Người Saxon và nước Anh thời Đầu Trung Cổ
biên dịch : hongsonvh Người Saxon là một tập hợp các bộ tộc German cổ, các dân tộc Đức, Hà Lan hoặc Anh ( England) thường được coi là hậu duệ của họ. Họ thường được tìm thấy chủ yếu là ở vùng hạ Saxony, Schleswig-Holstein, Sachsen-Anhalt, Westfalen, Drenthe, Overijssel và nước Anh. Bang ...
biên dịch : hongsonvh
Người Saxon là một tập hợp các bộ tộc German cổ, các dân tộc Đức, Hà Lan hoặc Anh ( England) thường được coi là hậu duệ của họ. Họ thường được tìm thấy chủ yếu là ở vùng hạ Saxony, Schleswig-Holstein, Sachsen-Anhalt, Westfalen, Drenthe, Overijssel và nước Anh. Bang Saxony hiện đại của nước Đức không phải là nơi phát tích của những người Saxon cổ, nó được đặt tên bởi này bởi vì vào thời trung cổ bang này được cai trị bởi triều đại Saxon.
Khu vực định cư của người Saxon được biết đến sớm nhất là Bắc Albingia, Một khu vực gần vùng Holstein ngày nay. Khu vực này nằm chồng lên lãnh thổ của người Angles, một bộ tộc mà họ thường xuyên có các gắn kết chặt chẽ.
Người Saxon tham gia các cuộc di cư của người Germanic sang các vùng đất của Anh ở trong và sau thế kỷ thứ 5. Đến nay người ta vẫn chưa biết được có bao nhiêu người Saxon di cư từ lục địa này sang Britain mặc dù người ta đã ước tính tổng số người thuộc chủng German sang định cư tại Britain chiếm từ 10.000 đến 200.000 người. Từ thế kỷ 18, rất nhiều người Saxon ở lục địa đã định cư tại các phần khác của thế giới, đặc biệt nhiều là ở Bắc Mỹ, Australia, Nam Phi, Nam Brazil và tại các khu vực thuộc Liên Xô cũ, Ở một số nơi các cộng đồng người Saxon vẫn duy trì được một phần của di sản văn hóa và ngôn ngữ của họ, các di sản văn hóa này thường được gọi với cái tên “Đức” và “Hà Lan”.
Bởi vì tuyến đường thương mại quốc tế Hanseatic và các đợt di cư từ thời Trung cổ, người Saxon đã hòa trộn và có ảnh hưởng mạnh mẽ vào các ngôn ngữ và nền văn hóa của vùng Scandinavia và Các dân tộc ở vùng Baltic, và cũng có ít nhiều ảnh hưởng đến dân tộc Slav ở Polabian và ở phía Tây Pomeranian.
Những người di cư Saxon đầu tiến – thời tiền Kitô hóa đã định cư tại một diện tích từ phía Tây bắc với một số phần của miền Nam Bán đảo Jutland, xứ Saxony cổ và một phần nhỏ vùng Đât thấp (các quốc gia Bỉ và Hà Lan). Trong thế kỷ thứ 5, người Saxon là một phần của những đội quân xâm lược tỉnh Romano- British của xứ Britannia. Một trong những bộ tộc khác cũng thuộc chủng người German là người Angles, cũng tham gia di cư cùng với người Saxon và điều này đã dẫn đến sự hình thành của thuật ngữ hiện đại – Anglo-Saxon.
Việc đề cập đầu tiên đến cái tên Saxon mà không gây ra tranh cãi là vào năm 356, khi Julian – Hoàng đế La Mã, đề cập đến họ trong một bài phát biểu như là một đồng minh của Magnentius, một hoàng đế đối thủ đang cạnh tranh ảnh hưởng với ông ta tại xứ Gaul. Tất cả các đề cập về người Saxon ở đầu các thế kỷ thứ 4 và 5 đèu gọi họ cướp biển và lãnh chúa ở xứ Gaul ( thực chất ở xứ Gaul là người Frank – chứ không phải là người Saxon ) và Britaine, hơn là một bộ lạc cụ thể hoặc cư dân của một vùng cụ thể. Để bảo vệ vùng Britaine chống lại kẻ cướp ngườ Saxon, người La Mã đã tạo ra một khu vực phòng thủ quân sự được gọi là Litus Saxonicum (“bờ biển Saxon”) trên cả hai bờ của vùng English Channel ngày nay. Từ năm 441/442, người Saxon lần đầu tiên được đề cập như là cư dân của nước Anh, khi một nhà viết sử người Gaul không rõ tên đã viết: ” Britain đã phải nằm dưới sự cai trị của của người Saxon”.
Những hậu duệ của người Saxon ngày nay ngày nay là dân cư vùng Bắc Đức lần đầu tiên được đề cập đến trong năm 555, khi Theudebald – vua của người Frank chết và người Saxon nắm lấy cơ hội này để tiến hành một cuộc nổi dậy. Cuộc nổi dậy này đã bị đàn áp bởi Chlothar I – người kế vị Theudebald. Một số vua kế vị người Frank của họ đã chiến đấu chống lại người Saxon, một số vị vua khác lại liên minh với họ, vua Chlothar II của người Frank đã giành được một chiến thắng quyết định trước những người Saxon. Những người Thuringian thường xuyên là đồng minh của người Saxon.
Người ta cho rằng từ Saxon có thể có nguồn gốc từ seax, một loại dao của họ. Seax có một ảnh hưởng lâu dài trong cách đặt tên các quận Ess.e.xvà Middles.e.x của người Anh (English), Cả hai quận này đều có hình ba chiếc seax trong biểu tượng nghi lễ của họ.
Người Saxon ở lục địa
Xứ Saxony
Người Saxon sống ở lục địa được biết đến như là người Saxon Cổ và họ dường như đã tự hợp nhất chính mình vào cuối thế kỷ thứ 8, sau cuộc chinh phục của Hoàng đế Charlemagne ở dạng một thực thể chính trị mới xuất hiện được gọi là vùng đất của công tước xứ Sachsen.
Người Saxon tiến hành một cuộc đấu tranh kéo dài chống lại việc bị Kitô hóa và bị đưa vào quỹ đạo kiểm soát của vương quốc của người Frank, Nhưng họ đã bị đánh bại một cách quyết chinh bởi Hoàng Đế Charlemagne trong một chuỗi dài các chiến dịch kéo dài hàng năm trong các cuộc chiến tranh – Saxon (năm772-> 804). Trong suốt thời gian các chiến dịch của Charlemagne ở Hispania (778), người Saxon đã kéo đến thành phố Deutz trên sông Rhine và tiến hành cướp bóc đốt phá dọc theo bờ của con sông này. Sau thi bị thất trận thì các thủ lĩnh Saxon và người dân của họ đã chịu chấp nhận lễ rửa tội và chuyển đổi sang Kito giáo. Cây thiêng liêng hoặc trụ cột của họ, một biểu tượng của Irminsul đã bị phá hủy (đương nhiên là bởi Hoàng Đế Charlemagne).
Dưới sự cai trị của triều đình Carolingian, người Saxon có giảm tình trạng man rợ. Có bằng chứng rằng người Saxons, cũng như người Slav ở các sông nhánh như Abodrite và Wends, thường cung cấp binh lính cho quân đội các chúa dòng Carolingian của họ. Công tước của xứ Sachsen đã trở thành một nhà vua (Henry I the Fowler năm 919) và sau này là vị Hoàng đế đầu tiên (con trai của vua Henry, Otto Đại đế I) của Đức trong Thế kỷ thứ 10, nhưng họ bị mất vị trí này trong năm 1024 và lảnh địa của họ bị chia cắt vào năm 1180 khi Công tước Henry the Lion, cháu trai của Hoàng đế Otto đã từ chối ủng hộ người anh em họ của ông – Hoàng đế Frederick Barbarossa trong cuộc chiến ở xứ Lombardy.
Trong thời Trung Trung cổ, dưới sự cai trị của các hoàng đế Salian ( người Frank) và sau này là dưới sự cai trị của các Hiệp sỹ Teuton ( Teutonic Knight), Người German di cư về phía Đông dọc theo bờ sông Elbe vào khu vực của một bộ tộc Sorb – người Slav ở phía Tây, người Sorb đã dần dần bị Germany hóa. Khu vực này sau đó được đặt lại với cái tên Saxony vì các hoàn cảnh chính trị, mặc dù ban đầu nó được gọi là March of Meissen (vùng đệm ở Meisen – Charlemagne thường đặt tên March cho các vùng biên giới với người man rợ – đây là vùng biên giới với người Tây Slav). Các thủ lĩnh của vùng Meissen mua lại quyền kiểm soát Lãnh thổ công tước của Sachsen trong năm 1423 và cuối cùng đặt tên Saxony cho toàn bộ vương quốc của họ. Kể từ đó một phần của phía Đông Germany được gọi là Saxony ( tiếng Đức là Sachsen), Có một số thông tin nhầm lẫn về về gốc gác của người Saxon, chủ yếu họ cho rằng đó là vùng Hạ Saxony ( tiếng Đức: Niedersachsen) thuộc nước Đức ngày nay.
Người Saxon ở Ý và xứ Gaul
Năm 569, một số người Saxon cùng với người Lombard tiến vào Italia dưới sự lãnh đạo của Alboin và định cư ở đó. Năm 572, họ đã đột kích vào xứ Gaul đến tận Stablo ở gần thành phố Riez. Bị chia rẽ nên họ đã dễ dàng bị đánh bại bởi tướng Mummolus của người Gallo-Roman. Khi người Saxon được tập hợp lại, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết, theo hiệp ước này người Saxon ở Ý được phép định cư với gia đình của họ trong vùng Austrasia. Thu thập lại các gia đình Saxon và đồ đạc của họ ở Ý, họ lại trở về xứ Gaul trong hai nhóm ở các măn 573. Một nhóm tiến qua Nice và một nhóm khác đi qua Embrun, họ tập hợp lại và tiến đến Avignon – nơi mà họ đã tiến hành cướp bóc và do đó họ đã bị chặn lại khi đang vượt qua Rhone bởi Mummolus. Họ bị buộc phải bồi thường cho những gì họ đã cướp phá trước khi họ được phép đi vào Austrasia.
Một số người Saxon đã định cư ở xứ Gaul (Ví dụ: như ở Vron-Ponthieu, Sassetot-le-Mauconduit, Flander và Ile d’Aix) tại thời điểm đó. Một vị vua người Saxon tên là Eadwacer đã chinh phục người Anger trong năm 463 và họ chỉ bị trục xuất bởi Childeric I và người Salian Frank – đồng minh của Đế quốc La Mã. Có thể là việc người Saxon tìm cách định cư ở Great Britain chỉ như là một phản ứng lại người Frank mở rông tầm kiểm soát của mình tới miền duyên hải nước Anh ngày nay.
Một số người Saxon laeti (theo nghĩa La Tinh là người man rợ) đã định cư tại Bayeux – người Saxon Baiocassen – Kể từ thời Notitia Dignitatum. Những người Saxon này trở thành chư hầu của vua Clovis I vào cuối thế kỷ thứ năm. Người Saxon ở vùng Bayeux có một quân đội thường trực và thường được gọi đến để phục vụ cùng với các lính nghĩa vụ trong các chiến dich quân sự của các chúa tể dòng Merovingian trong khu vực của họ. Họ đã chiến đấu không có hiệu quả khi chống lại người Waroch (một tộc người Breton cai trị xứ Vannetais nay là vùng Brittani của Pháp ) trong năm 579. Năm 589, người Saxon lại để tóc của họ theo kiểu Breton theo mệnh lệnh của Fredegund (một hậu duệ của giòng Merovingian vua của vương quốc Frank) và chiến đấu như là đồng minh của họ để chống lại Guntram ( vua của xứ Burgundy). Bắt đầu từ năm 626, người Saxon ở Bessin ( địa danh cổ của xứ Normandy) được sử dụng bởi vua Dagobert I trong các chiến dịch chống lại xứ Basque. Một trong những thủ lĩnh người Saxon – Aeghyna – thậm chí còn lập được một lãnh địa nam tước trong khu vực Vasconia.
Người Saxon tại Anh
( tên gọi Great Britain đúng ra không để chỉ nước Anh ngày nay mà đó là bốn vùng có đông người Britain sinh sống, đó là Ailen, Scotlen, xứ Wales và tỉnh Britania của nước Pháp, người Anglo-Saxon không sống ở các vùng này -> làm sao lại gọi Great Britain là nước Anh được nhỉ?.)
Nếu người Anh tự cho mình là người Anglo- Saxon thì cũng hơi nực cười vì thực chất người Anglo-Saxon là người Đức di cư và người Anglo-Saxon bị người Normand đánh bại trong trận Hasting và người Normand đã tước bỏ mọi quyền lợi kinh tế – chính trị của người Anglo-Saxon tại Anh và bắt họ làm trâu làm ngựa -> người Anh tự hào là dòng dõi Anglê cũng hơi có phần thấy buồn.
Người Anh ban đầu lại không thích thú với sự cai trị của người Normand lắm vì thực chất họ là người Pháp, William the Conqueror là quận công xứ Normandy và các vua dòng Plantagenet của Anh lại gốc gác từ xứ Anju thuộc nước Pháp và họ trị vì nước Anh đến hết thế kỷ 15. Sau đó là dòng Tudor có tí rễ má với nhà Plantagenet rồi lại nhà Steward từ Scotland lên làm vua, sau đó nữa là nhà Orange của Hà Lan… còn vua Anh bây giờ là nhà Windsor – gốc Đức thì phải.
Tóm lại cứ bỏ một số người Britain, người Anglo-Saxon, người Norman, người Scotland, người Hà Lan… chung vào một cái rọ rồi lắc lắc và đổ ra một thứ người ta gọi là người Anh, nước Anh – United Condom he he. Có lẽ có một cái giỏi của người Anh là ai lên làm vua cũng được còn chúng ta vẫn cứ là người Anglo-Saxon )
Quá trinh xâm nhập vào vùng Đảo Anh quốc của người Saxon
Đến đây ta có thể thấy cục diện nước Anh là như sau, người Breton, Celtic bị Saxon dồn đến vùng phia Tây của nước Anh bây giờ là xứ Wales. Người Pict, Breton, Celtic … lại bị dồn tiếp về phía Bắc và thành lập ra Vương quốc Scotland, một số rất lớn người Breton chuyển sang sinh sống ở Ireland và vùng Brittani thuộc nước Pháp. Người Saxon chiếm các vùng Trung, Nam, Đông và một phần phía Tây nước Anh ngày nay và đến đây ta có thể gọi họ – người Anglô – Saxon là người Anh, nhưng thảm họa vẫn chưa hết – đó chính là người Viking.
65-867 ‘Đại quân’ của người Bắc Âu (Viking) mở các cuộc tấn công trên khắp nước Anh và chiếm thành phố York.
870 Người phương Bắc (Viking) chiếm thành phố Dumbarton thủ phủ của vùng Strathclyde ( của người Breton).
871 Vua Alfred của xứ Wess.e.x (người Saxon) chặn đứng bước tiến của người Bắc Âu ở trận Ashdown.
875-900 Người Bắc Âu định cư ở vùng Galloway.
876 Người Bắc Âu bắt đầu định cư ở nước Anh.
876-879 Người Bắc Âu ép vua Alfred của xứ Wess.e.x phải rút lui đến vùng đầm lầy Athelney.
879 Xứ Wess.e.x đánh bại người Bắc Âu trong trận East Anglia sau trận này và một loạt các trận thắng khác trước người Viking vua Alfred của xứ Wess.e.x được phong danh hiệu Đại đế. Người Viking bị đánh bại chạy sang ăn cướp ở vùng biển nước Pháp và làm cho người Pháp đau đầu như trong trận vây thành Paris ở phần trước.
910-920 Vương quốc Northumbria (người Saxon) bị mất các xứ Carlisle và Bắc Cumbria vào tay người Strathclyde ( người Scotland).
911 Các quận London và Home phía Bắc sông Thames bị sáp nhập vào Wess.e.x (nội bộ người Saxon ).
912-917 Vùng định cư của người Bắc Âu (Viking) ở Đông Anglia bị tái chinh phục bởi Wess.e.x (Saxon).
917-918 Vùng định cư của người Vikinh Đan Mạch ở Mercia bị tái chiếm bởi xứ Wess.e.x (Saxon).
919 Vùng Mercia ( của người Anh) cũng bị sáp nhập vào xứ Wess.e.x
919-927 Vương quốc York của người Bắc Âu bị chiếm bởi xứ Wes.e.x
920 Vua Edward của xứ Wess.e.x được công nhận là Thượng hoàng (Seniol king) tại Anh.
937 Xứ Wess.e.x đánh bại Đại liên minh của người Celtic-Băc Âu tại trận Brunaburgh.
956 Xứ Strathclyde bị mất vùng Menteith và Lennof vào tay vương quốc Alban (nội chiến của người Scotland).
959 Vua Edgar của xứ Wess.e.x thống nhất của nước Anh.
962 Xứ Northumbria (Saxon) bị mất vùng Edinburgh và Midlothian vào tay Alban (Scotland).
973 Xứ Northumbriaphải nhượng lại quyền thống trị vùng Lothian và vùng ‘biên giới’ cho vương quốc Alban.
1006 Vương quốc Alban lại bị đánh bại bởi Northumbria.
1014 Liên quân Celtic-Ailen đánh bại người Bắc Âu (Viking) tại Ailen trong trận Clontarf.
1015 Vùng Strathclyde tạm thời bị sát nhập vào vương quốc Alban
1016 Vua Knut Đại Đế của Đan Mạch sát nhập nước Anh vào Đế chế thống nhất – Đan Mạch và Na Uy– của ông ta.
1018 Vương quốc Alban ( Scotland) lại tiếp tục đánh bại xứ Northumbria (của người Saxon) tại trận Carham và chiếm vùng Lothian cùng vùng Biên giới.
1034 Xứ Strathclyde cuối cùng bị sát nhập hoàn toàn vào vương quốc Alban (chuyện nội bộ của người Scotland),
1038 Xứ Galloway cũng bị sáp nhập vào vương quốc Alban (và kết quả là tạo ra vương quốc Scotland thống nhất)
1062-1063 Quận công Harold của xứ Wess.e.x đánh bại vua Gruifyddcủa xứ Wales.
1066 Người Anglo-Saxon dưới sự chỉ huy của vua Harold (Quận công của xứ Wess.e.x được đề cử làm vua Anh)đánh bại người Bắc Âu – Viking tại trậnStamford Bridge. Người Norman dưới sự chỉ huy của Quận công William the conqueror đánh bại quân đội của người Anglo-Saxon và giết chết vua Harold tại trận Hasting rồi sau đó chinh phục toàn bộ nước Anh– quyền thống trị của người Saxon ở nước Anh đến đây là chấm hết.
cuộc xâm lược của người Saxon vào vùng Đảo Anh ( British Island)
Nước Anh ( British) đã bị Julius Caesar chinh phục trong năm 55Trước Công Nguyên bởi vì những người Celt ở Anh ủng hộ của người Celt ở xứ Gaul, nhưng phía bắc của nước Anh chưa bao giờ được bình yên. Những chống đối lớn nhất đến từ Caledonia (Scotland),Ireland và xứ Wales, người dân ở những nơi nàyluôn luôn chống lại các quân đoàn La Mã một cách thành công. Người La Mã đã tạo lậpmột nền văn hóa Romano- British, nhưng ở miền Nam đặc biệt là ở tỉnh Kentium (ngày nay là hạt Kent) mà họ chiếm đóng, hệ thống phòng thủ bên ngoài của người La Tinh là tương đối yếu. Trong thế kỷ thứ 4 ngườiAngle, ngườiSaxonvà Jute từ Đan Mạch và miền Bắc nước Đức đã xuống tàu của họ và các bờ biển của nước Anh (British )trong khoảng một thế kỷ.Chính quyền La Mãphải bổ nhiệm một sĩ quan quân đội đặc biệt, phụ trách bờ Saxon, để đối phó với họ. Các pháo đài được xây dựng dọc theo bờ biển phía đông và quân độiđược gửi đến từ các bộ phận khác nhau của đế quốc để nắm giữ các pháo đài này.
Khoảng năm 410 AD, người Visigoth tiến đến Roma – Thành phố Vĩnh Cửu, tất cả các đạo quân của La Mã đã bị thu hồi một cách vĩnh viễntừ nước Anh(British). Cuộc rút lui của người La Mã – mà Hoàng Đế La Mã Honorius cho là một cuộc rút quân tạm thời – đã làm cho nước Anh ( British) trở nên ở một vị trí khá dễ bị tổn thương. Khi mà các đợt tấn công chết chóc của người Anglo-Saxon-Jute ngày càng tăng lên, người Romano-British gửi lời kêu gọi tới Rome đểxin được giúp đỡchống lại quân kẻ cướp, nhưng không có câu trả lời vì Rome đã bị sụp đổ trước quân xâm lược người Germanic. Vì vậy lịch sử của quần đảo British thời hậu La Mã có những khác biệt cực kỳ quan trọng với các tỉnh cũ của La Mã tại lục địa.
Khoảng năm 450, tất cả các liên hệ với Roma đã bị cắt đứt vàcác cuộc tấn công đã trở thành một cuộc di cư của người Germanic như các bộ tộc người Angle và Saxon vẫn tiếp tục – họ khôngchỉ còn là những kẻ cướp bóc nữa – nhưng mà là những người định cư (chuyển từ cướp của sang cướp đất). Trong số đó có một số người FRISIANS từ phía bắc Hà Lan, họ sử dụng ngôn ngữ Frisian – đây là loại ngôn ngữ có nhiều điểm giống ngôn ngữ của người Hà Lan và người Anh ngày này.
Khi những kẻ xâm lược mở rộng cuộc chinh phục của họ, các cuộc xung độtvới những người Celtic và Romano-Britisth ở địa phương trở nên là điều không thể tránh khỏi.Người British đã chiến đấu dữ dội với những người định cư Saxon như họcó thể, nhưng dần dần họ bị buộc phải rút lui về phía Tâyđến các vùng an toàn ở đảo Ireland và đến được nơi ẩn náu trong vùng núi nonmà người Saxon gọi là Weallas(Xứ Wales – có nghĩa là đất của người nước ngoài).
Thời nay còn lại rất ít những thông tin về những cuộc chiến khốc liệt và kéo dài ở thời này. Có khả năng là trong nhiều thế kỷdưới sự chiếm đóng của La Mã, người Breton và người Celticđã học được nghệ thuật chiến đấu và phương pháp sử dụng các loại vũ khí của kẻ chinh phục họ (người La Mã ) cũng như việcngười British bản địa đã được tuyển dụng trong các quân đoàn La Mã ở địa phương. Do đó, chúng ta có thể giả định một cách chắc chắn rằng ngườiRomano-British chiến đấu chống lại người Anglo-Saxon với rất nhiều loại vũ khí của người Celtic cũng như là của người La Mã như đoản kiếm, giáo và lao hoặc pilum và một số lượng binh giáp nào đó kiểu La Mã gồm cả tấm giáp che ngực ( hộ tâm) và lá chắn.
Khoảng thời giankhi mà người Anglo-Saxon xâm chiếm quần đảo British là một khoảng thời gian tương đối thiếu thông tin nên nó đã tạo nên một nền tảng lịch sử cho những câu chuyện thần thoại. Những câu chuyện về một trong những thủ lĩnh của người British trong giai đoạn này là huyền thoại về vua Arthur, ông có lực lượng nhỏ các hiệp sĩ được trang bị đầy đủ và rất có kỷ luật, họ đã gây ra một số thất bại trongbước tiến quân của người Anglo-Saxons. Vua Arthur và các Hiệp sĩ bàn tròn của ông được đặt lên một vị trí tối cao trong các câu chuyện thần thoại của thời Trung cổ, từ một khởi đầu rất tầm thường và mù mịt Arthur đã trở thành một thủ lĩnh của người Breton – dux bellorum (một nhà lãnh đạo chiến tranh) trongThế kỷ thứ 6 AD, người chống lại những kẻ xâm lược người Saxon trong mười hai trận đánh lớn…
Sau cái chết của vua Arthur – có lẽ là khoảng năm 540 AD người Saxon đã chiến thắngvà thống trị vùng đất mà bây giờ là nước Anh và đuổi đi những ngườidân sống lâu nhất ở đó. Vào đầucủa thế kỷ thứ 7, người Celt và người Bretonchỉ còn giữ được rìa phía Tây của vùng Cornwall, xứ Wale và vùngCumberlandtrong khi những người Celt khác lại định cư tại vùng Armorica (vùng Bretagne hay còn gọi là Brittany của Pháp). Người Angle-Saxon đã xóa đihầu như tất cả các dấu vết của nền văn minh Roman.Họ đã thành lập một số vương quốc của người Saxon, một số cái tên của các vương quốc này vẫn còn tồn tại trong tên địa danh của các quận hoặc khu vực ở thời hiện đại như: Essex, Sussex, Wessex, Middlesex và East Anglia…
Một trong những đổi mới đáng kể của người Anglo-Saxon so với người Briton là tổ chức binh chế của quân đội của họ. Gone là những ngày tập trung của một quân đội chuyên nghiệp. Các dân định cư Anglo-Saxon đầu tiên đã tham giamột lực lượng vũ trang được gọi là fyrd.Fyrd lại được chia thành hai loại.The Great Fyrd (Fyrd bự ) không có gì để nghi vấn đây chính là lực lượng lính nghĩa vụ chủ yếu và thành phần chính là bộ binh với chỉ một số nhà giàu có đủ tiềnđể sắm một con ngựa. Select Fyrd (Fyrd chọn lọc) các chiến binh được chọn ra từ tầng lớp thegns – các chủ đất – những người sở hữu nhiều đất đai đến mức có một vai vế nào đó trong xã hội.
Nói chung có thể chấp nhận được rằng người Anglo-Saxon chủ yếu chiến đấu như lực lượng bộ binh và họ chỉ sử dụng ngựa để vận chuyển đến trận chiến, nhưnghọ lại không biết nghệ thuật chiến đấu trên lưng ngựa, thậm chí cả những người giàu có.Có những ghi chép rằng ngựa chỉ được dùng làm phương tiện liên lạc để ra chuyển các mệnh lệnh …
Sơ lược về vũ khí và trang bị cá nhân của người Anglo-Saxon
Các chiến binh được dự kiến sử dụngvũ khí thay mặt cho các thủ lĩnh của họ.Có vẻ như là ” Một trong những binh khí được sử dụng nhiều nhất của người Saxontrong các trận đánh là ngọn giáo, và loại này lại được chia làm hai loại: Trường thương dài chín hoặc mười foot -được sử dụng bởikỵ binh và thường được gắn với một thanh ngang bảo vệ. Loại giáo ngắn hơn nằm ở giữa dạng thương và lao ( lance and javelin ) có thể dùng để phóng.
Kiếm – thường dài ba foot – đây là một loại vũ khí cơ bản của kỵ binh dành riêng cho quý tộc. Những thanh kiếm được tìm thấy đầu tiên ở Anh không có quillons,thanh chắn bảo vệ tay mà chỉ gồm phần cán để cầm và phần lưỡi kiếm. Loại được tìm thấy muộn hơn dài khoảng 30inch vàcó phần cán rộng khoảng 2 inch, loại kiếm này có phần thân thẳng điểm đầu mũi kiếm tròn và có hai lưỡi kiếm sắc. Bao kiếm được làm bằng gỗ bọc da. Một số bao kiếmđược trang trí bằng những họa tiếtđược vẽ hoặc trạm khắc và chúng được làm từ một chiếc khung bằng đồng hoặc những kim loại đắt tiền. Ở thời sau này khi người Saxon bắt đầu xâm chiếm nước Anh thì phần thanh chắn ngangở chuôi kiếm đã được thêm vào để bảo vệ bàn tay cầm kiếm, và thanh kiếm cũng trở nên sắc nhọn hơn, phần cán kiếm cũng được trang trí bằng các họa tiết. Một sốchiến binh fyrd giàu cóthậm trí còn dát vàng hoặc bạc lên chiếc chuôi thanh kiếm của mình, thậm trí họ còn nạm vào đó một viên đá quý.
Rìu chiến – là một vũ khí đặc trưng của các quốc gia phươngBắc. Người Anglo-Saxon dường như đã sử dụng ba loại: loại lưỡi hẹp, loại lưỡi rộng và loại búa lưỡi đôi kiểu Đan Mạch hoặc bipennis. Dao găm vàdao cũng được sử dụng một cách phổ biến. Chúng có nhiềukích cỡ, những chiếc cỡ lớn được sử dụng như những vũ khí thực sự;những loại cỡ nhỏ được sử dụng vào những mục đích khác.Mace, quẩy đá và cung tên cũng được sử dụng bởi bởi cá thể những ngườiAnglo Saxon nhưng không được phổ biến một cách rộng rãi vì họ không ưa thích chúng lắm.
Người ta có rất ít các thông tin về loại vũ khí phòng vệ của người Saxon như mũ sắt, khiên và áo giáp.Có lẽ về cơ bản ban đầu những Saxon thấy rằng các loại này là không thật cần thiết và chỉ dành riêng cho những người giàu có hoặc thủ lãnh của các fyrd. Tuy nhiên, khi các vương quốc của người Anglo-Saxon trở nên thịnh vượng thì các loại vũ khí phòng cũng dần dần được bổ sung. Loại mũ sắt phổ biến của người Saxonthường ở dạng Phrygian,nhưng một số bằng chứngcho thấy rằng họ cũng có loại mũ sắt hình bán cầu và và mũ sắt hình nón. Những chiếc mũ này được làm từ những chiếc khuôn bằng lá đồng hoặc sắt được gắn chặt với nhau trong đó những lá kim loại chủ chốt sẽ được uấn vòng quang cho đến đỉnh đầu. Đôi khi lá thép ở phía trước được kéo dài để tạo thành một miếng giáp bảo vệ mặt, được gọi là nasal (cái mũi) và nó đã trở thành rất phổ biến vào cuối thế kỷ thứ 10. Phía bên trong chiếc mũ sắt được cố định một lớp lót bằngda, đôi khi lớp lót này dài chum xuống cả gáy và có những họa tiết trang trí. Lá chắn của người Anglo-Saxon có thể được làm bằng gỗ chanh được bọc bằng da và chúng thường có hình tròn, nhưng thỉnh thoảng cũng có hình bầu dụcvà lồi về phía trước. Đặc điểm phân biệt của loại vũ khí phòng thủ này là chúng có một chiếc núm khiên bằng sắt rỗng ở giữa. Nó có đường kính khoảng sáu inche, chiếc núm khiên được gắn chặt trên bề mặt của chiếc khiên và tạo nên một chiếc tay cầm cho cánh tay trái. Vì chiếc núm của nó thường được đóng một chiếc đinh nhọ nên chiếc lá chắn cũng được sử dụng như làmột loại vũ khí tấn công. Những chiếc lá chắn có thể được gia cố bởi các lá kim loại bằng sắt hoặc bằng đồng đượctỏa ra từ chiếc núm khiên đến mép của chiếc lá chắn.
Thật khó để có những ghi chép chính thức về các loại áo giáp. Loại áo giáp thông dụng của người Anglo-Saxon có thể là byrnie hoặc battle sark, một loại áo khoác được làm từ da hoặc áo có các lớp lót. Ngoài ra những người giàu nhất có nhất trong số các chiến binh thường có một chiếc áo dài là sản phẩm từ dệt may hoặc da thuộc với những chiếc vòng sắt hoặc da được cắt giống như những chiếc vảy cá, được xếp chồng lên nhau thành hình vuông hoặc hình chữ nhật. Chân của các chiến binh người Saxon thường được để trần hoặc được bảo vệ bởi những dây xà cạp bằng da.Vào cuối thời kỳ của người Saxon và vũ khíáo giápcủa họ đã trở nên gần như giống hệt với những đồ trang bịcủa những chiến binh ở lục địa châu Âu, do có việc qua lại, trao đổi không ngừng trong thời kỳ trị vì của vua Edward the Confessor, đến thời gian cuộc chinh phục của người Norman trong năm 1066, sự khác biệttrong đồ trang bị đơn giản chỉ ở những chi tiếtnhỏ.
Các lãnh chúa địa phương Anglo-Saxon hồi đầu chỉ hơn chức danh aldermen (thủ lĩnh bộ tộc) có chút ít. Quyền lực của họ được dựa một phần vào quan hệ họ hàng nhưng phần nhiều là dựa vào danh tiếng về khả năng điều khiển chiến trận cũng như là sức mạnh uân sự của họ. Dần dần một hệ thống phân loại đãđượcphát triển và tạo ra những vị vua nhỏ, Earls (các lãnh chúa), HouseCarles (các binh sĩ), và người làm ruộng cũng như một tầng lớp mới, đó là các giáo sĩ.
Alfred Đại Đế ( Vị vua vĩ đại của người Anglo – Saxon)
Alfred Đại đế (năm 849 – > 26 tháng 10 năm 899) là vua của xứ Wess.e.x từ năm 871-> 899. Vua Alfred được tưởng nhớ vì đã có công chiến đấu chống lại người Viking để bảo vệ vương quốc Anglo-Saxon ở miền nam nước Anh và ông trở thành quốc vương duy nhất của nước Anh được phong tặng danh hiệu “Đại đế”. Alfred là vị vua đầu tiêncủa người Saxon ở phía Tây tự phong danh hiệu ” Vua của người Anglo-Saxon “. Các thông tin chi tiết về cuộc đời của ông được mô tả trong tác phẩm của vị học giả người xứ Wales và đức giám mục Asser. Vua Alfred là một người đàn rất hiếu học và luôn khuyến khích phát triển giáo dục và chú tâm cải thiện hệ thống pháp luật và cơ cấu hệ thống quân sự trong vương quốc của mình Ông được xem là một vị thánh bởi một số người Công giáo, nhưng ông chưa bao giờ được chính thức phong thánh.Cộng đồng Anh giáo tôn kính ông như một vị anh hùng của Giáo Hội Kitô giáo, trong một ngày lễ của ngày 26 tháng 10, và ông thường được mô tả trong các tấm kính màu trong các nhà thờ xứ của Giáo hội Anh giáo.
Tuổi thơ
Vua Alfred được sinh ra tại làng Wanating, bây giờ là vùng Wantage thuộc Oxfordshire. Ông là con trai út của vua Æthelwulf của xứ Wess.e.x với người vợ đầu tiên – bà Osburga. Trong năm 868 (năm 19 tuổi) vua Alfred kết hôn với công nương Ealhswith – con gái của Æthelred Mucil.
Lúc mới được tuổi năm tuổi, người ta cho rằng Alfred đã được gửi đến Rome nơi mà theo các sử gia người Anglo-Saxon, ông đã được công nhận bởi Giáo hoàng Leo IV – người “xức dầu tấn phong cho ông làm vua”. Nhà văn Victoria giải thích điều này như một bước cuối cùng chuẩn bị cho ông lên ngôi vua của xứ Wess.e.x. Tuy nhiên, việc lên ngôi của ông đã không thể được thực hiện vào thời điểm đó, vì vua Alfred có đến ba người anh trai cao tuổi hơn. Một lá thư tay của Giáo Hoàng Leo IV chỉ ra rằng vua Alfred lúc đó chỉ nhận được một lễ tấn phong chức “consul”, có một sự hiểu lầm về chức danh này, dù là cố ý hay vô ý nó đã tạo ra những nhầm lẫn về sau này. Alfred cũng được đi kèm với cha mình trong một cuộc hành hương đến Rome nơi ông đã sống một thời gian tại một cung điện thuộc sở hữu của vua Charles Hói, vua của người Frank, khoảng từ 854-> 855. Khi trở về từ Rome trong năm 856, vua Æthelwulf bị lật đổ bởi con trai ông – Æthelbald. Với nguy cơ nội chiến đã lờ mờ hiện ra, những người có quyền cao chức trọng của vương quốc đã họp mặt tại một hội đồng để đưa ra một thỏa hiệp. Æthelbald sẽ giữ lại các quận ở phía tây (tức là vùng đất truyền thống của xứ Wess.e.x), và vua Æthelwulf sẽ cai trị ở phía đông. Vua Æthelwulf chết trong năm 858, xứ Wess.e.x đã liên tiếp được cai trị bởi ba người anh trai của vua Alfred theo thừa kế.
Đức Giám mục Asser đã kể những câu chuyện về tuổi thơ của Alfred khi ông giành được một giải thưởng từ một số lượng lớn các bài thơ bằng tiếng Anh. Câu chuyện này có thể là có thật, hoặc nó có thể là một huyền thoại dùng để minh họa cho tình sự hiếu học của Alfred. Truyền thuyết cũng kể rằng thời trẻ Alfred dành nhiều thời gian tại Ai-len tìm thuốc chữa bệnh. Alfred đã gặp khó khăn với vấn đề sức khỏe trong suốt cuộc đời của ông. Người ta cho rằng ông có thể đã bị bệnh Crohn. Tượng của Alfred ở Winchester và Wantage miêu tả ông như là một chiến binh vĩ đại. Có bằng chứng cho thấy ông không có một thể chất mạnh mẽ, và mặc dù không thiếu sự can đảm, ông đã được chú ý nhiều bởi trí tuệ của mình hơn là một nhân vật hiếu chiến.
Dưới sự cai quản của vua anh – Æthelred
Trong suốt các triều đại ngắn ngủi của hai trong số ba người anh lớn tuổi của ông, Æthelbald và Æthelbert của xứ Wess.e.x, Alfred không được đề cập đến nhiều. Tuy nhiên, cuộc sống công cộng của ông đã bắt đầu khi anh trai thứ ba của ông lên nắm quyền, vua Æthelred của xứ Wess.e.x trong năm 866. Đó là thời gian mà Đức Giám mục Asser trao cho ông danh hiệu “secundarius” duy nhất, đây có thể chỉ và một chức vụ tương tự như là chức vụ – tanist – của người Celtic, một người thừa kế được công nhận để có mối liên kết chặt chẽ với vị vua đang trị vì. Có thể là sự sắp xếp này đã từng bị gạt đi bởi vua cha của Alfred, hoặc bởi các thành viên của Witan (một tổ chức được tập hợp từ những người được cho là thông thái nhất để làm cố vấn cho nhà vua của người Anglo-Saxon từ TK thứ7 -11), để ngăn chặn việc các tranh chấp về thừa kế mà có thể làm cho Æthelred (anh trai của Alffred ) lao vào một trận nội chiến. Việc bố trí một người có quyền kế vị là một hoàng tử làm một chỉ huy quân đội là điều thường gặp trong các bộ tộc Germanic cũng như người Thụy Điển và người Frank, những người mà người Anglo-Saxon có những mối liên quan chặt chẽ.
Năm 868, Alfred được ghi nhận là đã chiến đấu bên cạnh vua Æthelred trong một nỗ lực không thành công để đẩy cuộc xâm-lược của người Đan Mạch ra khỏi Vương quốc Mercia ở giáp ranh (đây cũng là một vương quốc của người Anglo-Saxon). Trong xấp xỉ hai năm sau đó xứ Wess.e.x vẫn được yên lành bởi vì Alfred đã trả tiền cho Viking để đất nước của mình được yên ổn. Tuy nhiên vào cuối năm 870 người Đan Mạch lại kéo đến quê hương ông. Các năm tiếp theo sau đó được gọi là “những năm chiến trận của Alfred”. Chín trận đánh lớn đã nổ ra với những kết quả hoàn toàn khác nhau, mặc dù địa điểm và ngày nổ ra hai trong số các trận đánh đã không được ghi lại. Tại Berkshire là một trận đánh thắng lợi của Alfred – trận Englefield ngày 31 tháng 12 870. Sau đó là một loạt các thất bại nặng nề tại trận bao vây Reading vào ngày 05 tháng 1 năm 871, bốn ngày sau đó Alfred đã giành một chiến thắng rực rỡ tại trận Ashdown ở vùng Downs Berkshire, cũng có thể là ở gần vùng Compton hoặc Aldworth. Vua Alfred được đặc biệt ghi nhận bởi đã chiến thắng trong trận chiến này. Tuy nhiên, cuối tháng đó vào ngày 22 tháng Giêng, người Anh lại bị đánh bại tại Basing và vào ngày 22 tháng ba tại Trận Merton (có thể là Marden ở Wiltshire hoặc Martin ở Dorset), trong trận đánh này vua Æthelred đã bị giết. Hai trận đánh mà bây giờ người ta không biết rõ điạ danh có thể đã xảy ra ở giữa khoảng thời gian này.
Vị vua thời chiến
Những cuộc chiến ban đầu, bị đánh bại và rút lui
Trong tháng 4 năm 871 sau khi vua Æthelred chết, Alfred được kế thừa và lên ngôi vua của xứ Wess.e.x và phải mang gánh nặng bảo vệ nó, mặc dù thực tế thì vua Æthelred có hai ngườ con trai nhỏ tuổi tên là Æthelhelm và Æthelwold. Việc thừa kế là đúng theo quy định của thỏa thuận mà Æthelred và Alfred đã đồng ý trước đó một năm khi hội quân tại Swinbeorg. Hai anh em đã đồng ý rằng bất cứ người trong số họ sống lâu hơn người kia sẽ thừa kế tài sản mà vua cha Æthelwulf đã di chúc lại cho các con trai của mình. Các con trai của người đã chết sẽ chỉ nhận được tài sản và của cải mà người cha của họ chia cho họ. Những điều trong thỏa thuận không được công bố công khai là người anh-em trai nào còn sống sót sẽ làm vua. Do cuộc xâm lược của Đan Mạch đang nổ ra nên những cháu trai trẻ tuổi của Alfred có lẽ đã không tranh cãi với ông về việc kế vị. tuy nhiên căng thẳng giữa Alfred và cháu trai của ông, sẽ phát sinh sau này trong triều đại của ông.
Trong khi ông đang bận rộn với các nghi lễ để chôn cất cho người anh trai của mình, Người Đan Mạch lại đánh bại người Anh – mà ông vắng mặt – ở một địa điểm mà nay không ai nhớ được tên và sau đó họ lại đánh bại người Anh một lần nữa và lần này có sự hiện diện của ông tại Wilton vào tháng 5. Những thất bại liên tiếp tại Wilton xóa đi mọi hy vọng còn lại của Alfred là đẩy những kẻ xâm lược ra khỏi vương quốc của mình. Thay vào đó ông bị buộc phải đàn phán để “tạo dựng hòa bình” với họ. Các nguồn tài liệu cổ không nói rõ các điều khoản của hòa bình là những gì. Đức cha Asser mang vàng cất dấu ra khỏi đống rơm (để tài trợ cho Alffred – ông này là vua công giáo), và tuyên bố rằng “người ngoại đạo” sẽ đồng ý rút khỏi khu vực và thực hiện đúng theo lời hứa của họ và, thực sự thì quân Viking đã rút khỏi Reading vào mùa thu năm 871 để trú đông ở Mercian London . Mặc dù Asser hoặc các nhà chép sử Anglo-Saxon đã không đề cập, nhưng nhiều khả năng là Alfred đã phải trả tiền mặt để người Viking rút lui, giống như người Mercian đã phải làm trong năm sau đó. Trong những năm tiếp theo người Đan Mạch tiến hành chiếm đóng các vùng khác của nước Anh. Tuy nhiên, trong năm 876 dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh mới của họ – Guthrum – người Đan Mạch lại vượt qua quân đội Anh và tấn công rồi chiếm đóng Wareham ở Dorset. Vua Alfred đã cố gắng phong tỏa họ, nhưng đã không thể chiếm lại Wareham bằng các cuộc tấn công. Thay vào đó ông lại quyết định tiến hành đàm phán hòa bình, việc đàn phán hòa bình có liên quan đến việc trao đổi con tin và cùng lời thề mà người Đan Mạch phải thề dưới một “chiếc nhẫn thiêng – Holly Ring” cùng với việc thề trước thần Thor ( thần của người Bắc Âu). Tuy nhiên người Đan Mạch lại nuốt lời thề của họ và sau khi đã giết sạch tất cả các con tin họ lại kéo đi trong màn đêm để đến thành phố Exeter tại vùng Devon. Ở đó, Alfred lại phải tiến hành vao vây và phong tỏa họ và việc một hạm đội cứu viện của họ đã bị đánh tan bởi một cơn bão, người Đan Mạch buộc phải quỳ gối. Họ rút lui về Mercia nhưng trong tháng 878, họ lại tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ vào Chippenham, một thành lũy ở đó Alfred đã ở lại trong dịp Giáng sinh “, và hầu hết những người ở đó đã bị người Viking giết chết, ngoại trừ vua Alfred và ông ta với một đội quân nhỏ của mình làm một con đường bằng gỗ và rút vào một vùng đầm lầy và sau ngày lễ Phục Sinh, ông đã cho lập một pháo đài tại Athelney trong vùng đầm lầy của xứ Somerset, và từ pháo đài này ông tiếp tục chiến đấu chống lại các kẻ thù của mình “. Từ pháo đài của ông tại Athelney – một hòn đảo trong đầm lầy ở gần phía Bắc Petherton, Alfred đã có thể phát động một phong trào kháng chiến rất có hiệu quả, ông tập hợp các chiến binh từ các vùng Somerset, Wiltshire và Hampshire. Đây là thời điểm tồi tệ nhất trong lịch sử của các vương quốc Anglo-Saxon, tất cả các vương quốc còn lại của họ đã thất thủ trước những người Viking, và chỉ một mình xứ Wess.e.x là vẫn còn đứng vững.
Phản công và chiến thắng
Trong tuần thứ bảy sau ngày lễ Phục Sinh [Ngày 04-Ngày 10 Tháng 5 năm 878], ở gần vùng Whitsuntide, Alfred cưỡi ngựa đến vùng ‘Egbert of Stone’ – phía đông của vùng Selwood, nơi ông hội họp với “tất cả người của vùng Somerset và của Wiltshire và một phần của vùng Hampshire – ở phía bên này của eo biển [có nghĩa là vùng phía tây của Southampton Water] và họ rất mừng khi được nhìn thấy ông “. Cuộc nổi dậy của Alfred từ chiến lũy ở vùng đầm lầy của ông là một phần của một kế hoạch tấn công được lên kế hoạch một cách cẩn thận bao gồm sự nổi dậy của ba fyrd ( ba cánh quân) từ ba quận. Sự kiện này có nghĩa là nhà vua không chỉ có sự trung thành của các quận công, các lãnh chúa hoàng tộc và thậm chí cả các tùy tùng của nhà vua (những người sẽ tham gia tấn công cùng lính nghĩa vụ và sẽ dẫn đầu lực lượng này), nhưng họ vẫn duy trì vị trí của họ ở chính quyền tại các địa phương và sẵn sàng tập hợp theo lời hiệu triệu của Alfred và đến để chuẩn bị chiến đấu. Người của Alfred cũng đề xuất một hệ thống trinh sát và truyền tin tinh xảo. Alfred đã giành được một chiến thắng quyết định trong Trận Ethandun, trận này đã xảy ra ở một địa điểm gần Westbury, Wiltshire. Sau đó ông đuổi theo người Đan Mạch đến tận chiến lũy của họ ở Chippenham và tiến hành vây hãm bỏ đói làm họ phải quy hàng. Một trong những điều kiện đầu hàng là Guthrum (thủ lĩnh của người Viking Đan Mạch) phải chuyển sang Kitô giáo và ba tuần sau đó vua Đan Mạch cùng với vị 29 thủ lĩnh của ông được rửa tội tại lâu đài của Alfred ở Aller gần Athelney và Alfred nhận Guthrum làm người con tinh thần (spiritual son), “buổi lễ làm phép tự nguyện” đã diễn ra với những lễ hội lớn kéo dài tám ngày tại dinh thự hoàng gia ở Wedmore – Somerset, sau đó Guthrum hoàn thành lời hứa của mình và rời Wess.e.x. Ngày nay không có bằng chứng cho thấy Alfred và Guthrum đã thỏa thuận một hiệp ước chính thức tại thời điểm đó, cái gọi là Hiệp ước Wedmore là một sáng tạo của các nhà sử gia hiện đại. Hiệp ước của Alfred và Guthrum bằng tiếng Anh được bảo quản ở trường Corpus Christi College – Cambridge (bản thảo số 383) và một bản dịch tiếng Latinh được gọi là Quadripartitus là những đàm phán sau này, có lẽ là vào năm 879 hoặc 880, khi vua Ceolwulf II của Mercia đã bị lật đổ. Đó là hiệp ước phân chia vương quốc của Mercia. Theo điều kiện của hiệp định này ranh giới giữa vương quốc của Alfred và Guthrum sẽ là sông Thames và sông Lea. Nói cách khác, Alfred đã mở rộng vương quốc của mình cả sang vùng Ceolwulf, bao gồm cả Tây Mercia và Guthrum chiếm phần phía Đông của Mercia và thành một một vương quốc Đông Anglia mở rộng (từđó về sau vùng này được gọi là Danelaw). Hơn thế nữa, theo các điều khoản của hiệp ước, Alfred có quyền kiểm soát thành phố London và các nguồn tài nguyên của nó – ít nhất là trong thời gian trước mắt. Lãnh thổ của vương quốc Ess.e.x (Đông Saxon) bị chiếm giữ bởi vua Tây Saxon kể từ thời của vua Egbert, đã không được làm rõ trong hiệp ước này, vì Alfred có ưu thế quân sự và chính trị nên người ta sẽ rất ngạc nhiên nếu ông chịu thừa nhận bất cứ sự tranh chấp nào về lãnh thổ với người con đỡ đầu mới của mình.
Những năm hòa bình và tái thiết London
Với việc ký kết Hiệp ước giữa Alfred và Guthrum, một sự kiện được tổ chức long trọng đã diễn ra vào khoảng năm 880 khi người của Guthrum bắt đầu đến và định cư tại East Anglia, Guthrum đã được vô hiệu hóa và không còn là một mối đe dọa. Cùng với thỏa thuận này một đội binh người Đan Mạch rời hòn đảo và căng buồn đến Ghent. Tuy nhiên Alffred vẫn còn bị buộc phải đối mặt với một số mối đe dọa từ người Đan Mạch. Một năm sau đó khoảng năm 881 Alfred đã có một trận hải chiến nhỏ trên biển với bốn chiếc tàu “đi trên đại dương” của người Đan Mạch. Hai trong số những chiếc tàu này bị phá hủy và những chiếc khác phài quy hàng lực lượng của Alfred. Đây là những cuộc đụng độ nhỏ tương tự như những toán cướp độc lập người Viking cướp như trong một thời gian dài nhiều thập kỷ mà họ phải chịu đựng.
Sau khi ký kết hiệp ước với Guthrum, Alfred không phải tham gia bất kỳ một cuộc xung đột quy mô lớn nào trong một khoảng thời gian. Mặc dù đây là khoảng thời gian tương đối hòa bình nhà vua vẫn phải đối phó với một số cuộc tấn công và xâm nhập của người Đan Mạch. Trong số đó có một cuộc đột kích xảy ra tại Kent, một liên minh của các tiểu quốc ở phía Đông Nam nước Anh trong năm 885, đây có thể coi là cuộc đột kích lớn nhất kể từ khi kết thúc những trận chiến với Guthrum. Các ghi chép của Asser cho thấy địa điểm của các các cuộc tấn công ăn cướp của người Đan Mạch là thành phố Rochester của người Saxon, thậm chí họ còn xây một pháo đài tạm thời để bao vây thành phố. Để đối phó với đợt xâm nhập này Alfred đã dẫn đầu một đội quân Anglo-Saxon tấn công người Đan Mạch chứ không chỉ quân đội của xứ Wess.e.x làm cho người Đan Mạc phải bỏ chạy khỏi bãi biển của họ và đi thuyền đến một phần khác của nước Anh. Lực lượng Đan Mạch này được cho rút lui và rời khỏi Anh vào mùa hè năm sau.
Không lâu sau khi cuộc tấn công không thành công của người Đan Mạch vào hạt Kent Alfred phái hạm đội của ông đến Đông Anglia. Mục đích của chuyến thám hiểm này còn có nhiều tranh luận, mặc dù Asser tuyên bố rằng chuyến xuất quân này là để cướp bóc. Sau khi đi ngược lên sông Stour hạm đội của Alfred đã gặp tàu của người Đan Mạch – khoảng từ 13 đến 16 (các nguồn đưa các thông tin khác nhau về số lượng) và một cuộc chiến xảy ra sau đó. Hạm đội của người Anglo-Saxon đã chiến thắng và theo ghi chép của Huntingdon thì chúng được chất “đầy chiến lợi phẩm.” Các đội chiến thắng đã bị bắt không biết khi cố gắng để thoát ra sông. Tại cửa sông Stour hạm đội của Alfred đã bị tấn công bất ngờ bởi một hạm đội Đan Mạch. Các đội tàu của Đan Mạch có thể đã đánh bại hạm đội của Alfred vì nhiều khả năng đội tầu này đã