18/06/2018, 15:22

Quận công William xứ Normandy vượt biển chinh phục nước Anh

tác giả hongsonvh Có thể nói rằng việc quận công William xứ Normandy vượt biển chinh phục nước Anh là một trong những nguyên nhân xảy ra cuộc chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp vài thế kỷ sau, nhưng ta cứ từ từ xem con tằm nó nhả tơ như thế nào.Để biết lý do tại sao ông ta lại ...

tác giả hongsonvh

Có thể nói rằng việc quận công William xứ Normandy vượt biển chinh phục nước Anh là một trong những nguyên nhân xảy ra cuộc chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp vài thế kỷ sau, nhưng ta cứ từ từ xem con tằm nó nhả tơ như thế nào.Để biết lý do tại sao ông ta lại mang quân đi chinh phục nước Anh ta phải quay về trước đó độ hơn 1 thế kỷ để thấy sự thành lập của Công quốc Normandy.

Như ở phần nói ở phần trước vua Alfred vĩ đại người Anh ( người Saxon) đã cho xây dựng hệ thống thành lũy liên hoàn và đội quân cơ động tinh nhuệ và đánh bại mọi cuộc tấn công ăn cướp của người Viking, người Viking bị bắt buộc tràn sang bờ biển lục địa châu Âu, họ liền đổ bộ vào bờ biển nước Pháp nơi có vùng duyên hải kéo dài và phòng thủ yếu ớt, nhà vua Pháp đã phải nộp tiền chuộc nhiều lần nhưng toán Viking này ra đi thì toán khác lại kéo đến, đỉnh cao là cuộc vây hãm Paris năm 885-886 của khoảng 3 -> 4 vạn chiến binh Viking và gần 1 nghìn tầu chiến ( đã đề cập đến ở trang 3), mặc dù trận công phá Paris thất bại, người Viking vẫn đi thuyền đánh phá loanh quanh mà không chịu rút ra biển, một thủ lĩnh Viking tên là Rollo (870 – c. 932) quyết định cho quân của mình đổ bộ lên bờ và chiếm đóng thành phố Ruen bên bờ sông Sein của nước Pháp. Vua Pháp lúc đó là Charles Béo mang quân đến để đẩy lui quân xâm lược nhưng ông này thường thua trận nhiều hơn là thắng. Sau gần 30 năm đánh qua đánh lại thì Charles Béo và Rollo quyết định đàn phán hòa bình theo điều ước Treaty of Saint-Clair-sur-Epte năm 911. Theo điều ước này vua pháp tấn phong thủ lĩnh Rollo làm Quận Công ( hàng loạt các thủ lĩnh cỡ nhỏ khác thì làm bá tước, nam tước vv và vv ) và thái ấp được phong của ông ta chính là vùng Normandy ngày nay và gả con gái ( em gái) cho ông ta, đổi lại từ lúc này Rollo phải chở thành chư hầu của nước Pháp, gia nhập đạo Gia tô và có trách nhiệm đánh đuổi bất cứ người Viking nào bén mảng đến bờ biển của nước Pháp

Sơ lược những sự kiện trọng đại ở vùng Normandy và nước Anh từ lúc quận công Rollo lên cầm quyền cho đến hết thế kỷ 13

Năm 911. Điều ước Treaty of Saint-Clair-sur-Epte được ký kết, Rollo thủ lĩnh người Viking trở thành quận công xứ Normandy
Năm 931. Rollo chết và được thừa kế bởi con trai ông ta-Wiliam I Trường kiếm ( Longsword)
Năm 941. Wiliam I Trường kiếm chết và được thừa kế bởi con trai ông ta-Richard Dũng cảm (Richard Fearless)
Năm 996. Richard Dũng cảm chết và được thừa kế bởi con trai ông ta- Richard Tốt bụng ( Richard the good)
Năm 1017. Người lính đánh thuê người Norman xuất hiện ở miền Nam Ytalia
Năm 1026. Richard Tốt bụng chết và được thừa kế bởi con trai ông ta- Richard III
Năm 1027. Richard III chết và được thừa kế bởi em trai ông ta- Robert the Magnificent
Năm 1028. William the Conqueror chào đời
Năm 1035. Robert the Magnificent chết và được thừa kế bởi William II-người con ngoài giá thú của ông ta
Năm 1041. Trận chiến Monte Maggiore. Lính đánh thuê nổi loạn người Italo-Norman ( người Norman đánh thuê tại Ytalia cho triều đình Byzantine) đánh bại quân đội của Đế quốc Byzantine
Năm 1047. Quận công William đánh bại quân nổi loạn người Norman
Năm 1053. Trận Civitate. Quân đội Apilian-Norman đánh bại quân đội của Giáo Hoàng
Năm 1054. Trận Mortemer. Người Norman đánh bại đội quân xâm lược của người Pháp dưới sự chỉ huy của vua Henry I và Geoffrey xứ Anjou
Năm 1057. Trận Varaville. Người Norman đánh tan tác đội hậu quân của vua Henry I và Geoffrey xứ Anjou
Năm 1060. Người Norman bắt đầu xâm chiếm đảo Sicily
Năm 1066 ngày 28 tháng 9. Quận công Wiliam bắt đầu xâm lược nước Anh
Năm 1060. Người Norman bắt đầu xâm chiếm đảo Sicily
Năm 1066 ngày 28 tháng 9. Quận công Wiliam xâm lược nước Anh
Năm 1066 ngày 14 tháng 10. Trận Hastings. Vua Harolf của nước Anh bị đánh bại bởi Quận công Wiliam
Năm 1066 ngày 25 tháng 10. Quận công Wiliam lên ngôi vua nước Anh tại Westminster Abbey
Năm 1070. Cuộc nổi dậy lớn cuối cùng ở nước Anh bị dập tắt
Năm 1071. Người Norman chiến thành phố Bari ( thuộc sở hữu của Byzantine lúc đó)
Năm 1072. Người Norman chiến thành phố Palermo, thủ phủ của Sicily ( thuộc sở hữu của Byzantine lúc đó)
Năm 1079. William bị đánh bại bởi Robert-con trai của ông ta ở Geberoi
Năm 1081. Trận Durazzo. Quân đội Italo-Norman dưới sự chỉ huy của Robert Guiscard và con trai ông ta-Bohemond xứ Taranto, đã đánh bại quân đội Byzantine.
Năm 1087 Ngày 9 tháng 9. Vua William I ( của nước Anh và cũng là William II của Normandy) qua đời. William Rufus thừa kế ngai vàng nước Anh như là William II. Robert trở thành quận công xứ Normandy
Năm 1091. Quá trình xâm lược Sicily của người Norman đã hoàn tất
Năm 1097. Trận Dorylaeum. Quân thập tự chinh lần thứ nhất bao gồm cả quân đội Italo-Norman dưới sự chỉ huy của Bohemond, đã đánh bại quân Thổ nhĩ kỳ bằng một cuộc tấn công bất ngờ của đội hình hình cột thứ 2
Năm 1098. Bohemond chiếm được thành phố Antioch
Năm 1100. Bohemond trở thành Hoàng tử của Antioch. William II bị giết ở New Forest. Người em trai Henry trở thành vua của Anh quốc
Năm1106. Trận Tinchebrai. Henry I đánh bại bỏ tù anh trai của ông ta-Robert xứ Normandy
Năm 1118. Trận Alencon Henry I bị đánh bại bởi Geoffrey xứ Anju khi tìm cách bỏ chạy khỏi lâu đài của mình
Năm 1119. Trận Bremule Henry I đánh bại đội quânm xâm lược của vua Pháp-Lui VI
Năm 1124. Trận Bourgtherouile, các hiệp sỹ cận vệ của Henry I đánh bại quân nổi loạn của Waleran xứ Meulan
Năm 1132. Trận Nocera. Roger II của Sicily bị đánh bại bởi quân nổi loạn Apulian-Norman
Năm 1135. Henry I chết. Nội chiến nổ ra tại nước Anh giữa Stephen-cháu trai của Henry và Mathilda-con gái của ông ta ( vẫn là Henry )
Năm 1138. Trận Standar ( Northallerton). Quân đội của Stephen đánh bại quân đội Scotland của vua David I
Năm 1141. Trận Lincoln. Robert xứ Gloucester và quân nổi loạn đến để giải vây cho thành phố ( nơi mà Mathilda bị bao vây), đánh bại và bắt sống Stephen. Trao đổi Stephen lấy Robert khi mà ông này bị bắt khi cố thoát khỏi Winchester cuối năm đó
Năm 1148. Một tỉnh của người Norman được thành lập tại Bắc Phi
Năm 1154. Vua Stephen chết. Henry II thừa kế ngôi vua-ông này là con trai của Mathilda và Geoffrey, công tước xứ Anjou ( đây chính là dòng họ Plantagenet-một người Pháp, còn đến đây dòng họ của William the Conqueror không còn làm vua nước Anh nữa)
Năm 1160. Tỉnh Norman ở Bắc Phi bị xóa sổ
Năm 1189. Henry II của nước Anh chết và được thừa kế bởi con trai ông ta Richard I ( Lionheart – Risa Sư tử tâm)
Năm 1190. Vua Risa bị bắt giam
Năm 1194. Vua Risa được trả tiền chuộc và được phóng thích. Vương quốc Italia-Sicily của người Norman bị thất thủ vào tay của Hoàng Đế La Mã thánh thần Henry IV ( Hoàng đế Đức-Áo)
Năm 1199. Vua Risa Sư tử tâm chết khi đang vây lâu đài Chalus tại nước Pháp. Ông được thừa kế bởi em trai-Hoàng tử John, gã hoàng tử đểu cáng trong chuyện dân gian Robin Hood hoặc tiểu thuyết Ivanhoe của Anh
Năm 1204. Vùng Normandy thất thủ và rơi vào tay vua Philip của Pháp quốc
Năm 1287. Cảng Lattakieh, cứ điểm cuối cùng của công quốc Antioch rơi vào tay người Hồi giáo. Đến đây thì có thể nói hậu duệ của Quận công Rollo không còn kiểm soát một vùng đất nào ở châu Âu nữa

William the Conqueror ( Guillaume le Conquérant từ năm 1028 -> Ngày 09 tháng 9 1087), còn được gọi là William I của Anh quốc ( 1er Guillaume d’Angleterre ) và William II của Normandy ( Guillaume II de Normandie ), là vị vua Norman đầu tiên của nước Anh kể từ Giáng sinh năm 1066 cho đến khi ông chết. Ông cũng là Công tước của Normandy từ ngày 03 tháng 7 năm 1035 cho đến ngày ông qua đời. Trước khi ông tiến hành cuộc chinh phục của mình vào nước Anh, ông được gọi là William the Bastard – thằng con hoang ( Guillaume le Bâtard ) vì là một người con ngoài giá thú.

Để thực hiện yêu cầu của mình đối với vương miện Anh, William tiến hành xâm lược nước Anh vào năm 1066, ông dẫn đầu một đội quân gồm người Norman , Breton , Fleming và Pháp (từ Paris và Île-de-France ) và đánh bại lực lượng quân đội Anh dưới sự huy của vua Harold Godwinson tại trận Hastings và tiến hành đàn áp các cuộc nổi dậy của người Anh tiếp theo trong cuộc chinh phục của người Norman. Trong thời gian trị vì ông đã đưa văn hóa Pháp Norman vào nước Anh và ông có ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển của nước Anh vào thời Trung cổ. Chi tiết của các ảnh hưởng và mức độ của nó vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi cho các học giả trong nhiều thế kỷ. Ngoài những thay đổi rõ ràng từ giai cấp cai trị, triều đại của ông cũng tiến hành xây dựng hàng loạt các pháo đài, tạo ra những thay đổi trong ngôn ngữ của người Anh , thay đổi trong các tầng lớp cấp cao trong xã hội và nhà thờ, và thậm chí chấp nhận một số khía cạnh của cải cách giáo hội theo xu hướng lục địa châu Âu.

Tuổi trẻ

William được sinh ra trong năm 1027 hoặc năm 1028 tại lâu đài Château de Falaise ở hạt Falaise, Normandy – nước Pháp. William là con trai duy nhất của Robert I, Công tước xứ Normandy , cũng như là cháu trai của hoàng hậu Anh-Emma xứ Normandy, vợ của vua Ethelred Unready và sau đó của vua Knud Đại đế . Mặc dù là một người con ngoài giá thú, cha của ông lại chọn ông làm người thừa kế Normandy. Mẹ ông – bà Herleva là con gái của Fulbert của Falaise, người sau này đã tiếp tục kết hôn và có hai con trai nữa với Herluin de Conteville. Và hai người anh em cùng mẹ khác bố của ông là, Odo xứ Bayeux và Robert-bá tước xứ Mortain , William cũng có một em gái-Adelaide xứ Normandy, một người con của Robert.

William là một người con không hợp pháp và điều này ảnh hưởng đến giai đoạn đầu của cuộc đời ông. Khi còn bé, cuộc sống của ông luôn bị nguy hiểm bởi những người nghĩ rằng họ có quyền thừa kế hợp pháp hơn ông. Một nỗ lực để giết chết William xảy ra khi ông ngủ tại một lâu đài ở Vaudreuil, khi những kẻ giết người đã giết nhầm đứa trẻ ngủ cạnh William. Tuy nhiên, khi cha ông qua đời, ông được công nhận là người thừa kế . Sau đó trong phần còn lại của cuộc đời ông, kẻ thù của ông luôn gọi ông là “William the Bastard-thằng con hoang” và chế giễu ông là con trai của con gái một người thợ thuộc da và các cư dân của thành phố Alençon vốn bị ông bao vây đã treo các tấm da thú trên các bức tường thành phố để chế nhạo ông.

Làm Công tước của xứ Normandy

Theo di chúc của cha mình, William đã thừa kế ông ta như là Công tước của Normandy ở lúc bảy tuổi trong năm 1035. Âm mưu của các quý tộc Norman đối thủ của William là để cướp ngôi báu của ông đã làm ông bị thiệt mạng mất ba người giám hộ, dù Bá tước Alan III của Britanny, người giám hộ sau đó của ông đã không làm được gì, tuy nhiên William đã được sự hỗ trợ của vua Henry I của nước Pháp. Ông đã phong tước hiệp sĩ cho Henry ở tuổi 15. Vào lúc William 19 tuổi, ông đã thành công trong việc đối phó với mối đe dọa từ các cuộc nổi loạn và xâm lược. Với sự giúp đỡ của Henry ( vua Pháp ), cuối cùng William đã lấy lại được quyền kiểm soát bằng cách đánh bại phiến quân Normandy của thủ lĩnh người Norman ở Caen trong trận Val-es-Dunes tại năm 1047, và có được thỏa thuận ngừng chiến với sự hậu thuẫn của Giáo Hội Công Giáo. Chống lại sự sắp đặt của Giáo hoàng Leo IX , William kết hôn với Matilda của Flander năm 1053 tại nhà thờ Notre-Dame thuộc hạt Eu – Normandy ( Seine-Maritime ). Vào lúc đó William khoảng 24 tuổi và Matilda khoảng 22. William được cho là đã được một người chồng trung thành và yêu thương vợ. Cuộc hôn nhân của họ có bốn người con trai và sáu con gái. Trong sự hối cải cho của việc kết hôn là họ hàng (họ là anh em họ xa), William tặng cho Giáo Hội nhà thờ thánh St Stephen (Abbaye-aux-Hommes ) và Matilda tặng cho Giáo Hội nhà thờ Holy Trinity (Abbaye aux Dames ).

Cảm thấy bị đe dọa bởi sự ép ngày càng gia tăng của người Norman từ kết quả của cuộc hôn nhân của William, Henry I của nước Pháp đã cố gắng xâm nhập vào Normandy hai lần ( năm 1054 và 1057) nhưng không thành công. Là một chỉ huy có sức quấn hút William đã thu hút được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ người Normandy, bao gồm cả sự trung thành của những người anh em cùng mẹ khác cha như Odo xứ Bayeux và Robert-bá tước xứ Mortain, những người đã đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của ông. Sau đó, ông được hưởng lợi từ sự suy yếu thế lực cạnh tranh sau cái chết của Henry I và của Geoffrey II xứ Anjou vào năm 1060. Năm 1062 William xâm chiếm và nắm quyền kiểm soát của các quận vùng Maine vốn là thái ấp của quận công Anjou.

Yêu cầu kế thừa ngôi vị vua nước Anh

Sau cái chết của Edward Confessor-vua nước Anh, người không có con, ngôi vua nước Anh là sự tranh chấp quyết liệt của ba người đòi thừa kế William; Harold Godwinson-Bá tước hùng mạnh mẽ của xứ Wex.s.e.x, vua Harald III của Na Uy-còn được gọi là Harald Hardrada. William có yêu cầu ngai vị thông qua Emma-bà cô tuyệt vời của mình (vợ của Ethelred và mẹ của Edward). William cũng lý luận rằng Edward, người dành phần lớn cuộc đời của ông khi sống lưu vong tại Normandy khi người Đan Mạch chiếm đóng nước Anh, đã hứa nhường ngôi báu cho ông khi ông đến thăm ông ta ( Edward ) ở London năm 1052. Hơn nữa, William cho rằng Harold đã cam kết trung thành với ông trong năm 1064: William đã cứu Harold, lúc đó đang đắm tàu ở Ponthieu và họ đã cùng nhau đánh bại Conan II, Công tước xứ Brittany . Nhân dịp này William đã phong tước hiệp sĩ cho Harold…

Tuy nhiên, trong tháng 1 năm 1066, theo di chúc cuối cùng của Edward và theo sự bầu chọn của Witenagemot , Harold Godwinson đã được đội vương miện bởi Đức Tổng-Giám-mục Aldred.

Người Norman xâm lược

Trong khi đó, William gửi yêu cầu về ngôi báu nước Anh lên Đức Giáo Hoàng Alexander II , người đã cấp cho ông ta một sự hỗ trợ về mặt Tôn giáo. Sau đó, William đã tổ chức một hội đồng quân sự tại Lillebonne và trong tháng 1 đã bắt đầu bắt tập hợp một cách công khai một đội quân ở Normandy. Với lời hứa hẹn về đất đai và các và các chức tước ở Anh, ông đã tập hợp được ở Dives-sur-Mer một hạm đội xâm lược lớn, được cho là có 696 chiếc tầu. Hạm đội này có thể chuyên chở được một đội quân xâm lược trong đó bao gồm cả các toán quân nhở người Pháp và các vùng lãnh thổ chính của William ở Normandy và Maine, số lượng lớn lính đánh thuê, các đồng minh và lính tình nguyện từ Anh, phía đông bắc nước Pháp và Flanders, cùng với một số lượng nhỏ những người từ các vùng khác của nước Pháp và từ các thuộc địa Norman ở miền nam Italy. Ở Anh, Harold đã cho tập hợp một đội quân lớn trên bờ biển phía nam và một đội tàu để bảo vệ kênh English Channel.

Tình cờ ngẩu nhiên cho William, ông đã bị trì hoãn tám tháng bởi gió không thuận lợi. William đã cố gắng để giữ cho quân đội của mình không bị tan rã trong thời gian chờ đợi, nhưng quân đội của Harold đã bị ran rã do suy giảm nguồn cung cấp và xuống tinh thần. Với việc thu hoạch mùa vụ đã đến, ông cho giải tán quân đội của mình vào ngày 8 tháng 9 năm 1066. Harold cũng hợp nhất các tàu của mình ở London làm cho English Channel không có bảo vệ. Sau đó, khi một tin tức rằng đối thủ khác đến để cướp ngôi, Harald III của Na Uy cùng đồng minh là Tostig Godwinson, đã đổ bộ mười dặm cách York 10 dặm. Harold cho di chuyển quân đội của mình đến chỗ đó và sau một ngày chiến đấu, ngày 4 tháng 30 Harol đã đánh bại Harald và Tostig ngày 25 tháng 9.

Ngày 12 tháng 9 hướng gió mà William cần đã quay lại và ông cho hạm đội của mình xuất phát. Một cơn bão thổi lên và hạm đội đã buộc phải tạm trú ở Saint-Valery-sur-Somme và một lần nữa lại chờ đợi gió đổi chiều. Vào ngày 27 tháng 9 hạm đội Norman cuối cùng giong được buồm và đổ bộ vào nước Anh ở Pevensey Bay ( thuộc vùng Suss.e.x ) vào ngày 28 tháng 9. Sau đó William chuyển đến Hastings-một vài dặm về phía đông, nơi ông đã cho xây dựng một pháo đài thô sơ bằng gỗ để làm căn cứ hoạt động. Từ đó, ông đã tàn phá các vùng đất miền duyên hải và đợi Harold quay chở lại từ phía bắc.

William đã chọn Hastings vì nó ở phần cuối của một bán đảo dài hai bên sườn có những đầm lầy không thể đi qua. Trận chiến sẽ xảy ra trên eo đất này. William cùng cho xây dựng cùng lúc một pháo đài ở Hastings để bảo vệ phía sau lưng của mình để chống lại khả năng có một hạm đội của Harold xuất hiện từ London. Sau khi cho quân đội của mình đổ bộ, William ít quan tâm đến việc đào ngũ và có thể đã phải chờ đợi trong các cơn bão của mùa đông và tiến hành đột kích vào khu vực xung quanh để kiếm cỏ cho ngựa và bắt đầu một chiến dịch vào mùa xuân. Harold đã cho cho do thám khu vực miền Nam nước Anh một thời gian và đánh giá cao sự cần thiết phải ngay lập tức chiếm lấy eo đất này

Trận Hastings ( sẽ được bày trình ở một phần riêng)

Hành quân tới London

Trong hai tuần ( sau trận Hastings ), William đã chờ một sự đầu hàng chính thức của vua Anh, nhưng hội nghị Witenagemot tuyên bố Edgar Ætheling trẻ tuổi làm vua thay vì ông ta mặc dù không có lễ đăng quang. Như vậy, mục tiêu tiếp theo của William là London, và để tiến được đó ông sẽ vượt qua các vùng lãnh thổ quan trọng như Kent, Dover và Canterbury và làm lan truyền sự sợ hãi vào cư dân Anh ở dọc đường. Tuy nhiên, tại trước cổng thành London, William đã bị đẩy lui trở lại London Bridge , và ông quyết định tiến quân về phía tây và tấn công một cách dữ dội từ phía tây bắc London. Sau khi nhận được quân tiếp viện từ lục địa, William vượt qua sông Thames ở Wallingford và ông buộc Đức Tổng-Giám-mục Stigand phải đầu hàng (một trong những thủ lãnh đạo ủng hộ Edgar) vào đầu tháng Mười Hai. William đến được Berkhamsted một vài ngày sau khi cá nhân Ætheling chấp nhận từ bỏ vương miện vua Anh và các quý tộc Saxon của nước Anh đã kiệt sức và quyết định đầu hàng một cách dứt khoát. Mặc dù sau đó William đã được hoan nghênh là vua của Anh quốc, ông đã yêu cầu một lễ đăng quang tại London. Được tấn phong làm William I, ông chính thức đăng quang vào ngày Giáng Sinh năm 1066 tại Westminster Abbey và buổi lễ được tổ chức bởi Đức Tổng-Giám-mục Aldred. Buổi lễ không diễn ra một cách hòa bình. Khi Aldred hỏi giáo đoàn “Liệu bạn có chấp nhận vị hoàng tử này là vua của bạn”, họ trả lời với nhiều tiếng la hét. Lính Norman đóng quân ở bên ngoài cho rằng người Anh đang nổi loạn liền châm lửa đốt các ngôi nhà lân cận. Một nhà thầy tu người Norman sau này đã viết “Khi ngọn lửa lan nhanh, những người trong nhà thờ trở nên lộn xộn và đám đông trong số họ vội vàng lao ra bên ngoài, một số cố gắng để dập tắt lửa, những người khác tìm cơ hội để đi cướp bóc. “

Đối với William I, những điều tồi tệ nhất đến từ Northumbria nhưng chúng cũng không làm lung lay nổi chế độ của ông. Năm 1068, dưới sự lãnh đạo của Edgar Ætheling cả Mercia và Northumbria đều cùng nổi dậy. William có thể trấn áp được cuộc nổi dậy này, nhưng Edgar đã chạy trốn đến Scotland, nơi Malcolm III của Scotland bảo vệ ông. Hơn nữa, Malcolm đã cưới Margaret-em gái của Edgar để tạo sự cân bằng quyền lực giữa người Anh và William. Trong thời gian này, người Northumbria nổi dậy và bao vây York. Sau đó, Edgar cầu viện binh từ ngưo Đan Mạch, những người đã đổ bộ xuống từ một hạm đội lớn tại Northumbria, tuyên bố vương miện nước Anh phải thuộc về Sweyn II-vua của họ . Người Scotland cũng tham gia vào các cuộc nổi dậy. Quân nổi dậy dễ dàng chiếm thành phố York và pháo đài của nó. Tuy nhiên, William đã có thể kìm chân họ ở Lincoln. Sau khi đối phó với một loạt các cuộc nổi dậy mới ở miền tây Mercia, Exeter, Dorset và Somerset, William đánh bại kẻ thù của ông ở phía bắc tại trận đánh quyết định ở sông Aire, chiếm lấy York trong khi ép được quân đội Đan Mạch phải xuống tầu của họ để về nước.

William sau đó đã tàn phá vùng Northumbria ở giữa sông Humber và Tees với những gì được mô tả như tàn phá một cách tàn bạo miền Bắc nước Anh. Việc tàn phá này bao gồm đốt cháy các khu rừng, nhà cửa và thậm chí cả các công cụ để trồng trọt và các cánh đồng. Sau khi bị triệt hạ, đất đai ở khu này không thể phục hồi trong hơn 100 năm. Vùng này hoàn toàn bị triệt hạ và bị mất quyền tự trị truyền thống của nó ở trong nước Anh. Tuy nhiên có thể có thể nói biện pháp này đã ngăn chặn được các cuộc nổi loạn trong tương lai, làm cho người Anh trở thành biết vâng lời. Sau đó đích thân nhà vua Đan Mạch lên tầu mang theo quân đội của mình để khởi động lại một cuộc chiến tranh mới, nhưng William đã chặn đứng mối đe dọa này bằng một khoản tiền vàng lớn. Năm 1071, William đánh bại cuộc nổi loạn cuối cùng của phía Bắc bằng một thiết bị cầu phao và chế phục được Đảo Ely, nơi người Đan Mạch đang chiếm đóng. Năm 1072, ông xâm lược Scotland, đánh bại Malcolm-lúc vừa mới xâm chiếm miền Bắc nước Anh. William và Malcolm đã đồng ý ký kết Hiệp ước hòa bình Abernethy và Malcolm đã phải giao-Duncan con trai mình làm con tin để đổi lấy bình. Năm 1074, Edgar Ætheling hoàn toàn quy hàng William.

Trong năm 1075, với sự vắng mặt của William, cuộc nổi dậy của các Bá tước đã được kiểm soát một cách thành công bởi Odo. Năm 1080, William gửi những người anh cùng mẹ khác cha với mình là Odo và Robert tấn công Northumbria và Scotland. Cuối cùng khi Đức Giáo Hoàng đã phải lên tiếng phản đối rằng người Norman đã ngược đãi người Anh ( Saxon ) một cách quá mức. Trước khi dẹp yên các cuộc nổi loạn, William đã hoà giải với nhà thờ Anh, tuy nhiên sau đó ông lại bức hại nó một cách mãnh liệt ( nhà thờ có tiền của, bức hại nhà thờ để lấy tiền của ).

Sự cai trị của William ở Anh

Các sự kiện

Như sẽ tạo thói quen cho con cháu của ông, William dành nhiều thời gian của mình (11 năm, kể từ năm 1072) ở Normandy và đưa ra các phán quyết thông qua các writ ( người được ủy quyền) của ông. Trên danh nghĩa vẫn là một nước chư hầu và phải trung thành một cách hoàn toàn với vua Pháp, xứ Normandy đột nhiên trở nên là một thế lực trong khu vực, và làm các công tước Pháp khác phản ứng bằng cách liên tục tấn công vào công quốc (Normandy). Khi William tập trung vào việc chinh phục xứ Brittany (xứ Brittany của nước Pháp chứ không phải nước Anh ) thì vua Pháp Philip I có lời khiển trách ông ta. Một hiệp ước được ký kết sau một cuộc xâm lược của ông vào xứ Brittany bị hủy bỏ trong năm 1076 và William đính hôn Constance với Breton-con trai của Công tước Hoel và là Alan IV của xứ Brittany trong tương lai. Đám cưới diễn ra trong năm 1086, sau khi Alan kế thừa ngai vị Constance đã chết mà không có con một vài năm sau đó.

Robert-con trai lớn tuổi của William, tức giận với một trò đùa của Henry và William Rufus- những người anh em của ông đã dội nước bẩn vào ông ta, ông này (Robert ) đã tiến hành những gì mà sau đó đã trở thành một cuộc nổi loạn quy mô lớn của mình chống lại người cha. Chỉ với hỗ trợ quân sự bổ sung của vua Philip, William mới có thể đối đầu được với Robert, người sau đó đóng Tổng hành dinh tại Flander. Trong trận chiến năm 1079, William đã bị ngã ngựa và bị thương bởi Robert, người chỉ hạ thanh kiếm của mình xuống sau khi nhận ra ông ta. William bối rối quay trở lại Rouen và từ bỏ chuyến chinh phạt. Năm 1080, Matilda dàn hòa cho hai người và phục hồi quyền thừa kế của Robert.

Odo ( người anh cùng mẹ khác cha của William ) gây ra quá nhiều rắc rối cho William và đã bị bỏ tù năm 1082, rồi bị tịch thu toàn bộ của mình ở Anh và bị cắt bỏ tất cả các tước vị trong hoàng gia, nhưng vẫn được giữ danh hiệu tôn giáo của mình. Năm 1083, Matilda chết và William trở thành độc tôn trong các lãnh địa của mình.

Các cải cách của William the Conqueror

William khởi xướng nhiều thay đổi lớn. Ông tăng thêm chức năng của các shire (khu vực hành chính tự trị) truyền thống của Anh, mà ông đặt dưới quyền quản lý của Trung ương; ông giảm quyền lực của Bá tước bằng cách hạn chế họ ở trong một phần của một shire. Tất cả các chức năng hành chính của chính phủ của ông vẫn đặt ở các thị trấn cụ thể của Anh, ngoại trừ bản thân các tòa án chính và chúng dần dần được bổ sung, các cơ quan quyền lực này của Anh đã trở nên tinh vi nhất ở châu Âu. Năm 1085, để xác định mức độ mở rộng của lãnh địa mới của mình và cải thiện việc thu thuế, William giao nhiệm vụ cho các cố vấn của mình biên soạn quấn sách Domesday, quấn này được xuất bản năm 1086. Cuốn sách là một cuộc khảo sát năng lực sản xuất của Anh tương tự như một điều tra dân số hiện đại.

William cũng đã ra lệnh cho xây dựng nhiều lâu đài, hệ thống tháp canh phòng thủ, trong đó có nền móng của Tháp London ( tháp trắng ), được xây dựng trên khắp nước Anh. Những hệ thống này đảm bảo ngăn chặn hiệu quả rất nhiều cuộc nổi dậy của người dân Anh hoặc những người không được kế vị nổi loạn.

Cuộc chinh phục của ông cũng đã dẫn tới dùng tiếng Pháp (đặc biệt, nhưng không chỉ là ngôn ngữ Pháp-Norman ) để thay thế tiếng Anh vốn là ngôn ngữ của tầng lớp thống trị trong gần 300 năm. Trong khi trong năm 1066 ít hơn 30% số chủ sở hữu không có cái bằng tiếng Anh tên, thì vào năm 1207 con số này đã tăng lên hơn 80% với những cái tên Pháp như William, Robert và Richard là phổ biến nhất. Hơn nữa, văn hóa Anglo-Saxon bản địa của nước Anh đã hoà quyện làm một với văn hóa Norman do đó một nền văn hóa mới-Anglo-Norman ra đời.

William được cho là đã loại bỏ các tầng lớp quý tộc bản địa trong ít nhất là bốn năm. Ông đã tước đoạt một cách có hệ thống tài sản của những quý tộc người Anh ( người Saxon ) hoặc người Norman chống đối hoặc những người đã chết mà không có di chúc. Do đó, các tài sản và các chức danh danh tiếng nhất của giới quý tộc đã được giao cho các quý tộc Norman. Nhiều quý tộc Anh đã bỏ trốn sang Flanders và Scotland, những người khác có thể đã được bán thành nô lệ ở nước ngoài. Một số trốn thoát để gia nhập đội vệ binh Varangian Guard của đế quốc Byzantine và tiếp tục chiến đấu với người Norman ở Sicily. Mặc dù ban đầu William cho phép các lãnh chúa người Anh được giữ đất đai của họ nếu họ chịu quy thuận, nhưng vào năm 1070, giới quý tộc bản địa đã không còn chiếm một phần lớn ruộng đất của nước Anh và năm 1086 họ chỉ duy trì kiểm soát có 8% diện tích đất ban đầu mà họ nắm giữ . Hơn 4.000 lãnh chúa người Anh đã bị mất đất đai của họ và bị thay thế, chỉ có hai lãnh chúa người Anh còn giá trị nào đó còn sót laị. Tuy nhiên, đối với các quý tộc Norman mới, William giao cho họ từng phần đất Anh đã được chia thửa, phân phát một cách rộng rãi cho những người này,để đảm bảo không ai thử âm mưu chống lại ông mà không bị nguy hiểm đến tài sản của mình trong thời buổi vẫn còn nhiều bất ổn sau cuộc xâm lược vào nước Anh. Hiệu quả là điều này đã củng cố vị trí chính trị nổi bật của William như là một quốc vương.

Sử gia thời Trung cổ William xứ Malmesbury nói rằng nhà vua cũng cho tịch thu và bỏ hoang nhiều dặm đất (của 36 giáo xứ ), biến nó thành khu vực rừng New Forest của hoàng gia để thưởng thức thú săn bắn của mình. Tuy nhiên, các sử gia hiện đại đã kết luận rằng việc xua đuổi dân để lập rừng New Forest có nhiều phóng đại. Hầu hết các vùng đất của rừng New Forest rất khó để canh tác nông nghiệp và các nhà khảo cổ học và nghiên cứu địa lý đã chỉ ra rằng các rừng New Forest này rất thưa thớt và chỉ có một khả năng sử lý là biến chúng thành một khu rừng hoàng gia.

Cái chết của William the Conqueror

Năm 1087 ở Pháp William tấn công Mantes (ở khoảng 30 dặm [50 km] về phía tây của Paris), và bao vây thị trấn. Tuy nhiên, ông đã ngã ngựa, bị chấn thương vùng bụng gây ra tử vong. Trên giường bệnh William chia thừa kế tài sản của ông cho các con trai của mình, kết quả là lại làm dấy lên sự xung đột giữa bọn họ . Mặc dù William cũng không muốn lắm nhưng Robert-người con trai cả đã từng chiến đấu chống lại ông đã nhận được quyền thừa kế Công quốc Normandy, như là Robert II. William Rufus (con trai thứ ba của ông) kế vị ngôi vua nước Anh như là William II. Henry-con trai út của William nhận được 5.000 pound bạc, khoản tiền được dùng để mua đất. Ông này sau đó trở thành vua Henry I của Anh sau khi William II qua đời mà không có con cái gì. Trong khi còn nằm trên giường bệnh, William ân xá cho nhiều đối thủ chính trị của ông bao gồm cả Odo.

William qua đời ở tuổi 59 tại Convent of St Gervais ở Rouen, thành phố thủ phủ của vùng Normandy, vào ngày 09 tháng 9 năm 1087. William đã được chôn tại Abbaye aux-Hommes và sau này ông đã được dựng tượng tại Caen, Normandy.

Harold Godwinson

Harold Godwinson (hoặc Harold II ) ( tiếng Anh : Harold Gōdwines sunu ) ( năm 1022 – ngày 14 tháng 10 năm 1066) là vị vua Anglo-Saxon cuối cùng của nước Anh. Harold trị vì từ 6 tháng 1 năm 1066 cho đến khi ông chết trong trận Hastings, ngày 14 tháng 10 của năm đó, trong cuộc chiến đấu để ngăn chặn cuộc xâm lược của người Norman do William the Conqueror chỉ huy trong cuộc chinh phục của người Norman vào nước Anh. Harold là một trong ba vị vua của nước Anh đã chết trong chiến trận, các vị vua kia là Richard Lionheart ( Risa Sư tử tâm ) và Richard III ( hai vị vua sau đều là giòng Plantagenet).

Nguồn gốc gia đình

Harold là một con trai của Godwin-Bá tước hùng mạnh xứ Wess.e.x và vợ của ông là Gytha Thorkelsdóttir,
Godwin và Gytha có nhiều con cái, những người con trai đặc biệt là Sweyn, Harold, Tostig, Gyrth và Leofwine và một người con gái-Edith xứ Wess.e.x (năm 1029-1075), người đã trở thành Hoàng hậu của vua Edward the Confessor.

Một nhà quý tộc mạnh mẽ

Như là kết quả của cuộc hôn nhân của chị gái của mình với nhà vua, Harold-người con trai thứ hai của Godwin, trở thành Bá tước Đông Anglia năm 1045. Harold phải đi sống lưu vong cùng cha mình năm 1051, nhưng đã giúp ông lấy lại vị trí của mình một năm sau đó. Khi Godwin chết trong năm 1053 Harold đã thừa kế ông làm Bá tước xứ Wess.e.x (một tỉnh ở thời điểm đó bao gồm các vùng phía Nam của nước Anh). Sự kiện này làm cho ông ta chở thành nhân vật có quyền lực nhất ở nước Anh chỉ sau có nhà vua.

Năm 1058, Harold cũng đã trở thành Bá tước xứ Hereford và thay thế người cha quá cố của mình để trở thành thủ lĩnh của phe chống đối các ảnh hưởng ngày càng tăng của người Norman ở Anh sau khi phục hồi lại được ngôi vua của Anh cho nhà vua Edward the Confessor (1042-1066), người đã có hơn 25 năm sống lưu vong ở Normandy. Ông đã đạt được vinh quang trong một loạt các chiến dịch (1062-1063) khi chống lại Llywelyn ap Gruffydd của Gwynedd, người cai trị xứ Wales. Cuộc xung đột này đã kết thúc với thất bại hoàn toàn của Gruffydd và ông này đã bị giết chết bởi chính quân đội của ông ta trong năm 1063.

Trong năm 1064, dường như Harold bị đắm tàu ở Ponthieu. Có nhiều sự suy đoán về chuyến đi này. Theo các tài liệu sớm nhất người Norman ngay sau cuộc chinh phục ghi lại rằng ở một khoảng thời gian trước đó, Robert, Tổng-Giám-Mục Canterbury đã được gửi bởi vị vua không có con nối dõi để bổ nhiệm William xứ Normandy làm người thừa kế về đằng bên ngoại của Edward và nói rằng ngay sau đó Harold đã gửi đến lời thề trung thành ( với William ). Các nhà học giả đã không đồng ý với độ tin cậy của câu chuyện này. Ít nhất là dường như William đã tin rằng ông được kế, nhưng cũng có thể William đã bị nhầm lẫn hoặc có thể do cả hai người ( đều bị nhầm), bởi vì lúc đó việc thừa kế ngôi vua Anh không được xác định bởi vị vua đang trị vì. Thay vào đó, Witenagemot- một đội ngũ những danh nhân hàng đầu của vương quốc sẽ được triệu tập sau khi nhà vua từ trần để chọn một người kế nhiệm. Các ứng xử khác của Edward không phù hợp với những gì ông đã hứa, chẳng hạn như những nỗ lực của ông để gọi lại cháu trai của ông-Edward Kẻ bị lưu đầy, con trai của vua Edmund Ironside, từ Hungary về năm 1057. Sau đó các sử gia Norman đưa ra một cách giải thích khác cho cuộc hành trình Harold, rằng ông đang tìm cách giải thoát cho các thành viên của gia đình người bị bắt làm con tin từ cuộc lưu đầy của Godwin năm 1051, hoặc thậm chí rằng ông đã chỉ đơn giản là đang đi dọc theo bờ biển của nước Anh và đánh bắt cá, họ phải dong buồm ra khỏi Englisg Chanel vì một cơn bão bất ngờ. Có sự nhất trí chung rằng ông đã rời khỏi Bosham và bị gió thổi lạc hướng đi rồi phải đổ bộ xuống bờ biển Ponthieu, nơi ông bị bắt giữ làm con tin bởi Công tước Guy. Công tước William đến đó ngay lập tức và ra lệnh cho Guy giải Harold qua chỗ ông ta. Dường như sau đó Harold đi cùng với William để chiến đấu chống lại Conan II, Công tước xứ Brittany-kẻ thù của William . Trong khi tiến vào Brittany, ngang qua tu viện kiên cố Mont St Michel, Harold được ghi lại là đã giải cứu hai binh sĩ của William từ cát lún. Họ theo đuổi Conan từ Dol de Bretagne đến Rennes và cuối cùng là đến Dinan, nơi ông này đầu hàng và giao chiếc chìa khóa của chiếc pháo đài trên mũi của một ngọn giáo. William đã cho Harold xem các đồ binh giáp và các hiệp sỹ của ông ta. Các tài liệu của Tapestry Bayeux và các nguồn Norman khác sau đó ghi lại rằng Harold đã thề trước các chứng tích thiêng liêng và trước William rằng sẽ hỗ trợ việc ông này lên ngôi vua nước Anh. Sau cái chết của Harold, người Norman đã ngay lập tức cáo buộc rằng khi nhận vương miện nước Anh, Harold đã tự phản bội lời thề của mình.

Do Tostig đã cho tăng gấp đôi thuế má một cách bất công vào năm 1065 và điều này đe dọa gây ra một cuộc nội chiến trong nước Anh, Harold đã hỗ trợ người Northumbrian nổi dậy chống lại Tostig-anh trai của ông và thay thế ông ta bằng Morcar. Sự kiện này củng cố việc chấp nhận ông như là người kế nhiệm Edward, nhưng đã làm chia gia đình ông một cách chết người và đẩy Tostig sang liên minh với vua Harald Hardrada của Na Uy .

Hôn nhân và con cái

Ở tuổi khoảng 25 Harold kết hôn với Edith Swannesha và có ít nhất sáu người con với bà ta. Cuộc hôn nhân này được chấp nhận rộng rãi bởi các giáo dân, mặc dù Edith bị coi chỉ là tình nhân của Harold bởi các giáo sĩ. Con cái của họ đã không bị coi là ngoài giá thú.
Theo Orderic Vitalis, Harold đã từng đính hôn với Adeliza-con gái của William, Công tước xứ Normandy, sau này là William the Conqueror, vì thế mà bà này đã không bao giờ lấy chồng nữa.

Vào tháng 1 năm 1066, Harold kết hôn với Edith (hoặc Ealdgyth), con gái của Ælfgar-Bá tước xứ Mercia và là quả phụ của hoàng tử xứ Wales ap Gruffydd Llywelyn-một kẻ thù của người Anh. Edith có hai con trai – có thể là sinh đôi tên là Harold và Ulf (sinh c. Tháng 11 năm 1066), cả hai đều sống sót đến khi trưởng thành và có lẽ đã phải sống cuộc sống lưu vong.

Sau khi chồng bà qua đời, người ta nói rằng hoàng hậu đã tị nạn ở chỗ người anh em mình, Edwin-Bá tước xứ Mercia và Morcar xứ Northumbria nhưng cả hai người này ban đầu chấp nhận chung sống hòa bình với quân xâm lược sau đó lại nổi loạn và bị mất cả cuộc sống lẫn đất đai của họ, còn Aldith có thể lại phải chạy trốn ra nước ngoài. Godwine và Edmund-hai con trai của Harold chạy sang Ireland và sau đó chiếm lấy Devon nhưng bị đánh bại bởi Brian của Brittany.

Cai trị như là vua của nước Anh

Vào cuối 1065, vua Edward the Confessor ốm nặng và rơi vào hôn mê mà không nói rõ rằng ông muốn ai kế vị. Ngày 05 tháng 1 năm 1066, theo quấn sách sửVita Ædwardi Regis, ông qua đời, nhưng trước khi chết ông lấy lại được ý thức trong một khoảng khắc ngắn ngủi và trao vợ góa của ông và vương quốc dưới sự bảo vệ “của Harold.” Đoạn tài liệu này cũng ghi chép một cách mơ hồ, tương tự như quấn Tapestry Bayeux, chỉ đơn giản mô tả rằng Edward chỉ vào một người đàn ông mà ông nghĩ rằng đó là Harold. Khi Witenagemot được triệu tập vào ngày hôm sau, họ chọn Harold làm người thừa kế và tổ chức lễ đăng quang ngay sau ngày 6 tháng Giêng, rất có thể buổi lễ đã được tổ chức tại Westminster Abbey , tuy nhiên không còn có bằng chứng để xác nhận điều này. Mặc dù các nguồn tài liệu của Norman sau đó cố mô tả rằng lễ đăng quang này được tổ chức một cách nhanh chóng, nhưng dường như nó được tiến hành bởi tất cả quý tộc của nước Anh đang có mặt tại Westminster để dự lễ Hiển Linh chứ không phải vì Harold cố gắng tìm cách tiếm ngôi vị.

Vào đầu tháng Giêng 1066, khi nghe rằng Harold đã lên ngôi vua, William-Công tước xứ Normandy ngay lập tức bắt đầu kế hoạch xâm lược bằng cách xây dựng một hạm đội gồm 700 tàu chiến và tàu vận tải tại Dives-sur-Mer trên bờ biển Normandy. Ban đầu, William không có được sự hỗ trợ cho cuộc xâm lược, nhưng khi ông này tuyên bố rằng Harold đã tuyên thệ trước các di tích thiêng liêng để hỗ trợ cho yêu cầu về ngai vàng của ông ta (William ) sau khi bị đắm tàu ở Ponthieu, William đã được phước lành của Giáo Hội và nhiê nhà quý tộc kéo đến để tham gia vào cuộc phục của ông. Phán đoán về cuộc xâm lược, Harold cho tập hợp quân của ông ở trên đảo Wight, nhưng do gió không thuận lợi nên hạm đội xâm lược vẫn ở lại cảng. Ngày 08 tháng 9 vì cạn nguồn cung cấp nên Harold phải giải tán quân đội và ông trở về London. Cùng ngày Hardrada Harald của Na Uy, người cũng tuyên bố đòi sở hữu vương miện nước Anh cùng với Tostig đã tiến hành một cuộc xâm lược và đổ bộ hạm đội của mình xuống sông Tyne.

Lúc này mục tiêu của cuộc xâm lược là thành phố Yorkshire, Harald Hardrada và Tostig đánh bại các bá tước người Anh-Edwin xứ Mercia và Morcar xứ Northumbria tại trận Fulford ở gần York vào ngày 20 tháng Chín. Họ đã lần lượt bị đánh bại và bị giết bởi quân đội của Harold năm ngày sau đó tại trận Stamford Bridge, Harold đã dẫn quân của mình về phía bắc trong một cuộc hành quân bốn ngày từ London và bắt gặp họ một cách bất ngờ. Theo Snorri Sturluson, trước khi trận đánh nổ ra có một người đàn ông dũng cảm cưỡi ngựa đến gặp Harald Hardrada và Tostig và nói với Tostig rằng sẽ trả lại lãnh địa bá tước cho ông ta nếu ông ta chịu rời bỏ Harald Hardrada. Khi Tostig hỏi Harold anh trai của ông sẽ sẵn sàng cho Harald Hardrada những thứ gì để ông ta chấm dứt những rắc rối của mình, người kỵ sĩ trả lời rằng ông sẽ cho Hardrada 7 tấc đất ( foot) vì ông này cao hơn những người đàn ông khác. Harald Hardrada rất có ấn tượng về người kỵ sĩ và hỏi Tostig tên của người đó, Tostig trả lời rằng người kỵ sĩ không ai khác mà chính là Harold Godwinson. Theo Henry xứ Huntingdon, thì Harold trả lời ” 6 tấc đất hoặc là nhiều hơn nữa nếu như hắn muốn, vì dường như là hắn cao hơn so với hầu hết mọi người “. Tuy nhiên câu chuyện này dường như chỉ là truyền thuyết.

Tostig Godwinson (anh/ em trai của vua Harold)

Tuổi trẻ

Tostig là con trai thứ ba của Godwin-Bá tước xứ Wes.s.e.x và Kent, và Gytha (mất năm 1053) với vợ là con gái của Thorgils Sprakaleg. Năm 1051, ông kết hôn với Judith, con gái của Bá tước Baldwin IV, em gái cùng cha khác mẹ của Baldwin V xứ Flanders và là dì của Matilda-người kết hôn với William the Conqueror. Quấn sách Domesday ghi 26 làng mạc, thị trấn được nắm giữ bởi bá tước Tostig tạo thành Manor của Hougun.

Bá tước của xứ Northumbria

Năm 1051, Tostig và cha của ông bị trục xuất khỏi nước Anh nhưng họ lại quay trở lại trong năm 1052. Ba năm sau đó trong năm 1055, Tostig trở thành Bá tước Northumbria sau cái chết của bá tước Siward.

Tostig dường như đã gặp một số khó khăn khi quản lý Northumbria. Ông không bao giờ thân thiện được với tầng lớp quý tộc ở Northumbrian, họ là hậu duệ của các Viking người Đan Mạch và những nạn nhân người Anglo Saxon của cuộc xâm lược cuối cùng của người Bắc Âu. Tostig được cho là đã nặng tay với những người chống đối lại sự cai trị của mình, bao gồm cả các vụ trừ khử một số thành viên trong các gia tộc hàng đầu của Northumbrian. Vào cuối năm 1063 hoặc đầu 1064, Tostig đã cho ám sát Gamal-con trai của Orm và Ulf-con trai của Dolfin, bị khi họ đến thăm ông trong để tiến hành đàn phán. Ngoài ra quấnEdwardi Vita cũng nói rằng ông này đã “đà áp [các những người Northumbrians] với cái ách nặng nề của “sự cai trị của ông.

Ông cũng thường xuyên vắng mặt tại triều đình của Vua Edward ở phía nam và có thể thấy ông cũng thiếu nhiệt tình trong việc chỉ huy để chống lại các đợt đột kích của người Scot. Vua của họ là một người bạn cá nhân của Tostig và Tostig rất lạ là dường như không muốn tuyển mộ binh lính địa phương để chống lại họ. Ông muốn sử dụng một lực lượng mạnh mẽ bao gồm lính đánh thuê người Đan Mạch làm lực lượng chính của ông, một chính sách tốn kém và gây bất mãn (chỉ huy của lực lượng lính đánh thuê này sau đó đã bị tàn sát bởi quân phiến loạn). Những thành kiến về mặt địa phương có thể cũng đã đóng một phần. Tostig là người đến từ miền nam nước Anh, một nền văn hóa khác biệt một cách rõ rệt với phía bắc, mà đã không có một bá tước miền Nam nào cai trị ở đó trong một thời gian dài. Vào năm 1063, nền chính trị địa phương của Northumbria vẫn còn chìm trong sự lúng túng, danh tiếng của ông dường như bị xuy giảm mạnh. Nhiều người trong số các cư dân của Northumbria là người Đan Mạch, những người thường phải trả ít thuế hơn so với các thành phần khác của nước Anh. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tại xứ Wales nổ ra, Tostig là một chỉ huy quan trọng trong cuộc chiến khi tấn công từ phía bắc, trong khi Harold-anh trai của ông lại hành quân từ phía nam.

Tostig Godwinson bị truất quyền bởi Harold-anh trai của ông và các thegns của Northumbria

Ngày 03 tháng 10 năm 1065, các thegns ( các khu quân sự được tổ chức bởi người Saxon) của Yorkshire và các phần còn lại của Yorkshire tiến xuống York và chiếm đóng thành phố. Họ giết những người ủng hộ và các chỉ huy quân sự của Tostig, rồi sau đó tuyên bố loại Tostig ra ngoài vòng pháp luật vì những hành động bất hợp pháp của ông ta và chọn Morcar-em trai của Edwin, Bá tước xứ Mercia là bá tước của họ. Các phiến quân miền Bắc đã hành quân về phía nam để tăng áp lực với vua Edward về trường hợp của họ với. Họ được tham gia bởi Earl Edwin và lực lượng của ông này tại Northampton. Ở đó, họ đã được trả lời bởi Bá tước Harold, người được gửi đến bởi vua Edward để thương lượng với họ và do đó đã không mang theo lực lượng của mình. Sau khi Harold, vào lúc này đã trở thành cánh tay phải của nhà vua, đã nói với các phiến quân tại Northampton rằng ông nhận thấy Tostig sẽ không thể được tiếp tục cai trị ở Northumbria. Khi ông trở lại Oxford, nơi mà các hội đồng hoàng gia đang họp mặt vào ngày 28 tháng 10, ông đã có thể đạt được quyết tâm của mình.

Lưu vong và nổi loạn

Harold Godwinson thuyết phục vua Edward the Confessor đồng ý với các yêu cầu của các phiến quân. Tostig bị đặt ra ngoài vòng pháp luật một thời gian ngắn sau đó, có thể là trong đầu tháng 11, bởi vì ông đã từ chối chấp nhận bị kiểm soát bởi Edward. Sự kiện này dẫn đến một sự đối đầu chết người và tình trạng thù địch giữa hai anh em nhà Godwinsons. Tại một cuộc họp của nhà vua và trước hội đồng của ông ta, Tostig công khai cáo buộc rằng Harold đã kích động các cuộc nổi loạn. Harold lúc này quan tâm đến việc thống nhất nước Anh để đối mặt với mối đe dọa nghiêm trọng từ William xứ Normandy, người đã công khai tuyên bố ý định của mình để lấy ngôi vua Anh. Khả năng là Harold đã cho lưu đày em trai của mình để đảm bảo hòa bình và sự trung thành ở phía bắc. Tuy nhiên Tostig vẫn còn hoài nghi và âm mưu trả thù.

Tostig đã xuống tàu cùng với gia đình và một số thegns trung thành và quy phục người anh rể của minh-Bá tước Baldwin V. Ông thậm chí đã cố gắng để tạo thành một liên minh với William. Baldwin cung cấp cho ông ta một hạm đội và ông đã đổ bộ xuống đảo Wight trong tháng 5 năm 1066, nơi ông ta thu thập tiền bạc và các đồ hậu cần. Ông đã đột kích vào các bờ biển ở xa như Sandwich nhưng đã buộc phải rút lui khi vua Harold điều động lục quân và hải quân đến ứng cứu. Ông chuyển về phía bắc và sau một nỗ lực không thành công để có kích động Gyrth-anh trai của ông tham gia với mình, ông đã đột kích vào Norfolk và Lincolnshire. Các Bá tước Edwin và Morcar đã đánh bại ông ta một cách triệt để, bị người của mình bỏ rơi, ông đã trốn sang Scotland đê gặp người bạn chí thân của mình-vua Malcolm III của Scotland . Tostig đã dành mùa hè năm 1066 ở Scotland.

Ông đã bắt liên lạc với vua Harald III Hardrada của Na Uy và thuyết phục ông này tiến hành xâm lược nước Anh. Theo các câu truyện dân gian của Bắc Âu thì ông khởi hành đi Na Uy và đã tạo được ấn tượng rất tốt đẹp với vua Na Uy và triều đình của ông này, ông ( Tostig) đã cố gắng để tạo ảnh hưởng một cách quyết định đến Harald-người lúc này không tỏ ra nhiệt tình lắm trong việc huy động binh lính để chiếm ngôi vị nước Anh, vì ông này ( Harald III) cũng đang sa vào một cuộc chiến kéo dài bất phân thắng bại với người Đan Mạch. Với viện binh của Hardrada, Tostig dong buồm đến Humber và đánh bại Morcar và Edwin tại Gate Fulford. Sau đó với sự xuất hiện bất thình lình của vua Harold, Tostig và Harald III đều bị giết chết trong trận Stamford Bridge

Địa điểm Trận đánh

Không có ngôi làng nào ở Stamford Bridge trong năm 1066 và ngay cả trong năm 1086 khi quấn sách Domesday được biên soạn. Cái tên này được đặt và mô tả qua các địa điểm trên sông Derwent được bắt nguồn từ một sự kết hợp của một chiếc pháo đài đá cũ nát và một cây cầu. Tại vị trí của ngôi làng hiện nay, trong lòng sông có một vệt đá lộ ra trên đó dòng sông chảy như một thác nước nhỏ. Ở chỗ có mực nước thấp nhất người ta có thể dễ dàng vượt qua con sông vào thời điểm đó bởi lội bộ hoặc bằng cưỡi ngựa.

Harald Hardrada III của Nauy, người Viking cuối cùng

Harald Sigurdsson (1015 – 25 tháng 9 năm 1066), sau đó nhận danh hiệu Hardrada là vua của Na Uy từ năm 1047 cho đến năm 1066. Ông cũng tự tuyên bố là vua của Đan Mạch cho đến năm 1064, sau khi thường xuyên bị đánh bại bởi quân đội của vua Sweyn củaĐan Mạch và buộc ông phải rời khỏi đất nước này. Nhiều chi tiết về cuộc sống của ông được ghi chép trong quấn Heimskringla và các nguồn Iceland khác. Trong số những nguồn tài liệu tiếng Anh, ông thường nhớ bởi cuộc xâm lược của ông vào nước Anh năm 1066. Cái chết của Harald thường được ghi nhận là sự kết thúc của thời đại Viking.

Nguồn gốc dòng họ, cuộc sống ban đầu và lang thang ở phía Đông

Harald là em út trong số ba người anh em cùng cha khác mẹ của Vua Olaf II do Asta Gudbrandsdatter sinh ra. Cha ông-Sigurd Syr là người chồng thứ hai của Asta. Theo các nguồn tư liệu từ Iceland, đặc biệt là quấn Heimskringla, công bố rằng Sigurd, giống như cha của Olaf, là chắt của vua Harald I Na Uy (theo quấn phả hệ Harald Fairhair). Tuy nhiên, nhiều học giả hiện đại cho rằng tổ tiên của Harald, cùng với các phần khác của phả hệ Fairhair, được sáng tạo ra và phản ánh kỳ vọng về chính trị xã hội trong thời gian của các tác giả hơn là phản ánh những sự ki

0