18/06/2018, 11:14

Chương 9: Vùng đất ven biển phía nam

Khu vực giới hạn phía nam của Hoa Kỳ có thể được chia thành hai vùng tương đương nhau. Một là vùng Biên giới Tây Nam (Southwest Border), có chung đường biên giới dài với Mexico và bao gồm một vùng đất rộng lớn, chịu nhiều ảnh hưởng của vùng đất này. Vùng còn lại, mà chúng ta nói đến ở đây, chạy ...

Khu vực giới hạn phía nam của Hoa Kỳ có thể được chia thành hai vùng tương đương nhau. Một là vùng Biên giới Tây Nam (Southwest Border), có chung đường biên giới dài với Mexico và bao gồm một vùng đất rộng lớn, chịu nhiều ảnh hưởng của vùng đất này. Vùng còn lại, mà chúng ta nói đến ở đây, chạy dài theo đường bờ biển đi về phía đông, từ cửa sông Rio Grande ở Texas tới Bắc Carolina, trong đó có cả bán đảo Florida (bản đồ 8). Cả hai vùng đất này đều nằm ở phía nam của vùng và có chung một phần nhỏ ở phía nam Texas, nhưng Southern Coastland rất khác biệt so với Southwest Border, giống như bất kỳ hai khu vực cận kề nào khác ở nước Mỹ.

Southern Coastland khác biệt bởi hai lý do chính. Thứ nhất, khu vực này có một môi trường ẩm ướt cận nhiệt đới. Những vùng nước ấm của Vịnh Mexico cũng góp phần gây ảnh hưởng mạnh đối với khí hậu miền ven biển. Khu vực này thật sự có sức hấp dẫn khách tham quan và những cư dân tiềm năng, và ngành nông nghiệp ở đây cũng rất đặc biệt do môi trường của khu vực.

Thứ hai, vai trò của khu vực này trong việc tạo lập những hình mẫu thương mại của Hoa Kỳ với những nước khác trên thế giới, và hình mẫu công nghiệp đặc biệt của nó cũng giúp cho việc xác định khu vực.

Một yếu tố thứ ba liên quan đến đặc điểm của khu vực này là vị trí của nó giữa Deep South và Mỹ Latinh. ảnh hưởng văn hóa của Mỹ Latinh lên khu vực này đã suy giảm trong một thời gian dài do mặt nước phân tách phần lớn dân cư của Southern Coastland này với những nước láng giềng. Nhưng trong những năm gần đây, sự gia tăng dân số gốc Cuba ở miền Nam Florida và sự tăng cường buôn bán giữa châu Mỹ Latinh và Mỹ đã làm nổi bật nét độc đáo của khu vực này.

Môi trường cận nhiệt đới

Trong số hàng loạt những yếu tố tạo nên môi trường tự nhiên, khí hậu có ảnh hưởng lớn nhất lên địa lý nhân văn của Southern Coastland. Một vùng khí hậu ẩm cận nhiệt đới, mùa trồng trọt kéo dài, nhiệt độ mùa đông ôn hòa, những mùa hè ấm áp, ẩm ướt, tất cả đã góp phần tạo ra những hình mẫu hoạt động của con người gắn liền với khu vực này.

Chỉ có ở phía Nam California, Tây Nam Arizona và Hawaii là mùa trồng trọt có độ dài trung bình tương đương với mùa trồng trọt ở Southern Coastland. Mùa trồng trọt được tính kể từ đợt sương giá lạnh thấu xương cuối cùng vào mùa xuân cho tới đợt sương giá đầu tiên vào mùa thu, hầu như toàn bộ khu vực đều trải qua 9 tháng, hoặc dài hơn thế, hứa hẹn cho việc phát triển trồng trọt. Ngoài ra, gần như cả khu vực đều nhận được một lượng mưa dồi dào, đủ cung cấp cho hầu hết các hoạt động nông nghiệp – lượng nước mưa trung bình vượt trên 125 cm, chủ yếu nhận được vào mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10, khi mà ánh nắng mặt trời chan hòa và nhiệt độ ấm áp thúc đẩy sự phát triển của cây cối.

Những điều kiện khí hậu này đã đem lại hai kết quả quan trọng. Kết quả thứ nhất là, trong chừng mực mà các điều kiện nông nghiệp đều được thỏa mãn như đất đai màu mỡ, hệ thống tiêu nước phù hợp và diệt trừ được sâu bệnh thì những người nông dân có thể trồng cây mà không phải bận tâm về những đợt sương giá cho tới tận cuối mùa thu. ở một vài nơi, người ta có thể thu hoạch được hai vụ trong một mùa trồng trọt, và thậm chí một số nông dân chuyên trồng rau còn đạt được nhiều hơn. Kết quả thứ hai, và thậm chí còn quan trọng hơn, đó là cơ hội trồng trọt những cây đặc sản mà chỉ có thể trồng được ở một vài vùng khác của Hoa Kỳ.

Việc trồng các loại cây thuộc họ có múi đóng một vai trò đặc biệt quan trọng cho nền kinh tế của Florida kể từ khi các loại cây này được những người gốc Tây Ban Nha lần đầu tiên đưa vào khu vực vào thế kỷ thứ 16, mặc dù ngày nay những khu vực trồng trọt chủ yếu đã dần dần chuyển về phía nam dọc theo phần nội địa của bán đảo này.

Cam và bưởi là hai loại quả quan trọng nhất trong số 7 loại quả chính thuộc họ có múi được trồng ở bang này. Năm 1992, hơn 6 triệu tấn cam đã được thu hoạch. Từ năm 1945, một lượng ngày càng tăng của cam – hiện nay khoảng 80% - được đưa vào chế biến chứ không bán dưới dạng cam tươi. Với việc chế biến các quả cam (chủ yếu tập trung vào làm đông lạnh) một ngành công nghiệp có quy mô đã phát triển ở Florida, phân phối đều những lợi ích thu được từ vụ mùa đặc sản này cho một lượng lớn dân cư của tiểu bang, hơn là nếu chỉ xuất cam tươi theo đường tàu biển về phía bắc. Ngoài ra, việc chế biến này giúp cho cam được bán quanh năm thay vì hạn chế việc thu lợi nhuận trong một thời kỳ thu hoạch ngắn ngủi.

Bưởi được trồng ở vùng gần giống với vùng trồng cam, nhưng tổng cầu thấp hơn và sản lượng chỉ bằng khoảng 1/4 sản lượng của vụ cam. Việc trồng cam và bưởi với số lượng lớn, có sử dụng hệ thống tưới nước ngầm, cũng được tiến hành tại vùng cực nam của Texas.

Do các loại quả thuộc họ có múi là những cây thân gỗ, nên một phần lớn chi phí sản xuất của chúng gắn với việc thu hoạch. Loại quả này cần phải được hái bằng tay, thường phải trèo lên tận đỉnh của một chiếc thang dài. Các vụ thu hoạch loại trái cây có múi này thường cần một lượng lớn lao động ngắn hạn, hàng năm đã thu hút hàng ngàn dân lao động di cư tới những vườn cây ăn quả dày đặc để làm công việc tay chân vất vả này.

Sản xuất mía là đặc quyền của khu vực Southern Coastland ở lục địa Hoa Kỳ. Mía là cây lưu niên, phải hơn 1 năm mới có thể thu hoạch được và không chịu được sương giá. Ngoài ra, cây mía có những yêu cầu cao về nước – lượng nước mưa tối thiểu vào khoảng 125cm/năm. Cả 2 yêu cầu về nhiệt độ và về nước dường như đều cản trở việc trồng cây mía ở lục địa Hoa Kỳ, trừ phi có hệ thống tưới tiêu, nhưng cây mía cũng đã được trồng khá nhiều ở Louisiana và Florida.

Cây lúa dễ dãi hơn so với cây mía, đối với những yêu cầu về khí hậu. Được cung cấp đủ nước, cây lúa sẽ chín trong vòng một mùa trồng trọt với tốc độ tương xứng với lượng nhiệt mà nó nhận được trong suốt mùa hè. Tại Southern Coastland, cây lúa được trồng ở Louisiana và Texas và có sử dụng hệ thống tưới tiêu.

Ngoài những cây trồng đặc sản, nhiều nơi của Southern Coastland là những khu vực trồng rau hàng đầu của đất nước. Hầu hết rau tươi được bán trong suốt mùa đông ở các chợ thành thị đều được trồng ở Florida và ở các vùng rìa phía nam của phần bên kia của bang, phía giáp với biển và vùng bờ Vịnh. Ngoài ra, những nỗ lực trong việc diệt trừ những con bọ rệp gây nên bệnh sốt gia súc, nâng cấp các cánh đồng chăn thả, và lai giống bò Brahman chịu rét tốt với giống bò nội địa đã được cải thiện, tất cả đã giúp cho ngành công nghiệp thịt bò của Florida trở thành một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế của bang.

Mặc dù các điều kiện khí hậu trong khu vực thuận lợi cho nông nghiệp, các điều kiện và chất lượng đất ở đây rất khác nhau. Các lớp đất có nhiều loại, từ đất màu mỡ nhiều mùn nhưng ít được tưới tiêu của vùng biển Louisiana và vùng châu thổ Mississippi tới những lớp đất toàn bằng cát ở vùng bắc và trung tâm Florida. Các dạng đất càng trở nên phức tạp hơn, với những vùng bờ Vịnh của Florida và khu vực mở rộng Everglades của bang chủ yếu là đất bùn lầy hoặc đất cát khô cằn, trong khi các vùng ven biển của Texas, Georgia và Nam Carolina hoặc là đất đầm lầy hoặc là đất cát, phụ thuộc vào các điều kiện về vị trí. Các vùng đất mùn ở Louisiana đã chứng minh rằng chúng đem lại năng suất rất cao, đặc biệt là cho cây mía và cây lúa nếu các loại cây này được tưới đủ nước.

Trái lại, phần lớn khu vực còn lại của Southern Coastland được lợi từ việc tưới tiêu nhiều. Chẳng hạn, những cao nguyên trung tâm Florida được cấu tạo bởi đất cát với lượng nước có được ở mức tương đối khan hiếm hoặc rất khan hiếm. Khu vực trồng các loại cây có múi và các khu vực trồng hoa màu có năng suất cao có thể đạt mức sản lượng hàng năm có giá trị cao hơn gấp 10 lần nếu các vụ mùa được tưới đủ nước so với khi chỉ trông chờ vào mưa như là một nguồn cung cấp nước duy nhất. Với mức độ cải thiện có thể này và với khả năng công nghệ sẵn có để đạt được thành công, môi trường cận nhiệt đới đặc biệt này của đất ven biển đã phát triển về mặt nông nghiệp vượt xa nhiều nơi nằm sâu trong đất liền của vùng đông nam.

Giải trí và nghỉ ngơi cũng là những ngành kinh doanh chính của Southern Coastland. Ngay từ đầu những năm 1950, tầm quan trọng của những yếu tố tiện nghi trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng khu vực của Florida và của vùng Gulf Coast đã tỏ ra rõ ràng; kể từ đó những ảnh hưởng của chúng ngày càng tăng lên.

Một lợi thế kinh tế trực tiếp cũng được tạo ra bởi các hoạt động du lịch trong khu vực. Nằm giữa New Orleans, Louisiana và Mobile, Alabama, vùng ven biển của Mississippi đã trải qua một sự bùng nổ về du lịch với việc xây dựng hàng loạt các khách sạn, nhà nghỉ, cửa hàng ăn và các bãi biển nhân tạo.

Tuy nhiên, Florida là nơi có sức hút du lịch mạnh mẽ nhất trong khu vực. Với những bãi biển dài, giáp cả Đại Tây Dương và Vịnh Mexico, bang này đã thu hút những khách đi nghỉ đông trong nhiều thập niên qua. Nhu cầu về những khu nghỉ tiện nghi của vùng cận nhiệt đới đã trở nên mạnh mẽ đến mức việc phát triển các khu vui chơi giải trí đã lan rộng từ phía bắc dọc theo bờ Đại Tây Dương tới tận vùng ven biển Georgia và vùng ven biển phía Nam và Bắc Carolina.

Không phải tất cả sự hấp dẫn khách du lịch đều phụ thuộc vào những nguồn lực thiên nhiên tạo ra. Việc xây dựng Thế giới Disney đã đem lại hàng triệu khách du lịch từ bên ngoài bang tới vùng nam - trung tâm Florida. Nhiều điểm vui chơi mới khác đã được xây dựng tại vùng này của bang, đặc biệt là ở xung quanh Orlando, do sự hứa hẹn tốt đẹp về giao thông và khả năng chi tiêu du lịch. Tổ hợp giải trí ở trung tâm Florida này được dự đoán sẽ trở thành điểm nối trong đất liền giữa các cụm đô thị ven biển phía tây và phía đông của Florida.

Mặc dù môi trường cận nhiệt của Southern Coastland có rất nhiều thuận lợi, nó vẫn không phải hoàn toàn không có điểm gì bất lợi. Về mặt nông nghiệp, việc thành công trong trồng hoa màu đã khích lệ các nhà trồng trọt cố gắng trồng các vụ mùa quanh năm. Vì vậy khi thỉnh thoảng có đợt sương giá giữa mùa đông lan tới phía nam Florida, những thiệt hại vụ mùa đáng kể có thể xảy ra. Tương tự như vậy, các loại cây có múi của Florida được thu hoạch vào khoảng giữa tháng 10 và cuối tháng 5, và một đợt băng giá mùa đông có thể huỷ hoại các trái cây đang chín. Những đợt lạnh mùa đông không đúng lúc này cũng đem đến một sự thiệt hại to lớn, ít được mọi người biết đến hơn, cho những người trồng mía ở Louisiana.

Thất thường hơn, rải rác hơn, quyết liệt hơn và phá huỷ mạnh hơn theo từng vùng là những cơn bão dữ dội trong khu vực – những cơn bão với tâm xoáy được tạo ra bởi nguồn năng lượng mặt trời nóng bỏng thiêu đốt những vùng nước ấm. Bởi vì những cơn bão này được chấp nhận như một đặc điểm của khu vực, và bởi vì sẵn có các vệ tinh thời tiết và các thiết bị dự báo, việc chuẩn bị để chống đỡ những đợt gió và mưa mạnh nhất có thể được tiến hành ngay từ lúc ban đầu. Và vì những thiệt hại nặng nề nhất thường được giới hạn trong một diện tương đối hẹp do các cơn bão di chuyển đến những vùng gần biển, nên nhiều vùng trong khu vực không bị ảnh hưởng trong nhiều năm liền. Mặc khác, do các cơn bão cũng rất khác nhau về diễn biến và mức độ, việc định cư vẫn tiếp tục phát triển ra các vùng ven biển bất chấp những lời cảnh báo rằng những khu vực này luôn phải đối đầu với những mối hiểm họa về một cơn bão lớn.

Trên vùng rìa lục địa: thương mại

Dọc bờ biển của Vịnh Mexico chỉ có một vài hải cảng có chất lượng cao, thích hợp cho những hoạt động thương mại với quy mô lớn. Là một dải bờ biển nông, mới xuất hiện, bao gồm nhiều bãi tắm có mức sử dụng cao, phần lớn vùng biển này nằm tựa lưng vào vùng đầm lầy rộng lớn hoặc bị che khuất một phần bởi những cồn cát ngầm ở cửa vịnh. Nếu như có thể tạo ra một lối đi thông qua các khoảng trống ở các cồn cát ngầm thì người ta sẽ tìm được chỗ che chở cho tàu bè khỏi các đợt biển động. Việc đi tàu dọc bờ biển đã sử dụng phương thức bảo vệ này trong hệ thống đường biển đi lại giữa các vùng từ Boston tới Texas. Tuy nhiên, do phần lớn các vịnh nằm ở phía sau các cồn cát ngầm quá nông nên khó có thể trở thành một chỗ thả neo tốt cho các con tàu chuyên buôn bán xuyên đại dương, phần lớn các cảng biển lớn hơn đều được xây dựng sâu vào phía trong đất liền một đoạn, bên rìa những cửa sông lớn dọc bờ biển hoặc nằm ở những cửa sông đổ vào Vịnh Mexico hoặc đổ ra Đại Tây Dương.

Mỗi một vịnh trong số những vịnh cung cấp các phương tiện cảng tốt, đều là nơi đổ ra của một con sông, chảy qua một phần lục địa, nhưng khả năng đi lại của tàu bè trên các dòng sông này rất khác nhau. Tất cả chúng đều hỗ trợ cho việc mở rộng định cư, và ở một vài nơi vẫn còn có các xà lan nhỏ đi lại trên sông. Tất cả chúng đều có đường đi vào lục địa, được củng cố bởi những tuyến đường sắt nối liền với những thị trường lớn ở trong đất liền, hoặc con sông chảy ra cảng ven biển đã được nâng cấp tạo điều kiện tốt hơn cho tàu bè đi lại. Chẳng hạn, Jacksonville từ lâu đã là ga cuối cùng của những tuyến đường sắt chạy từ Georgia tới Florida. Nó còn là trung tâm của phần nội địa được mở rộng về hướng tây tới vùng “quai chảo” của bang và về hướng nam tới vùng cao nguyên trung tâm trù phú về nông nghiệp. Kết quả là Jacksonville đã được xây dựng vững chắc ngay cả trước khi những tuyến đường cao tốc củng cố lại cơ sở địa phương của nó cho sự tăng trưởng.

New Orleans nổi bật hơn các địa điểm khác xét về khả năng đi lại. Trước đây, nó vừa là trạm kiểm soát vừa là trung tâm vận chuyển bằng tầu thủy của toàn bộ hệ thống sông Mississippi. Các tàu hơi nước chạy bằng guồng được thiết kế cho những nơi nước nông có thể đi lại được trên sông Mississippi (với một sự cẩn trọng) tới tận phía bắc, vào tới tận vùng đất trung tâm nông nghiệp. Các phụ lưu chính của con sông đã kéo dài hệ thống đường thủy một chiều, về hướng tây tới tận vùng Great Plains và về cả hướng đông tới Trọng điểm Chế tạo. Vị trí của New Orleans, nằm trong khu vực con sông lớn uốn khúc và trên một vùng châu thổ thấp, chỉ cao hơn mực nước biển trung bình có vài mét, có nghĩa là lũ lụt là một sự đe dọa hàng năm thường xảy ra. Nhưng vị trí của thành phố có một lợi thế to lớn đối với những thứ gắn liền với thương mại, khiến cho dân số của thành phố đã tăng lên nhanh chóng vào đầu thế kỷ thứ 19 và vẫn đang giữ ở mức độ cao.

Di sản thời kỳ là thuộc địa của Pháp ở New Orleans được gìn giữ một cách cẩn thận tại khu vực doanh trại Pháp trong thành phố. Và một sự pha trộn đặc sắc của phong cách nấu nướng kiểu Creole, Cajun của địa phương với phong cách nấu nướng kiểu Âu, sự phong phú của nhạc jazz và các cách thức biểu diễn, lối kiến trúc của thế kỷ thứ 18 đã thu hút hàng triệu du khách tới thành phố. Một khách thăm quan tới New Orleans có thể sẽ ngạc nhiên trước sự đi lại nhộn nhịp của xà lan và tàu trên sông (đây là cảng đông đúc nhất ở Mỹ) và bởi ngành công nghiệp nặng ở đây được hỗ trợ bởi hệ thống giao thông này.

Một thành phố chính khác nằm ở phía tây của Southern Coastland, lớn nhất trong toàn khu vực cho tới năm 1970, là một sự tương phải với New Orleans. Houston thuộc Texas là một thành phố mới về nhiều phương diện. Khởi điểm đây không phải là một thành phố cảng, nhưng nó đã được xây dựng thành một thành phố cảng (bắt đầu vào năm 1873) và nhờ có sự nhiều lần nâng cấp đối với Kênh Tàu Houston đi xuyên qua Vịnh nông Galveston. Những tuyến đường nối với cảng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của thành phố vào cuối những năm 1940, cùng với sự phát triển của ngành hóa dầu địa phương.

Những chủ đề chính đặc trưng cho Southern Coastland có thể được khám phá thông qua sự biến đổi độc đáo về văn hóa của khu vực rộng lớn hơn – Miami thuộc Florida.

Trong suốt những năm 1950, sự hấp dẫn của Miami vẫn được coi là những đặc trưng có tính thụ động của vị trí. Chỉ hưởng thụ những gì sẵn có ở đấy đã là quá đủ. Thời tiết của thành phố ấm áp trong suốt mùa đông; vị trí ven biển giúp mọi người dễ dàng đến với các bãi biển chạy dài và mặt nước ấm áp xứ nhiệt đới; hải cảng chỉ cần một sự nâng cấp nhỏ để giúp cho các đoàn tàu du lịch dễ dàng đi lại từ Mỹ tới những hòn đảo Caribê gần đó. Mãi cho tới tận những năm 1960, vị trí của Miami nằm ở điểm cực nam của phần ven lục địa, mới giúp cho nó hội nhập hoàn toàn vào hệ thống tài chính và thương mại của Tây bán cầu.

Điểm mấu chốt dẫn tới sự thay đổi trong việc tận dụng vị trí địa lý của Miami là sự di dân của những người Cuba. Từ năm 1959 tới năm 1981, dân số Mỹ Latinh của vùng Miami Lớn (khoảng 85% trong số đó là người gốc Cuba) đã tăng từ 25.000 người lên tới gần 700.000 người.

Dân số gốc Cuba đã tham gia một cách tương đối nhanh chóng vào các hoạt động tài chính, thương mại và buôn bán. Tốc độ phát triển nhanh với số lượng lớn người đến định cư ở Miami đã tạo ra một thị trường “ăn liền” cho thành phố. Các doanh nghiệp ở các vùng khác của nước Mỹ muốn mở rộng các hoạt động của họ tới các thị trường Mỹ Latinh đã bắt đầu chuyển ít nhất một phần các hoạt động trong nước của họ tới Miami để tuyển dụng những người Cuba nói tiếng Tây Ban Nha. Các mối liên hệ kinh doanh xuyên Caribê cùng với những dân di cư gốc Cuba cũng thu hút những mối quan tâm của những doanh nghiệp Anh. Rất nhiều lần theo nhiều cách và trong hàng thập niên mô hình này đã khai phá phần địa lý tự nhiên của Miami về phía nam.

Phát triển công nghiệp

Phần ranh giới địa lý thật sự của lục địa Bắc Mỹ không đồng nhất với phần bờ biển. Thềm lục địa thấp hơn mực nước biển được mở rộng ra bên ngoài đường bờ biển. Trong một vài trường hợp, thềm lục địa chỉ mở rộng ra có vài kilômét, nhưng dọc theo gần hết phần bờ Đại Tây Dương và trong Vịnh Mexico, đường viền của thềm lục địa này có thể nằm cách bờ hơn 80 km. Việc khai thác khoáng sản dọc theo bờ biển từ con sông Rio Grande tới cửa sông Mississippi dẫn tới việc khám phá ra hàng loạt mỏ dầu và khí ga lớn, cả ở gần bờ lẫn ngoài khơi.

Khi mỏ dầu của Gulf Coast được đưa vào khai thác ở đầu những năm 1900, Houston vẫn còn là một thành phố với quy mô khiêm tốn có dưới 75.000 dân. Khi cuộc điều tra dân số được tiến hành vào năm 1990, thành phố đã phát triển lên mức 1,6 triệu dân, đứng thứ tư ở nước Mỹ sau New York, Los Angeles và Chicago. Nằm ở đoạn giữa của hình vòng cung chạy dài dọc bờ biển từ sông Mississippi tới biên giới Mexico, Houston còn nằm tại phần đỉnh tam giác ven biển, hợp với các thành phố Dallas - Fort Worth và San Antonio tạo thành khu vực tam giác Texas. Với thành phố Dallas xếp thứ 8 về đông dân trong năm 1990 và San Antonio xếp thứ 10, những mối liên hệ với những trung tâm tăng trưởng chính trong nội địa và với những nhà xuất khẩu bông lớn bắt nguồn từ miền đông Texas cũng đã góp phần tạo nên thế mạnh về mặt vị trí cho Houston.

Việc tìm kiếm thêm các mỏ dầu lửa dọc theo bờ biển của Gulf Coast được mở rộng về phía biển từ trước những năm 1950. Thành công của các công ty dầu lửa đã làm nảy sinh những vấn đề mới, ngay cả khi các khó khăn về kinh tế tạm thời được dịu bớt nhờ có những mỏ dầu mới được khám phá. Trong việc khắc phục những khó khăn công nghệ về khoan và hút dầu có sử dụng những giàn khoan ở ngoài khơi xa, những yêu sách trái ngược nhau giữa chính quyền bang và liên bang về quyền sử dụng các nguồn lực của thềm lục địa đã bùng nổ. Kết quả của hàng loạt những phiên toà phức tạp là một sự phán quyết khác nhau: Florida và Texas được chấp thuận cho phép sử dụng tới 15,3 km hướng ra biển, trong khi Louisiana, Alabama và Mississippi bị giới hạn ở mức 4,8 km.

Việc tăng lên không ngừng của nhu cầu tiêu dùng nội địa về dầu mỏ, khí ga và các sản phẩm dầu khí đã khiến cho chính quyền liên bang trong đầu những năm 1970 phải mở đấu thầu thương mại các vùng biển ở Biloxi, Mississippi và Vịnh Tampa, Florida, và bắt đầu từ đầu những năm 1980, ở ngoài khơi Đại Tây Dương.

Các mỏ dầu được mở rộng dọc theo bờ biển từ bắc Mexico đến sông Mississippi nhiều đến nỗi tầm quan trọng của nguồn tài nguyên này của Southern Coastland được coi là một sự ưu tiên mang tính quốc gia ngay cả nếu các mỏ dầu này là nguồn khoáng sản duy nhất của khu vực. Texas và Louisiana hiện là hai trong số ba bang dẫn đầu về việc khai thác dầu mỏ (cùng với Alaska). Và trong khi Texas và Louisiana có các mỏ lớn đang được khai thác nằm sâu trong đất liền, các mỏ ven biển vẫn là những nguồn đóng góp chính cho tổng sản lượng dầu được khai thác ở cả hai bang.

Những mỏ khí đốt nhiều vô kể nằm rải rác ở vùng Gulf Coast đều nằm trong vòng cung dài của các mỏ dầu khí trong khu vực. Các đường ống dẫn khí từ các trung tâm khai thác chính ở ven biển tỏa đi đến những điểm tiêu thụ hàng đầu trên khắp đất nước và trong vùng Trọng điểm Chế tạo.

Ngoài ra, những cấu tạo địa lý của vùng bờ biển Texas và Louisiana không chỉ chứa dầu mỏ và khí đốt mà còn có hai nguồn khoáng sản có giá trị khác - lưu huỳnh và muối mỏ. Lớp đá lồi lõm phía dưới lớp đất bề mặt được tìm thấy ở những mỏ tích tụ dầu lửa và khí đốt mang lại hiệu quả kinh tế. Các lớp đá này được tạo nên là do áp lực đẩy lên dần dần của những mỏ muối lớn. ít giá trị hơn nhiều so với bất cứ nguồn khoáng sản nào khác, nhưng muối mỏ lại được khai thác với số lượng lớn ở vùng tây nam Louisiana. Lưu huỳnh, có giá trị hơn muối, được tìm thấy ở lớp đá bao phủ phía ngoài của nhiều mỏ muối. Các mỏ lưu huỳnh lớn ở Beaumont, Texas, và dọc ranh giới bang gần Hồ Charles, Louisiana, đã đáp ứng tất cả các nhu cầu của Hoa Kỳ. Các mỏ khác ở sâu trong đất liền và dưới thềm lục địa cho thấy sự dồi dào của nguồn khoáng sản này trong nhiều năm. Việc khai thác photphat từ những mỏ lớn ở Florida cũng có tầm quan trọng quốc gia.

Việc lấy dầu mỏ và khí ga lên, tự bản thân chúng, thường không kéo theo một sự tăng trưởng mạnh về đô thị và công nghiệp của địa phương. Quá trình thăm dò và khoan đòi hỏi phải có những thiết bị chuyên dụng và đắt tiền nhưng rất nhiều hoạt động khai thác mỏ không đòi hỏi phải có một số lượng lớn nguyên vật liệu và lao động phụ trợ. Tuy nhiên, việc khai thác dầu mỏ với một số lượng lớn có thể tạo ra nguồn vốn khổng lồ trong một thời gian ngắn và lượng tài nguyên tích lũy được của địa phương đã thu hút nhiều ngành công nghiệp khác nhau sử dụng các khoáng sản ở gần nơi sản xuất của họ. Các nhà máy lọc dầu đã được xây dựng ở bên ngoài tất cả các cảng chính từ Corpus Christi, Texas, cho tới Pascagoula, Mississippi, với sự tập trung nhiều nhất ở quanh Houston, Beaumont, và cảng Arthur ở Texas.

Những ngành công nghiệp mà sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào đầu ra của nhà máy lọc dầu, chẳng hạn như hóa dầu, có ảnh hưởng lớn hơn đến sự phát triển. Các sản phẩm từ khí ga và dầu mỏ được sử dụng như những yếu tố hóa chất cấu thành nên nhiều sản phẩm lớn hơn. Các mặt hàng từ những đồ bằng nhựa dẻo, sơn màu, hóa phẩm chống đông cho tới phân bón, thuốc trừ sâu và các loại thuốc men đều bắt nguồn từ các nhà máy hóa chất xây dựng dọc phần bờ biển phía tây của Gulf Coast. Ngoài ra, các ngành hóa chất khác không gắn chặt với sản phẩm của dầu mỏ và khí ga, chẳng hạn như các ngành sản xuất ra axít sulphuric, phân bón có chứa photphat và cao su nhân tạo, đều là những ngành chủ yếu sử dụng lưu huỳnh và muối mỏ. Sự trùng hợp có nhiều loại khoáng sản quan trọng trong khu vực này đem lại những khả năng to lớn về vốn đầu tư, hỗ trợ cho sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và dân số.

Tuy nhiên địa điểm nơi ngành công nghiệp đóng còn quan trọng hơn cả sự sẵn có về nguồn vốn và nguyên liệu thô, thậm chí ngay cả đối với ngành công nghiệp hóa dầu - đó là vấn đề về khả năng có thể tiếp cận được. Southern Coastlands, như đã lưu ý, nằm trên rìa lục địa và một vị trí như vậy hợp thành một tuyến đường lưu thông giữa giao thông đường thủy và giao thông đường bộ. Hơn nữa, do việc vận chuyển bằng đường thủy rẻ hơn bằng đường bộ, việc chuyên chở bằng tàu biển các sản phẩm đã được hoàn thiện từ Gulf Coast đến các cảng của Megalopolis có thể được tiến hành một cách có hiệu quả bởi một hãng tàu thủy hoặc bằng xà lan thông qua tuyến đường biển ven bờ và hệ thống của sông Mississippi tới vùng Trọng điểm Chế tạo. Ngược lại, các sản phẩm và nguyên liệu thô có thể được vận chuyển hiệu quả hơn tới các ngành công nghiệp nằm bên Gulf Coast.

0