lượng và họ đã có đủ (những toán quân kéo đi để đánh phá những làng mạc xung quanh Tours, nhưng họ vẫn rất lo lắng. Abd-al-Rahman mặc dù là một chỉ huy giỏi, đã để cho Charles mang được đến toàn bộ quân đội với đầy đủ sức mạnh và chọn được vị trí tốt cho trận đánh. Hơn nữa rất khó khăn cho Umayyad để dò xét quy mô của quân đội của đối phương của họ, vì Charles đã sử dụng các lùm cây và cánh rừng để làm cho lực lượng của ông có vẻ như lớn hơn thực tế. Như vậy, khi Abd-al-Rahman hội tụ được tất cả các cánh quân của mình và làm cho ông ta có một đội quân lớn hơn – nhưng việc này cũng làm cho Charles có thời gian để có được nhiều hơn nữa các lính bộ binh kỳ cựu của mình khi họ đến từ các tiền đồn của Vương quốc. Những lính bộ binh là tất cả hy vọng cho chiến thắng mà ông có. Họ dày dạn và chiến đấu cực kỳ ngoan cường, hầu hết trong số họ đã chiến đấu với ông trong nhiều năm, một số đã chiến đấu cùng ông từ năm 717. Hơn nữa, ông cũng được tăng cường bởi những người dân có vũ trang đến từ nhiều nơi, nhưng những người dân này thì như là không giá trị cho chiến đấu ngoại trừ việc đi thu thập thực phẩm và quấy rối người Hồi giáo. Không giống như những người lính bộ binh của ông, những người có cả kinh nghiệm chiến đấu và có kỷ luật nhà binh cao, những người dân vũ trang thì lại chẳng có gì cả và Charles không có ý định đặt niềm tin rằng họ sẽ đứng vững để chống lại các đợt tấn công bằng kỵ binh. (Hầu hết các nhà sử học trong nhiều thế kỷ qua đã tin người Frank bị thua thiệt về số lượng lúc bắt đầu trận chiến với tỷ lệ ít nhất là 2-1.) Charles đã đánh cược rằng cuối cùng Abd-al-Rahman sẽ cảm thấy bắt buộc phải chiến đấu và tiến lên để chiếm Tour. Không ai trong họ muốn tấn công trước (Charles & Abd-al-Rahman), nhưng rồi Abd-al-Rahman cuối cùng cảm thấy rằng cuối cùng mình buộc phải bao vây Tours, điều đó có nghĩa là phải đi qua quân đội của người Frank ở trên ngọn đồi ở phía trước của ông ta. Quyết định chờ đợi của Charles cuối cùng đã được chứng minh là rất quan trọng, vì nó buộc Umayyads phải vội vàng tiến ngược lên phía trên ngọn đồi, bị ngăn trở bởi the grade và các rừng cây, làm mất đi một phần lớn những lợi thế tự nhiên của một đợt tấn công kỵ binh.

Charles đã chuẩn bị cho cuộc đối đầu này từ Toulouse một thập kỷ trước. Ông cũng được lưu ý rằng nếu ông không thành công thì không còn một lực lượng Kitô giáo nào nữa có thể bảo vệ phương Tây Thiên chúa giáo. Nhưng Gibbon tin rằng, cũng như sử gia thời tiền hiện đại và hiện đại cho rằng Charles đã làm những gì tốt nhất khi ở trong một tình huống xấu. Mặc dù ít hơn và phụ thuộc vào bộ binh, lại không có kỵ binh nặng, Charles lại có một lực lượng là những lính bộ binh hạng nặng thiện chiến, những người đặt lòng tin vào ông một cách hoàn toàn. Hơn nữa, như sử gia Davis đã chỉ ra rằng những người lính bộ binh này được vũ trang rất đầy đủ, mỗi người mang đến có lẽ là £ 75 (độ 30 kg ) áo giáp sắt và khiên gỗ cho trận chiến. Trong đội hình phalanx, họ có thể chiến đấu tốt hơn để chống lại những đợt tấn công bằng kỵ binh so với cách nghĩ thông thường, đặc biệt là Charles đã có thể đảm bảo cho họ ở các vùng đất cao và cây cối để hỗ trợ hơn nữa cho họ trong việc chặn đứng những đợt tấn công kiểu như vậy. Charles cũng có những yếu tố bất ngờ khác ngoài việc chọn vị trí cho trận đánh. Đó là yếu tố bất ngờ để làm cho đối thủ của ông là hoàn toàn không biết gì về lực lượng của ông; Martel đã huấn luyện binh sỹ của mình trong một thập kỷ cho trận chiến này và cũng đã nhận biết được điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ. May mắn cho Martel, các lực lượng của Tiểu vương Hồi giáo không biết gì về người Frank.

Người Frank có đủ quần áo để chống lại cái lạnh và có ưu thế địa hình. Người Ả Rập lại không chuẩn bị cho cái lạnh dữ dội của một mùa đông đang tới từ phía bắc châu Âu, mặc dù họ có lều trại mà người Frank lại không có, nhưng họ cũng không muốn tấn công vào một đội quân người Frank mà họ tin rằng có thể có một số lượng rất. Về cơ bản, Umayyads muốn người Frank tiến xuống và tạo ra một thế trận mở, trong khi người Frank lại hình thành lên một đội hình phòng thủ chặt trẽ và muốn người Hồi giáo đi ngược lên trên các ngọn đồi, vào các rừng cây và mất dần đi những lợi thế của lực lượng kỵ binh của họ. Đây là một ván bài chờ đợi mà Charles đã thắng cuộc: cuộc chiến bắt đầu vào ngày thứ bảy, khi mà Abd-al-Rahman không còn muốn trì hoãn cuộc chiến một cách vô thời hạn khi mùa đông đang tới gần.

Tấn công

Abd-al-Rahman tin vào các ưu thế chiến thuật của lực lượng kỵ binh của mình và tung họ ra tấn công rất nhiều lần. Thời gian này, số phân của Umayyads đã được đặt vào kỵ binh của họ, lực lượng được trang bị những ngọn trường thương – lances và kiếm sắc đã mang lại cho họ chiến thắng trong những trận chiến trước đó, là bất hợp lý.

Đây là một trong một số lần mà bộ binh thời trung cổ đứng lên để chống lại các đợt tấn công của kỵ binh, các binh sĩ Frank rất có kỷ luật đã chịu đựng được các cuộc tấn công, mặc dù theo các nguồn tin từ phía Ả Rập, các kỵ binh Ả Rập đã nhiều lần đột nhập vào bên trong đội hình hình vuông của người Frank. “Các kỵ binh Hồi giáo đã di chuyển và tấn công dữ dội vào các tiểu đoàn của người Frank, những người đã chiến đấu chống lại họ một cách dũng cảm và nhiều người của cả đôi bên đã ngã gục rồi chết”

Mặc dù vậy, người Frank đã không bị vỡ trận. Có vẻ là nhiều năm đào tạo mà Charles đã tiến hành bằng quỹ của Giáo Hội đã được thanh toán một cách xứng đáng. Những binh sỹ được đào tạo tốt của ông đã làm được những gì mà không người nào tại thời điểm đó lại nghĩ rằng họ có thể làm được: bộ binh chịu đựng những đợt tấn công của kỵ binh hạng nặng Umayyad. Paul Davis nói rằng cốt lõi của quân đội của Charles là một lực lượng bộ binh chuyên nghiệp có cả tính kỷ luật cao và cũng động lực cao ” họ đã tham gia nhiều chiến dịch với ông trên toàn cõi châu Âu” còn lực lượng dân binh vũ trang thì Charles về cơ bản sử dụng họ vào việc đột kích và quấy rối kẻ thù của mình đồng thời đi thu thập thực phẩm cho lực lượng bộ binh của mình. Các nhà sử gia người Mo – Ả Rập (Mozarabic Chronicle) trong năm 754 có viết:

“Và trong sự dữ dội của cuộc chiến những người đàn ông của miền Bắc có vẻ giống như một biển cả không thể lay chuyển, họ đứng một cách vững trãi, người này đứng sát vào người kia, tạo thành một bức tường thành bằng đá;. Và vung những thanh kiếm lớn của họ rồi chém xuống người Ả Rập. Lập nên một đội hình trước người của họ, người của xứ Austrasia đã làm tất cả. Những cánh tay không biết mệt mỏi của họ đã điều khiển những thanh kiếm đâm vào ngực của kẻ thù”

Điểm nóng chảy của cuộc chiến

Quân của người Umayyad đã đột nhập vào khối hình vuông để cố gắng giết chết Charles, nhưng các binh sỹ đã vây kín xung quanh ông ta và họ không thể bị phá vỡ. Khi trận chiến vẫn đang tiếp diễn – các nhà viết sử người Frank tuyên bố rằng – một toán quân đồn trú đã đánh tới doanh trại của Umayyad và đây chính là lực lượng do thám của người Frank – đe dọa các chiến lợi phẩm mà người Hồi giáo đã lấy từ Bordeaux. Một số các binh sĩ Umayyad cùng một lúc đã từ bỏ cuộc chiến và trở về trại để bảo vệ các chiến lợi phẩm của họ. Theo ghi chép của người Hồi giáo về trận đánh, trong khi cuộc chiến đang diễn ra vào ngày thứ hai (theo ghi chép của người Frank thì trận chiến chỉ kéo dài có một ngày) lực lượng trinh sát của người Franks được Charles tung ra bắt đầu tấn công các trại huấn luyện và cung cấp (bao gồm cả nô lệ và những đồ cướp bóc khác).

Charles được cho là đã gửi các lính trinh sát để gây ra sự hỗn loạn trong trại căn cứ Umayyad và thả tự do cho rất nhiều nô lệ như có thể với hy vọng là sẽ thu hút ra một phần lực lượng của kẻ thù của ông. Tính toán này đã thành công, khi có rất nhiều kỵ binh Umayyad quay trở về trại của họ. Với phần còn lại của quân đội Hồi giáo thì dường như cũng có một cuộc đầy đủ quy mô và ngay sau đó thì nó đã trở thành một cuộc tháo chạy thực sự. Cả các ghi chép của lịch sử phương Tây và Hồi giáo đều đồng ý rằng trong khi cố gắng để ngăn chặn sự vỡ trận, Abd-al-Rahman đã trở thành bị bao vây rồi dẫn tới cái chết của ông, và sau đó quân Umayyad rút lui hoàn toàn về trại của họ. “Tất cả các chiến binh đã chạy trốn trước kẻ thù” một nguồn tài liệu của người Ả Rập đã viết một cách thẳng thắn ” và nhiều người đã chết trong khi bỏ chạy “. Người Frank lại tiếp tục tập hợp thành đội hình phalanx của họ và nghỉ ngơi tại chỗ qua buổi đêm, tin rằng cuộc chiến sẽ tiếp tục vào lúc bình minh sáng hôm sau.

Ngày hôm sau

Ngày hôm sau, khi các lực lượng Umayyad đã không tiếp tục tham gia cuộc chiến, người Frank lo sợ rằng có một cuộc phục kích. Charles lúc đầu tiên rằng các lực lượng Umayyad đã cố gắng để thu hút quân của ông ta xuống đồi và vào trong một thế trận mở. Với chiến thuật này ông biết rằng mình sẽ phải trả bằng một giá rất đắt, Trong thực tế ông đã rèn luyện kỷ luật cho quân đội của mình trong nhiều năm rằng trong mọi trường không được hợp phá vỡ đội hình và tham gia vào một trận chiến mở. (Nếu xem Trận Hasting giữa người Anglô – Saxon và người Normandy thì ta sẽ thấy kết cục của lực lượng bộ binh khi bị thu hút vào thế trận mở của lực lượng kỵ binh thiết giáp hạng nặng) Chỉ sau khi trinh sát kỹ lưỡng các doanh trại của Umayyad bởi người Frank -.các ghi chép lịch sử của cả hai phía đều nói rằng các lực lượng Umayyad đã quay trở lại Xứ Iberia một cách vội vã đếm mức phải vất bỏ lại các lều trại và chỉ mang theo những gì cướp bóc được mà họ có thể – (lính trinh sát người Frank ) đã phát hiện ra rằng những người Hồi giáo đã rút lui trong đêm.

Theo những ghi chép của người đương thời

The Mozarabic Chronicle of 754 Mô tả trận đánh cụ thể lớn hơn bất kỳ một nguồn tài liệu Latin hoặc một nguồn Ả Rập nào khác. Nó nói về trận đánh đó

Trong khi Abd ar-Rahman truy đuổi Odo, ông quyết định phá hủy cướp bóc các cung điện của Tours và đốt cháy nhà thờ của nó. Tại đây ông phải đối mặt với vị Tể tướng của Austrasia tên là Charles, một người đàn ông đã chứng tỏ được rằng mình là một chiến binh trước các người của mình, đã được cầu viện bởi Odo. Sau khi mỗi bên đã đối mặt nhau và tung ra các cuộc tấn công thăm dò trong gần bảy ngày, họ cuối cùng cũng chuẩn bị đội hình chiến đấu và đã đánh nhau quyết liệt. Người miền Bắc vẫn là bất động như một bức tường, xích lại với nhau giống như một dòng sông băng ở các vùng tuyết lạnh. Trong nháy mắt, họ tiêu diệt những người Ả Rập bằng những thanh kiếm của họ. Người dân Austrasia với số lượng đông hơn và được vũ trang một cách khủng khiếp đã giết chết nhà vua – Abd ar-Rahman, khi họ tìm thấy ông và đâm vào ngực của ông. Nhưng đột nhiên, khi nhìn thấy vô số lều của người Ả Rập, người Frank tra thanh kiếm của họ vào vỏ và trì hoãn trận đánh cho đến ngày tiếp theo để màn đêm qua đi. Tiến lên từ doanh trại của mình vào lúc bình minh, những người châu Âu nhìn thấy những chiếc lều và tán của người Ả Rập tất cả vẫn được sắp xếp giống như khi chúng xuất hiện vào ngày hôm trước. Không biết rằng doanh trại đã trống rỗng và nghĩ rằng ở bên trong đó lực lượng Saracen đã sẵn sàng cho trận chiến, họ đã gửi trinh sát đi thăm dò và phát hiện ra rằng toàn bộ quân Ishmaelite đã bở đi. Họ (người Hồi giáo ) đã thực sự bỏ chạy một cách lặng lẽ vào ban đêm trong một đội hình chặt chẽ và quay trở lại đất nước của họ.

– Wolf (trans), Chronicle of 754, P. 145

Một quấn sách được viết trong thời của Charles Martel “ Continuations of Chronicle of Fredegar” có một bản tóm tắt cường điệu trận đánh:

Tể tướng Charles đã mạnh dạn ra lệnh cho đội hình chiến đấu của ông tiến lên chống lại họ [những người Ả Rập] và các chiến binh xông vào tấn công họ. Với sự trợ giúp của Chúa Kitô, ông đã đạp đổ các lều trại của họ và tăng tốc trận chiến để nghiền nát họ thành những nhóm nhỏ và tàn sát họ. Vua Abdirama đã bị giết chết, ông phá hủy [họ] đuổi quân đội ra xa, ông đã chiến đấu và chiến thắng. Như vậy là ông đã chiến thắng trước kẻ thù của mình.

– Fouracre, Continuations of Fredegar, P. 149

Phân tích chiến lược

Abd-al-Rahman là một tướng giỏi nhưng ông đã không làm hai việc mà ông ta nên làm. Gibbon đưa ra luận điểm rằng ông đã không tiến lên ngay lập tức để tấn công Charles Martel, bởi vì có lẽ ông ta đã rất ngạc nhiên khi thấy Charles xuất hiện tại Tours, Charles đã hành quân bằng những con đường nhỏ qua các ngọn núi và tránh những con đường lớn để bất ngờ cho quân Hồi giáo xâm lược và như vậy, Charles đã khôn ngoan chọn trước thời gian và địa điểm mà họ sẽ giao chiếm:

  • Abd-al-Rahman, hoặc giả định rằng người Frank sẽ không đến với sự trợ giúp các đối thủ Aquitanian của họ, hoặc không quan tâm và như vậy ông ta đã không thể đánh giá sức mạnh của họ trước khi cuộc chiến nổ ra.
  • Ông không thể trinh sát và quấy rối quân đội của người Frank nhưng Charles Martel lại làm được.

Có thể tiến hành một trong hai cách, ông ta nên tung lực lượng kỵ binh hạng nhẹ của mình ra và tàn phá vùng đất thấp của xứ Gaul và thu thập lại toàn bộ sức mạnh của mình để tấn công người Frank. Chiến lược này đã có thể vô hiệu hóa tất cả các lợi thế của Charles ở Tours:

  • Những kẻ xâm lược sẽ không phải mang gánh nặng về chiến lợi phẩm, đây là điểm đóng một vai trò rất lớn trong trận đánh.
  • Họ sẽ không bị mất một chiến binh nào trong các trận chiến mà họ chiến đấu trước trận Tours. (Mặc dù họ bị mất tương đối ít người khi chiếmAquitaine, họ có một số thương vong -. Tổn thất đáng phải xảy ra ở Tour)
  • Họ nên bỏ qua đối thủ yếu hơn như Odo, người mà họ có thể xử lý bất kỳ lúc nào họ muốn sau này, trong khi di chuyển cùng một lúc với lực lượng chiến đấu với sức mạnh thực sự ở châu Âu và ít nhất trên một phần chiến trường mà họ muốn.

Trong khi một số nhà sử học quân sự chỉ ra rằng để lại kẻ thù ở phía sau của bạn là điều thường không khôn ngoan, người Mông Cổ đã chứng minh rằng tấn công gián tiếp và bỏ qua những đối thủ yếu hơn để đầu tiên phải tiêu diệt những kẻ thù mạnh nhất là một trong những chiến thuật có hiệu quả một cách ấn tượng trong các cuộc xâm lược. Trong trường hợp này, những kẻ thù còn lại hầu như không còn nguy hiểm, vì vậy mà người Hồi giáo dễ dàng tiêu diệt họ. Đối thủ nguy hiểm thực sự của người Hồi giáo Moor chính là Charles và sự thất bại trong việc tiến hành trinh sát đầy đủ xứ Gaul là điều cực kỳ tai hại.

Theo Creasy, lựa chọn chiến thuật tốt nhất có thể của người Hồi giáo chỉ đơn giản là triệt thoái khỏi trận chiến, rút lui với với những chiến lợi phẩm của họ, chiếm đóng các thành phố đã đánh chiếm được ở miền nam xứ Gaul và quay trở lại giao chiến khi họ có thể buộc Charles phải di chuyển đến một chiến trường thích hợp hơn với họ, một nơi mà họ cóa thể tối đa hóa các lợi thế rất lớn của lực lượng kỵ binh thiết giáp của họ. Nếu là như vậy thì một kết cục hoàn toàn khác đi có thể đã ra, tuy nhiên lực lượng còn lại của người Hồi giáo vẫn còn được kiểm soát. Cả các nhà sử gia phương Tây và Hồi giáo đều đồng ý rằng cuộc chiến là cực kỳ dữ dội và rằng các kỵ binh hạng nặng của Umayyad đã đột nhập được vào đội hình hình vuông nhưng họ cũng đồng ý rằng người Frank trong đội hình vẫn còn kháng cự một cách mạnh mẽ.

Trong trường hợp người Hồi giáo tránh đối đầu trực tiếp mà tản ra đối phá miền Nam xứ Gaul, Charles sẽ không thể đứng yên trong khi vùng lãnh thổ của người Frank bị đe dọa. Ông sẽ phải đối mặt với quân đội Umayyad dù là sớm hay muộn và binh lính của ông sẽ tức giận bởi vùng Aquitaniasự bị tàn phá hoàn toàn và muốn lao lên để chiến đấu. Nhưng Sir Edward Creasy cũng lưu ý rằng,

khi chúng ta nhớ rằng Charles không có một quân đội thường trực (theo đúng nghĩa) và tinh thần độc lập của các chiến binh Frank, những người lính đầy nhiệt huyết đứng dưới lá cờ của ông ta, có vẻ như khả năng cao nhất có thể xảy ra là ông không thể tận dụng quyền lực của mình để áp dụng chính sách thận trọng – chỉ đúng và quan sát những kẻ xâm lược, và làm mòn mỏi sức mạnh của mình bằng cách trì hoãn trận đánh. Vì vậy, cực kỳ đáng sợ và sẽ xảy ra trên một vùng cực kỳ rộng lớn nếu các kỵ binh nhẹ của Saracen tiến hành tàn phá trên toàn bộ xứ Gaul, và không thể để hạn chế sự nhiệt tình hoặc sự phẫn nộ của người Frank. Thậm chí trong trường hợp nếu Charles có thể thuyết phục được những người lính của mình chỉ thận trọng đứng nhìn trong khi người Ả Rập tấn công và phá hủy nhiều và nhiều hơn nữa các thành phố, ông không thể giữ được một quân đội lại nữa khi thời gian thông thường của một cuộc chinh phạt hết hạn.

Về mặt chiến lược, và chiến thuật, Charles có thể đưa ra quyết định tốt nhất mà ông có thể là chờ đợi cho đến khi kẻ thù của mình ít nhất là bắt họ phải tấn công trước và sau đó là tiến quân một cách bí mật (lực lượng trinh sát – quấy rối ) để tấn công họ một cách bất ngờ tại một chiến trường mà ông ta lựa chọn. Có lẽ ông và người của mình đã không nhận ra mức độ nghiêm trọng của cuộc chiến mà họ đã tham gia, như nhà văn Matthew Bennett và đồng tác giả của mình, trongKỹ thuật chiến đấu của thế giới thời Trung Cổ (năm 2005) nói: “chỉ một vài trận đánh được ghi nhớ tới khoảng 1.000 năm sau khi […] nhưng trong trận Tours là một ngoại lệ […] Charles Martel đã đẩy lui một cuộc đột kích của người Hồi giáo mà nếu nó còn được tiếp tục thì rất có có thể nó sẽ chinh phục toàn bộ xứ Gaul “

Ý nghĩa lịch sử của trận Tours

Trận Tour mang lại cho Charles biệt danh “Martel” (“Hammer”), vì cách tàn nhẫn mà ông đã đối xử với kẻ thù của mình. Nhiều sử gia bao gồm cả Sir Edward Creasy, tin rằng nếu ông không thành công vào năm 737 khi đuổi các đội quân Hồi giáo khác ra khỏi các căn cứ của họ ở xưa Gaul sau khi họ một lần nữa cố gắng để có được một chỗ đứng ở châu Âu khi vượt qua Al-Andalus và có lẽ là sẽ tràn vào cả phần còn lại của Tây Âu. Gibbon thể hiện rõ ông tin rằng đội quân của Umayyad sẽ chinh phục từ Rome đến sông Rhine và thậm chí cả nước Anh mặc dù họ có con kênh nước Anh bảo vệ một cách dễ dàng nếu Martel không thắng thế. Creasy nói “chiến thắng vĩ đại của Charles Martel … đã chặn đứng sự chinh phục của người Ả Rập vào Tây Âu, giải cứu cho thế giới Thiên Chúa giáo khỏi Hồi giáo, [và] bảo tồn các di tích cổ và các manh nha của nền văn minh hiện đại” (nên nhớ rằng những kẻ xâm lược Ả Rập-Hồi giáo đã bắt buộc hầu hết dân cư ở Bắc Phi và Trung Đông phải cải đạo, mặc dù đây là một trong những cái nôi của Kitô giáo, và gần như hoàn toàn loại bỏ Zoroastrians ở Ba Tư và phá hủy các thư viện Hoàng gia Zoroastrian và rằng người Hồi giáo xâm lược sau này đã phá hủy hoặc tiêu hủy hàng ngàn nơi thờ cúng và học hành của Phật giáo và Hindu giáo trong tiểu lục địa Ấn Độ). Gibbon tin rằng số phận của Kitô giáo được quyết định trong trận chiến này được lặp lại bởi các sử gia khác bao gồm cả John B. Bury và rất được phổ biến trong hầu hết các nhà viết sử hiện đại. Nó có giảm đôi chút trong phong cách của các nhà viết sử trong thế kỷ XX, khi sử gia như Bernard Lewis kết luận rằng người Ả Rập ít có ý định chiếm miền bắc nước Pháp. Tuy nhiên gần đây nhiều nhà sử học có xu hướng một lần nữa xem trận Tour là một sự kiện rất quan trọng trong lịch sử của châu Âu và Kitô giáo. Tương tự như vậy có người chẳng hạn như William Watson vẫn tin rằng trận chiến này là một trong những thay đổi quan trọng trong lịch sử thế giới,

Các cuộc chiến tranh từ năm 732-> 737

Sau những chiến thắng của ông trong các năm 732 -> 735, Charles đã tiến hành tổ chức lại vương quốc Burgundy, ông thay thế các công tước và bá tước chống đối bằng những người ủng hộ trung thành với mình, do đó ông tăng cường nắm giữ quyền lực. Ông buộc phải xâm lược, do Radbod, công tước của FRISIANS (719-734), con trai của Công tước Aldegisel người đã chấp nhận các truyền giáo Willibrord và Boniface, để loại bỏ tư tưởng ly khai của Frisia trong năm 734. Trong năm đó, ông cho xử tội hàng loạt các công tước, những người đã trục xuất các nhà truyền đạo Kitô giáo, sau trận chiến Boarn và do đó hoàn toàn chinh phục các vùng này (ông cho phá hủy toàn bộ các ngôi đền dị giáo) và sau đó người dân đã được hưởng nền hòa bình trong vòng hai mươi năm.

Những thay đổi trong 735 sau cái chết của Odo Đại đế, người đã bị buộc phải thừa nhận, mặc dù có quyền sở hửu, các quyền chúa tể của Charles trong năm 719. Vì Charles muốn hợp nhât các lãnh địa dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chính mình và ông đã tới đó để gợi ra sự tôn kính đúng đắn của người Aquitainian, nhưng giới quý tộc của xứ này đã tuyên bố con trai của Odo, Hunald của Aquitaine – là công tước sở hữu lãnh địa, người mà Charles đã chấp nhận khi các đội quân Umayyad lại tiến hành xâm chiếm vùng Provence vào năm tới, và Hunald cũng bị buộc phải thừa nhận Charles là chúa tể khi ông này không còn hy vọng để đẩy người Hồi giáo ra khỏi lãnh địa của mình một cách đơn độc.

Người Ả Rập lại tiếp tục tiến hành một cuộc xâm lược bằng đường biển dưới sự chỉ huy của con trai của Abdul Rahman. Họ đổ bộ xuống Narbonne vào năm 736 và di chuyển cùng một lúc để tăng cường cho Arles và tiến vào sâu trong nội địa. Charles tạm thời dừng các cuộc xung đột với Hunold và tấn công các pháo đài của Umayyad ở vùng Provençal. Năm 736, ông chiếm lại các vùng Montfrin và Avignon, Arles và Aix-en-Provence với sự trợ giúp của Liutprand, vua của người Lombard. Các xứ Nîmes, Agde và Béziers đang bị chiếm giữ bởi người Hồi giáo từ năm 725 đã lần lượt rơi vào tay ông và các pháo đài của họ đã bị phá hủy. Ông đã nghiền nát một đội quân của Umayyad ở Arles cũng như lực lượng đang phòng thủ trong thành phố và sau đó chiếm thành phố chính bằng một cuộc tấn công trực diện trực tiếp và cực kỳ tàn bạo và phá hủy nó thành bình địa để ngăn chặn việc sử dụng nó một lần nữa như là một thành trì cho các đội quân Umayyad.

Sau đó ông di chuyển nhanh chóng và đánh bại một đội quân Hồi giáo hùng mạnh ở bên ngoài Narbonnea sông Berre nhưng đã không thành công khi chiếm giữ thành phố. Các sử gia quân sự cho rằng ông có thể chiếm được thành phố này nếu ông sử dụng tất cả các nguồn lực của mình để làm như vậy, nhưng ông tin rằng cuộc sống của mình đã sắp kết thúc và ông có nhiều việc phải làm để chuẩn bị cho con trai của ông lên nắm quyền kiểm soát vương quốc của người Frank. Một cuộc tấn công trực tiếp từ phía trước như đã làm ở Arles, bằng việc sử dụng thang dây và máy công thành cộng với một vài máy bắn đá, chỉ đơn giản là không đủ để chiếm Narbonne nếu không chịu chấp nhận một thiệt hại khủng khiếp về nhân mạng cho người Frank – nòng cốt của quân đội mà Martel cảm thấy ông không thể mất đi. Ông quyết định bỏ đói thành phố vài năm, thời gian cần thiết để ông thiết lập chính quyền cho một đế chế mà người thừa kế của ông sẽ cai trị. Do đó ông rời Narbonne sau khi đã cô lập và bao vây nó và con trai của ông sẽ trở lại và chiếm nó cho người Thiên Chúa giáo.

Đáng chú ý về các chiến dịch này là Charles lần đầu tiên đã trang bị cho các kỵ binh nặng của mình với chiếc đai ngựa để tăng thêm sức mạnh cho các đội quân của mình. Khả năng của ông trong việc phối hợp các lực lượng bộ binh và kỵ binh dày dạn kinh nghiệm là vô song trong thời đại đó và cho phép ông ta đối mặt với quân xâm lược quân có số lượng vượt trội và rồi lại đánh bại họ một lần nữa và lại một lần nữa. Một số nhà sử học tin rằng trận chiến chống lại các lực lượng Hồi giáo chính tại Berre sông, gần Narbonne, đặc biệt là khi chiến thắng đối với Kitô giáo châu Âu sau trận Tour là cực kỳ quan trọng. Trong quấnBarbarians, Marauders, and Infidels, Antonio Santosuosso, Giáo sư danh dự môn lịch sử tại Đại học Western Ontario, và được coi là một chuyên gia về lịch sử trong thời kỳ tranh chấp, đưa ra một ý kiến hiện đại thú vị về Martel, trận Tour và các chiến dịch tiếp theo của ông khi tiếp tục đối đầu với người con trai Rahman tại các năm 736-737. Santosuosso đã trình bày một luận cứ thuyết phục rằng những chiến dịch sau đó để đánh bại đội quân xâm lược Hồi giáo ít nhất cũng quan trọng như trận Tour với ý nghĩa để bảo vệ thế giới Thiên Chúa giáo phương Tây và sự bảo tồn của Western monasticism, Các tu viện lúc đó có các trung tâm giáo dục mà cuối cùng chính nó đã đưa châu Âu ra khỏi thời kỳ Trung cổ. Ông cũng đưa ra một số phản biện có tính thuyết phục sau khi nghiên cứu lịch sử thế giới Ả Rập của thời kỳ này rằng những đội quân xâm lược được tung ra ý kiến bởi Caliph of Umayyad không chỉ để tàn phá cướp bóc Tours mà còn để bắt đầu cuộc chinh phục vào thế giới Thiên chúa giáo châu Âu và đưa nó vào trong tầm kiểm soát của nước hồi giáo ở Bán đảo Iberia.

Hơn nữa, không giống như cha của mình tại Tours, con trai của Rahman vào những năm 736->737 biết rằng người Frank là một sức mạnh thực sự và rằng cá nhân Charles Martel là một yếu tố cần được tính đến. Ông không có ý định cho phép Charles Martel chiếm lấy sự bất ngờ về khoảng thời gian và địa điểm của trận chiến như cha ông làm và thay vào đó tập trung vào chiếm giữ một phần đáng kể các vùng đồng bằng ven biển xung quanh Narbonne trong năm 736 và tiến hành gia cố cứ điểm Arles khi ông tiến sâu vào nội địa. Người Hồi giáo lên kế hoạch từ đó di chuyển từ thành phố này đến thành phố khác, củng cố thành cứ điểm khi họ rời khỏi và nếu Martel muốn ngăn chặn họ chiếm giữ việc một vùng đất lâu dài cho sự mở rộng của một vương quốc Hồi giáo, ông sẽ phải đến chỗ họ và không giống như cha mình – người con của Rahman biết được tại nơi nào sẽ xảy ra trận chiến. Tất cả đã được tiến hành như ông ta đã lên kế hoạch cho đến khi Martel kéo quân đến, và luôn luôn nhanh hơn so với quãng thời gian mà người Moor tin rằng ông cần có để huy động toàn bộ quân đội của mình. Tuy nhiên thật không may cho người con trai của Rahman, ông này lại phạm sai lầm khi đánh giá quá cao thời gian mà Martel cần có để phát triển kỵ binh nặng ngang bằng với lực lượng kỵ binh của người Hồi giáo. Quốc vương Hồi giáo tin rằng ông sẽ phải mất một thế hệ, nhưng Martel đã cố gắng phát triển lực lượng này chỉ trong năm năm ngắn ngủi. Lần này đã chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thế trận hình phalanx của người Frank, thì người Hồi giáo lại hoàn toàn không chuẩn bị để đối mặt với một lực lượng hỗn hợp gồm kỵ binh nặng và bộ binh trong một đội hình phalanx. Do đó, Charles một lần nữa lại giành chiến thắng cho người Kitô giáo và ngăn chặn người Hồi giáo mở rộng ảnh hưởng vào châu Âu cũng như khóa chặt cánh cửa trước khả năng người Hồi giáo có thể làm được điều này. Những thất bại này cộng với những thất bại trước Leo ( Hoàng đế Bizantine ) ở Tiểu Á là những nỗ lực lớn cuối cùng để mở rộng Vương quốc Hồi giáo Umayyad trước sự thất bại của triều đại này tại Trận Zab, và làm tan nát Vương quốc Hồi giáo này mãi mãi, đặc biệt là sự hủy diệt hoàn toàn của quân đội Umayyad ở sông Berre gần Narbonne trong 737.

0