Chính sách ngoại thương của Trung Quốc và những hệ quả lịch sử từ 1500 đến 1840
Tác giả: Sử Chí Hoành (Shi Zhihong) Viện kinh tế Viện khoa học xã hội Trung Quốc Nguyễn Quốc Vương dịch từ tiếng Anh Dẫn Nhập Từ những năm đầu của thế kỉ 15, người châu Âu đã bắt đầu các cuộc phát kiến địa lý để tìm ra những con đường mới tới phương Đông, nơi mà ...
Tác giả: Sử Chí Hoành (Shi Zhihong)
Viện kinh tế Viện khoa học xã hội Trung Quốc
Nguyễn Quốc Vương dịch từ tiếng Anh
Dẫn Nhập
Từ những năm đầu của thế kỉ 15, người châu Âu đã bắt đầu các cuộc phát kiến địa lý để tìm ra những con đường mới tới phương Đông, nơi mà đương thời người ta tin rằng nó có đầy vàng, bạc và hương liệu. Theo sau dấu chân của các nhà hàng hải vĩ đại, những người đã khám phá ra các con đường biển từ châu Âu tới châu Á và lục địa mới là châu Mĩ và cùng với việc hoàn thành chuyến đi vòng quanh thế giới bắt đầu từ Châu Âu vào cuối thế kỉ 15 đầu thế kỉ 16, những người châu Âu đã mở rộng sức mạnh và ảnh hưởng của họ trên khắp thế giới báo hiệu một kỉ nguyên mới với đặc trưng là sự cướp bóc thuộc địa trong lịch sử thế giới hiện đại.
Những cuộc đại phát kiến và sự bành trướng thuộc địa theo sau không chỉ mang lại những tiến bộ chưa từng thấy trong sự phát triển xã hội và kinh tế ở Tây Âu và thúc đẩy sự tăng tiến của chủ nghĩa tư bản ở đây mà còn làm thay đổi lớn lao bản đồ chính trị thế giới. Một vài quốc gia nhỏ như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và Anh vốn nằm ở “bên ngoài” nền văn minh Châu Âu giờ đây nổi lên như những siêu quyền lực của thế giới sở hữu uy thế về hải quân và lãnh thổ trên biển rộng lớn đi kèm. Sự bành trướng ra khắp thế giới của chủ nghĩa tư bản phương Tây đang lên tạo ra bộ mặt của thế giới là dòng chảy chính của lịch sử thế giới hiện đại. Dưới dòng chảy dữ dội này, nhiều nền văn minh cổ xưa ở châu Á, châu Phi và châu Mĩ đã suy tàn hoặc biến mất.
Trung Quốc với tư cách như là một bộ phận của thế giới đã không tìm thấy lối ra để tránh khỏi dòng chảy này. Thực tế nền văn minh Cathaysian, một trong những nền văn minh cổ và huy hoàng nhất trên thế giới, bắt đầu xuống dốc từ thế kỉ 16 đã tạo ra hình ảnh tương phản với sự nổi lên mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Rất đúng khi nói rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển trong vài trăm năm tiếp theo, nhưng dưới hệ thống tọa độ thế giới và so sánh với Tây Âu, thì không còn nghi ngờ gì nữa trong thời kì này Trung Quốc đã bước đi chậm chạp và dần bị phương Tây bỏ lại phía sau trong kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học, công nghệ và nhiều lĩnh vực khác.
Trung Quốc cuối cùng cũng bị phương Tây đánh bại trong cuộc Chiến tranh thuốc phiện (1840-1842) và bắt đầu giai đoạn lịch sử nhục nhã trong hơn một trăm năm kể từ đó.
Điều đó đã diễn ra như thế nào? Tại sao một quốc gia vĩ đại chưa hề thua kém bất cứ một quốc gia nào khác ở vào thời điểm bắt đầu của các cuộc phát kiến địa lý và do có lãnh thổ rộng lớn và dân số đông đảo sức mạnh quốc gia của nó chắc chắn là đứng đầu thế giới vào thời gian đó lại suy sụp và cuối cùng bị đánh bại? Điều này có thể được phân tích ở nhiều phương diện lịch sử trong chính trị, kinh tế, quân sự, tư tưởng và văn hóa, khoa học công nghệ, mâu thuẫn nội tại, mối quan hệ với bên ngoài… và sẽ có các câu hỏi khác nhau được đưa ra. Trong bài báo này, tác giả sẽ trình bày chi tiết quan điểm: chính sách ngoại giao bảo thủ tiến hành bởi nhà Minh và nhà Thanh ít nhất cũng là một trong những lí do quan trọng làm cho Trung Quốc rơi vào định mệnh nếu như nó không phải là nhân tố quan trọng nhất. Đó chính là bởi các chính sách ngu dốt và thiển cận đã làm Trung Quốc mất đi cơ hội cạnh tranh với phương Tây để tiếp tục duy trì vị trí tiên phong trên thế giới trong khi cơ hội này đã tồn tại rất dài sau các cuộc đại phát kiến.
Bản chất của nhà Minh và chính sách ngoại thương đầu triều Thanh.
1. Chính sách ngoại thương của nhà Minh: 1368-1644
Nhà Minh thực thi chính sách “cấm biển” và nghiêm cấm người dân ra nước ngoài trong giai đoạn đầu và giai đoạn giữa. Trong những năm này, ngoại thương hợp pháp chủ yếu là “mậu dịch triều cống” có nghĩa rằng chỉ có thuyền nước ngoài tới triều cống mới được phép buôn bán với Trung Quốc. Không phải tất cả các nước ngoài đều được phép triều cống triều đình mà phải là những nước có tên được ghi chép chính thức trong Đại Minh hội điển (Da Ming Huidian) (bộ sưu tập các bộ luật của nhà Minh) và các thuyền triều cống chỉ được đến vào thời gian được quy định chính thức. Các thuyền triều cống được phép đến cũng chỉ được mang theo một số lượng hàng hóa nhất định để bán bên cạnh những món đồ được chuẩn bị để dâng lên hoàng đế. Tất cả các thuyền phải neo ở nơi các cảng biển duyên hải được chỉ định và trình lên “kanhe” – một giấy phép đặc biệt do nhà Minh cấp cho các sứ thần nước ngoài – để kiểm tra. Chính quyền nhà Minh mở ba cảng biển truyền thống đối với thế giới bên ngoài: Ning Ba (Ningbo) ở tỉnh Triết Giang (Zhejiang), Tuyền Châu (Quanzhou) ở tỉnh Phúc Kiến và Quảng Châu (Canton) ở tỉnh Quảng Đông. Đặc biệt những tổ chức được gọi là “Shibo Tiju Shi” được lập ra ở ba cảng trên đảm đương việc tiếp đón các sứ thần từ nước ngoài tới và quản lý các hoạt động ngoại thương tại cảng. Ở kinh đô, đặt tại Nam Kinh trong thời gian 1368-1421 và Bắc Kinh trong thời gian 1421-1644, một tổ chức được gọi là “Huitong Guan” (Hội đồng quán) với chức năng tương tự được lập ra trực thuộc Bộ Lễ. Tất cả các hoạt động buôn bán với người Trung Quốc tại các cảng biển hay ở Hội Đồng Quán đều đặt dưới sự giám sát của các quan chức triều đình.
Thương mại triều cống hoàn toàn bị triều đình kiểm soát và luôn được coi như là một bộ phận của ngoại thương quốc gia nhưng không được coi là hoạt động thương mại đơn thuần. Điều này rất khác với đầu thời nhà Minh khi vương triều mới thành lập đang phát triển với sức mạnh chính trị thống nhất, sức mạnh của quân đội và nền kinh tế huy hoàng vì thế các hoàng đế có tham vọng thu nhận các sứ thần nước ngoài để có thêm danh tiếng và uy tín hòng chứng tỏ Trung Hoa là quốc gia vĩ đại. Trong lịch sử Trung Hoa, sự thăm viếng của các thuyền triều cống nước ngoài từ bên ngoài thế giới đã được coi như là danh dự của quốc gia và là tín hiệu của kỉ nguyên hưng thịnh. Để thu hút thêm các quốc gia phái thuyền đến, các vua đầu triều nhà Minh đã thực thi chính sách “giá cao” và “miễn thuế” đối với các món hàng triều cống và hàng hóa đi kèm trên các con thuyền này. Dưới chính sách này, chính quyền nhà Minh không chỉ đáp lại các món đồ triều cống nước ngoài bằng các phần quà có giá trị mà còn mua phần lớn các món hàng hóa đi kèm trên thuyền với giá cao hơn giá trị thực của chúng và cho phép các hàng hóa còn lại được bán ra ngoài chợ, thường thì chúng là những món đồ rẻ tiền. Các mệnh lệnh đặc biệt về miễn thuế thường được đưa ra bởi các vua đầu vương triều nhà Minh mặc dù theo như quy định của triều đình thì tất cả các hàng hóa do các thuyền triều cống bán ra đều phải nộp thuế với tỉ lệ nhất định.
Bị hấp dẫn bởi thương mại sinh lợi dưới chính sách ưu đãi này, nhiều quốc gia ở biển phía đông và phía nam đã phái các con thuyền triều cống tới Trung Quốc vào đầu thời nhà Minh. Trong thời gian trị vì của vua Hồng Vũ (1368-1398), có hơn một tá các quốc gia đã triều cống nhà Minh được ghi chép lại. Sau các chuyến đi của Trịnh Hòa tới biển phía tây trong thời gian trị vì của hoàng đế Vĩnh Lạc (1403-1424) và hoàng đế Tuyên Đức (1426-1435), phạm vi ngoại thương của nhà Minh được mở rộng tới ngoại biên của Ấn Độ Dương bao gồm Tây Á và bờ biển phía đông của Châu Phi và các quốc gia phái thuyền triều cống tới Trung Quốc tăng lên tới hơn 30 nước. Thương mại triều cống đã đạt tới thời kì hoàng kim trong thời gian đó.
Do luôn phải ưu tiên cho sự tính toán về chính trị, thương mại triều cống đem lại rất ít lợi ích cho nền kinh tế nhà Minh. Trên thực tế, chi phí mà nhà Minh bỏ ra lớn hơn nhiều so với lợi nhuận thu được từ nó. Để tiếp nhận các sứ thần triều cống và đoàn tùy tùng của họ, nhà Minh đã phải dùng rất nhiều tiền mỗi năm trong việc cung cấp cho họ nhà ở và thức ăn trong thời gian họ ở Trung Quốc, bảo vệ họ suốt cuộc hành trình qua các cảng biển duyên hải và khi họ tới kinh đô, đáp lễ lại họ và các ông vua của họ bằng các món quà Trung Hoa. Đặc biệt sau các chuyến đi của Trịnh Hòa, do sự cập bến thường xuyên ngày một nhiều của các thuyền triều cống nước ngoài và sự mở rộng quy mô phái đoàn (ngày càng có nhiều thương nhân mang theo các hàng hóa đi cùng với thuyền triều cống) nên nhà Minh đã cảm thấy không chỉ khó khăn trong việc đón tiếp họ mà chi phí tài chính chi trả cho việc đón tiếp các sứ thần nước ngoài cũng dần trở thành gánh nặng không thể chịu đựng nổi. Bởi thế quy mô và phạm vi thương mại triều cống đã bị giới hạn. Kể từ triều vua Vĩnh Lạc, triều đình nhà Minh đã dần dần tiến hành hệ thống ban hành kanhe đối với mỗi quốc gia triều cống và bắt đầu hạn chế sự thăm viếng thường xuyên của các con thuyền của họ cũng như số lượng thuyền và số lượng người của phái đoàn mỗi lần triều cống. Để việc quản lí thương mại trở nên dễ dàng hơn, thậm chí triều đình nhà Minh còn đặt ra các lộ trình cụ thể và các cảng biển được chỉ định cho thuyền của từng quốc gia. Ví dụ theo Đại Minh hội điển, người Nhật chỉ có thể thực hiện triều cống 10 năm một lần và thuyền của họ phải vào cảng Ninh Ba và số lượng người của mỗi phái đoàn cho mỗi lần triều cống không vượt quá 300 và không quá 3 chiếc thuyền. Ryukyu (Lưu Cầu – nay là Okinawa của Nhật – chú thích của người dịch) thực hiện triều cống 2 năm một lần và vào cảng Tuyền Châu với số lượng người không quá 100, Zhancheng (champa), Zhenla (Cam-pu-chia), Xiêm và các quốc gia ở biển tây thực hiện triều cống 3 năm một lần và vào bến Quảng Châu (Canton)…Việc đặt ra ngày càng nhiều các giới hạn đối với các thuyền triều cống nói lên rằng nhà Minh đã trở nên kém mặn mà với việc đón tiếp các con thuyền triều cống nước ngoài.
Những thảm họa nghiêm trọng do các hải tặc người Nhật mang đến vào giữa thời Minh đã làm cho chính sách ngoại giao của quốc gia trở nên bảo thủ và tự ti hơn và cuối cùng đã dẫn tới việc cấm biển dưới thời vua Gia Tĩnh (1522-1566). Sự quấy rối của hải tặc Nhật đã bắt đầu từ giữa thế kỉ 14 nhưng nó chưa trở thành vấn đề nghiêm trọng cho tới cuối thế kỉ 15 khi người Nhật bước vào “Thời kì chiến quốc”. Trong thời kì này, các cuộc nội chiến và các cuộc nổi loạn trong nước đã tạo ra một số lượng lớn các võ sĩ lang thang, họ tụ tập trên biển và tiến hành các hoạt động cả trong vai thương nhân và cướp biển, thường xuyên quấy rối vùng duyên hải đông nam Trung Quốc. Sự tranh giành giữa các phái đoàn triều cống khác nhau được phái tới bởi các lãnh chúa Nhật lớn, nhỏ vào thời gian đó cũng mang tới tai họa cho Trung Quốc. Một cuộc bàn cãi sôi nổi về chính sách ngoại thương đã nổ ra trong triều đình nhà Minh sau sự kiện “khẳng định quyền triều cống” giữa hai phái đoàn được cử đến bởi hai lãnh chúa Nhật khác nhau vào năm 1523. Kết quả của sự tranh giành này là hoàng đế Gia Tĩnh đã giải tán các “Shibo Tiju Si” ở tất cả các cảng duyên hải và tuyên bố cấm biển trong cùng năm đó. Cánh cửa ngoại thương đã đóng lại.
Lệnh cấm nghiêm ngặt trên biển không chống lại được sự quấy rối của hải tặc Nhật nhưng đã gây hại cho ngoại thương thông thường của Trung Quốc. Kể từ đó không có kênh nào để cho thương nhân Trung Quốc và thương nhân người nước ngoài buôn bán, buôn lậu trên vùng duyên hải đông nam đã bắt đầu trở nên sôi nổi hơn bất cứ khi nào trước đó. Các kẻ chuyên quyền ở địa phương và những thương nhân giàu có ở các tỉnh đông nam, đôi khi cũng được các quan chức địa phương hậu thuẫn, đã đóng vai trò đi đầu trong buôn lậu. Các thương nhân Trung Hoa đầy quyền lực này thường được vũ trang và đồng thời cũng là cướp biển đã thông đồng với người Nhật thậm chí đóng giả là người Nhật để giết người cướp của trong khu vực miền duyên hải. Nhà Minh tuyên bố cấm biển nhưng không làm gì nhiều để tăng cường phòng thủ cả ở bờ biển và trên mặt biển. Trong phần lớn thời gian dưới triều vua Gia Tĩnh, cả hải tặc Nhật thật và giả đã hoành hành ở khu vực duyên hải Đông nam Trung Quốc và gây thiệt hại nặng cho sự phát triển thương mại, kĩ nghệ của vùng.
Cấm biển cũng làm sụt giảm thu nhập hàng năm của nhà Minh. Đặc biệt đối với tài chính địa phương ở Triết Giang và Phúc Kiến bởi vì phần lớn sự tiêu dùng của hai tỉnh này là đến từ ngoại thương và cấm biển đã làm cho các tỉnh này gặp thêm nhiều khó khăn về tài chính so với các tỉnh khác. Những yêu cầu từ bỏ lệnh cấm chưa bao giờ ngừng dưới triều vua Gia Tĩnh và phần lớn được chủ trì bởi các viên chức tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, các cuộc tranh cãi nảy lửa về chính sách ngoại thương đã diễn đi diễn lại trong triều nhà Minh. Do vấn đề hải tặc Nhật quấy rối đã được giải quyết cơ bản vào cuối thời vua Gia Tĩnh, nhà Minh đã thay đổi chính sách trên biển bắt đầu từ sự lên ngôi của vua Long Khánh (1567-1572). Từ năm 1567, thương nhân Trung Quốc được phép ra nước ngoài buôn bán với các quốc gia ở Biển Đông và Biển Tây ngoại trừ Nhật Bản và các thuyền nước ngoài trừ các thuyền đến từ Nhật Bản được phép đến Trung Quốc. Năm 1599, Shibo Tiju Si được tái lập ở Quảng Châu (Canton) và Ninh Ba (Ningbo). Vì vậy chính sách cấm biển được thực thi từ đầu triều Minh cuối cùng đã được hủy bỏ. Nhưng sự chuyển đổi này đến quá muộn khi chỉ còn có vài thập kỉ nữa là triều Minh chấm dứt.
Tuy nhiên, cuối cùng việc mở biển cũng đem đến cho ngoại thương một không gian hợp pháp cho sự phát triển bình thường của nó. Đặc biệt đối với thương mại phi chính phủ (chỉ việc những người Trung Hoa thông thường buôn bán với nước ngoài), đã giải phóng năng lượng bị dồn nén bởi chính sách cấm biển. Thương mại phi chính phủ đã tồn tại kể từ khi triều Minh ra đời và chưa bao giờ gián đoạn thậm chí ngay cả trong thời gian lệnh cấm biển được thực thi nghiêm ngặt nhất. Nó đã trở thành làn sóng không thể cưỡng lại kể từ giữa thời Minh, với sự phát triển nhanh chóng của kĩ nghệ thủ công và thương mại trong nước, đặc biệt ở phần phía đông nam, mở cửa ra thị trường bên ngoài đã trở thành một yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Buôn lậu với quy mô lớn trong thời vua Gia Tĩnh đã bùng nổ trong bối cảnh lịch sử đó. Sau khi lệnh cấm biển được dỡ bỏ, thương mại phi nhà nước đã trở nên ngày càng hưng thịnh hơn bất cứ khi nào trước đó. Yuegang, một thành phố bận rộn nhất có tiền thân là một làng đánh cá nhỏ ở huyện Chương Châu (Zhangzhou), tỉnh Phúc Kiến, tham gia vào hoạt động buôn lậu trên biển kể từ giữa thời Minh, đã trở thành một cảng biển nổi tiếng nhất đối với những người dân Trung Quốc đi ra nước ngoài ở vào thời gian đó. Theo một tác giả sống vào cuối thế kỉ 16, tích lũy thương mại của những người ra nước ngoài buôn bán từ cảng Yuegang không hề thua kém hàng trăm ngàn lạng vàng mỗi năm kể từ thời vua Long Khánh.
Để tăng cường sự quản lý ngoại thương, nhà Minh đã lập ra hạt Hải Thành (Haicheng) tại Yuegang và đặt ra một cơ quan đặc biệt gọi là “Du Xiang Guan” ở đó để thu thuế sau khi mở biển năm 1567. Chính quyền hạt ra điều kiện rằng tất cả các thuyền ra nước ngoài phải có giấy phép đặc biệt (“Chuan Yin”) và phải trả một khoản chi phí nhất định. Có chỉ tiêu đối với việc ban hành các giấy phép đó mỗi năm, lúc đầu nó là 88 và sau đó tăng lên tới 100 và 210. Tất cả các thuyền đi ra biển bị giới hạn về kích cỡ và không được phép mang theo vũ khí cũng như các món hàng phi pháp khác. Họ chỉ được phép đến những nước mà ông chủ họ đã đề nghị trước đó và phải trở về trước khi hết hạn thời gian được phép – tất cả những điều đó được viết rất rõ ràng trên giấy phép đã được ban hành. Cùng với phí thông hành, chính phủ thu ba loại thuế khi thuyền trở về, đó là thuế với tên gọi “shui xiang” đánh vào thuyền căn cứ theo kích thước, “lu xiang” đánh vào hàng hóa mang từ nước ngoài về, và “jiaeng xiang” được áp dụng đối với các thuyền trở về từ Luzon nơi thường không có hàng hóa nào được mang về ngoại trừ đồng bạc Mê-hi-cô.
Về mặt lý thuyết mà nói thì việc cho phép dân thường đi ra nước ngoài rõ ràng là một cải cách tích cực trong chính sách ngoại thương vào cuối thời Minh. Tuy nhiên nó đến quá muộn để đem lại lợi ích thực sự cho Trung Quốc. Với sự phát triển của rất nhiều mâu thuẫn nội tại giữa xã hội và tầng lớp thống trị kể từ giữa thời Minh, vương triều dần đi xuống và đã không có sức mạnh hoặc là tham vọng để tìm kiếm chính sách tích cực trên biển ở vào thời gian này. Việc cho phép người dân đi ra nước ngoài không có nghĩa rằng đó là sự mở cửa thị trường ngoài nước của Trung Quốc do chính nó khởi xướng như các nước phương Tây đã làm ở thời gian đó mà chỉ là hành vi bị động do sự tác động của xu hướng thương mại phi nhà nước. Việc nó đặt ra vô số giới hạn đối với những người dân ra nước ngoài chỉ ra rằng nó quan tâm tới sự an toàn hơn là mở ra thị trường ngoài nước và mong muốn đặt mọi thứ dưới sự kiểm soát của vương triều.
Thương mại phi chính phủ ở vào cuối thời Minh đã phát triển ấn tượng bởi những người dân thường, những gì chính phủ làm đối với sự phát triển này chỉ đơn thuần là kiếm soát nó ở mức càng nhiều càng tốt để thu thuế. Tất nhiên, dưới tình trạng quản lý tồi tệ vào cuối Minh, đây không phải là nhân tố hay mà là nhân tố có hại.
Tóm lại, chính sách ngoại thương của nhà Minh trước sau như một có tính chất bảo thủ. Nó đã quan tâm tới sự an toàn của bản thân vương triều hơn là lợi ích kinh tế, thứ có thể thu được từ ngoại thương. Nó chưa bao giờ tự có khát vọng mở cửa thị trường ngoài nước thông qua khuyến khích mọi người đi ra ngoài và phát triển thương mại phi nhà nước. Thương mại triều cống, chủ yếu có hiệu lực vào đầu thời nhà Minh, đã thực sự được coi như là một phương tiện ngoại giao để thu lấy thanh thế cho vương triều, khía cạnh chính trị trong nó ưu thế hơn hẳn so với khía cạnh kinh tế.
Vào giữa triều Minh, chủ yếu dưới thời vua Chính Đức (1506-1521), khía cạnh chính trị của chính sách ngoại thương đã bị làm yếu đi trong một thời gian khi nhà Minh thực sự cho phép các thuyền buôn nước ngoài (không chỉ là các thuyền triều cống) đến và bán hàng hóa của họ ở Trung Quốc sau khi đóng thuế với tỉ lệ khoảng 2/10. Những cải cách này đã nhanh chóng bị thay thế bởi lệnh cấm biển hoàn toàn trong triều vua Gia Tĩnh tiếp theo. Sau khi mở biển dưới thời vua Long Khánh các thuyền nước ngoài không gặp phải giới hạn nào khi đến Trung Quốc và những người dân thường được phép đi ra nước ngoài nhưng ở trong nội địa thì như chúng tôi đã nói ở trên, nó không có nghĩa rằng các vua nhà Minh đã thực thi chính sách tự do thương mại như các quốc gia phương Tây đã làm ở cùng thời gian đó.
Các thương nhân người nước ngoài buôn bán với Trung Quốc ở các cảng biển phải tiến hành buôn bán thông qua các cơ quan do chính phủ chỉ định, việc giao thương trực tiếp với người Trung Quốc bị nghiêm cấm. Và quan trọng hơn, việc cho phép mọi người đi ra nước ngoài không phải là chính phủ muốn mở rộng thị trường ngoài nước mà đơn giản chỉ là vì không thể ngăn cản người dân làm việc đó, tức là không có lựa chọn nào khác và vẫn có những quy định cấm đoán riêng rẽ đối với những người đi ra nước ngoài. Vì vậy chúng tôi phải nói rằng chính sách ngoại thương của nhà Minh về bản chất vẫn rất bảo thủ ngay cả sau khi mở biển ở vào giai đoạn cuối.
2. Chính sách ngoại thương đầu nhà Thanh (1644-1840)
Tình hình mở cửa thương mại với các quốc gia nước ngoài vào cuối thời Minh kéo dài không lâu. Nó lại được thay thế bằng chính sách cấm biển vào đầu triều Thanh Mãn Châu – vương triều thay thế nhà Minh thống trị Trung Hoa từ năm 1644. Trong những thập kỉ đầu của vương triều, nó đã phải dồn hết sức lực để chống lại các thế lực phản Thanh của những người Hán nhằm phục hưng vương triều đã bị phế truất. Bởi vì nhiều lực lượng Hán ở vào thời điểm đó tập hợp ở vùng duyên hải đông nam khi rút chạy khỏi lục địa và chiếm đóng các hòn đảo ven bờ coi chúng thành trì của họ, nhà Thanh tuyên bố cấm biển không lâu ngay sau vào Bắc Kinh năm 1644. Tuy nhiên lệnh cấm không thể tiến hành một cách có hiệu quả cho tới khi những mệnh lệnh nghiêm ngặt hơn được đưa ra năm 1661 khi quân đội Mãn Châu đánh bại Trịnh Thành Công (Zheng Chenggong), lãnh tụ nổi tiếng nhất và quan trọng nhất của lực lượng phản Thanh ở vùng đông nam trong nửa sau triều vua Thuận Trị (1644-1661) ở lục địa và buộc ông ta cùng quân lính phải tháo chạy ra biển. Theo lệnh mới, tất cả mọi người sống ở vùng duyên hải phải rút lui một hai chục km vào đất liền sau khi phá hủy toàn bộ tài sản nhằm cô lập quân phản Thanh ở ngoài biển. Lệnh cấm trên biển được thực thi chặt chẽ đến độ vào những ngày biển động không có một chiếc thuyền nào từ đất liền được phép ra biển và tất cả các thuyền từ nước ngoài đều bị cấm vào các cảng trong đất liền. Trong thời gian đó, lục địa gần như ngừng tất cả các quan hệ thương mại với nước ngoài ngoại trừ quy mô giới hạn ở Macao.
Nhà Thanh tái mở biển và cho phép người dân ra nước ngoài trở lại vào năm 1684, một năm sau khi vuơng triều Trịnh (Zheng) ở Đài Loan đầu hàng bởi cuộc tấn công mãnh liệt của hạm đội từ đất liền. Năm tiếp theo, bốn trạm hải quan được đặt ra ở Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông), Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến), Ninh Ba ( tỉnh Triết Giang) và Tùng Giang (tỉnh Giang Tô) một cách tách biệt nhau để buôn bán với nước ngoài. Do đó, sau 40 năm cấm biển, quan hệ thương mại của Trung Quốc với nước ngoài cuối cùng cũng bắt đầu bình thường trở lại. Trong nửa sau triều vua Khang Hi (1662-1722), không chỉ các thuyền buôn nước ngoài có thể đến để buôn bán với Trung Quốc tại tất cả các cảng biển mở mà các hoạt động thương mại của các thương nhân Trung Hoa cũng phát triển nhanh chóng cho dù sự đi ra nước ngoài của họ vẫn đặt dưới sự cấm đoán nhất định. Thương nhân Trung Hoa cũng như những người đi ra nước ngoài sinh sống có thể thấy gần như là ở khắp nơi ở cả các quốc gia ở biển phía nam và biển Đông. Đặc biệt ở Đông Nam Á số lượng người Hoa từ các vùng duyên hải đông nam tham gia vào buôn bán hoặc sống ở đó thậm chí còn nhiều hơn cả thời kì cuối triều Minh. Người ta cho rằng chỉ ở Jakarta thôi, số lượng người Hoa sống ở đó vào thời điểm khi ấy đã vượt quá 100.000 người.
Nhưng tình hình này cũng không duy trì lâu. Kể từ những năm cuối của triều vua Khang Hi, chính sách trên biển của chính phủ nhà Thanh đã trở nên bảo thủ, tự ti trở lại và nó đã khiến Trung Quốc dần dần bước chân vào tình trạng nhà nước đóng cửa nửa chừng đối với những mối giao thiệp quốc tế cho tới khi nó bị đánh bại trong cuộc Chiến tranh thuốc phiện (1840-1842). Sự thay đổi bắt nguồn từ mối lo ngại sâu sắc rằng lực lượcng phản Mãn Thanh ở trong nước vốn đã tồn tại thậm chí ngay cả khi người Mãn thống nhất toàn bộ quốc gia sẽ thông đồng với người Hán ở nước ngoài để tiêu diệt sự thống trị của nhà Thanh. Với số lượng người Hán đi ra nước ngoài sinh sống ngày càng nhiều và nhiều người trong số họ định cư ở nước ngoài bất chấp quy định rằng họ phải trở về nhà sau một thời gian nhất định, hoàng đế Khang Hi và vài cận thần nhận ra rằng đó là một vấn đề nghiêm trọng. Người ta nói rằng vị hoàng đế này đã gửi các đặc vụ bí mật tới Luzon những năm sau đó khi được tâu trình rằng vài hậu duệ của vua Minh bị phế truất có thể vẫn sống ở đó. Mặc dù việc điều tra không có kết quả và vấn đề không được giải quyết nhưng nó đã nâng cao thêm sự cảnh giác của hoàng đế. Bởi vậy năm 1717, hoàng đế Khang Hi ra lệnh cấm những chiếc thuyền tới biển phía nam và đồng thời nhà Thanh ban hành một loạt các lệnh cấm khác nghiêm ngặt hơn đối với các thuyền ra biển và tăng cường kiểm soát tại các cảng bờ biển. Tất cả những người đã định cư ở nước ngoài phải trở về Trung Quốc trong vòng 3 năm và nếu kẻ nào dám vi phạm lệnh cấm cư trú ở nước ngoài một lần nữa kẻ đó sẽ bị dẫn độ về nước và bị xử tử. Mặc dù lệnh cấm đối với các con tàu đi tới biển phía nam được dỡ bỏ vào năm 1727 dưới sức ép mạnh mẽ từ trong triều đình và giới bình dân, lệnh cấm cư trú ở nước ngoài đối với người dân và lệnh cấm đối với những thuyền đi ra nước ngoài không hề giảm nhẹ mà ngày càng trở nên nghiêm ngặt hơn. Do lệnh cấm của chính quyền, thương mại của Trung Quốc với vùng biển phía nam – thứ đã từng hưng thịnh trở nên tàn tạ kể từ thế kỉ 18.
Buôn bán với các thuyền nước ngoài tại các cảng biển duyên hải cũng được đặt dưới sự quản lý ngặt nghèo hơn trước đó. Chính quyền nhà Thanh mở 4 cảng biển để buôn bán với người nước ngoài trong những năm đầu sau khi mở biển. Nhưng chính sách này đã thay đổi dưới triều vua Càn Long (1736-1795) để dễ bề kiểm soát hoạt động của người nước ngoài trên đất Trung Quốc. Kể từ giữa thời Minh, thuyền nước ngoài tới Trung Quốc bằng đường biển đã không giới hạn trong các nước triều cống truyền thống mà còn đến từ các nước phương Tây xa xôi. Người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và sau đó là người Anh đã nối tiếp nhau tới phương Đông. Những người phương Tây tới phương Đông khi đó không phải chỉ là các thương nhân mà còn có cả cướp biển với những hạm đội tàu được trang bị đầy đủ. Kể từ khi những người phương Tây nổi lên trên biển Trung Hoa, họ liên tục quấy rối các cảng bờ biển cùng lúc họ buôn bán với Trung Quốc. Trong suốt thời gian đầu thời Thanh, từ nửa sau thế kỉ 17 tới nửa đầu thế kỉ 18 mặc dù các quốc gia thực dân sớm như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan đã lần lượt suy sụp, thực dân Anh đầy triển vọng đã trở nên ngày một mạnh hơn và đầy tham vọng. Thương mại của Anh với Trung Quốc dưới sự kiểm soát của các công ty Đông Ấn trong thời nhà Thanh bắt đầu từ thời hoàng đế Khang Hi và phát triển đều đặn từ những năm 1720. Trước hết, các thương nhân Anh chỉ buôn bán với người Trung Quốc ở Quảng Châu (Canton). Nhưng từ năm 1755 và trong hai năm tiếp theo, chủ yếu là do không bằng lòng với sự cấm đoán thương mại ở Quảng Châu cũng như thuế xuất nhập khẩu của hải quan Quảng Đông đánh quá nặng, công ty Đông Ấn cũng đã gửi các thuyền tới Ninh Ba nơi môi trường buôn bán tốt hơn ở Quảng Châu và gần vùng sản xuất các mặt hàng chủ lực hơn. Người Anh mua ở Trung Quốc lụa, trà, bông…Nhà Thanh cảm thấy cực kì lo lắng với việc người Anh thay đổi thương cảng bởi vì nó không chỉ làm giảm thu nhập của hải quan Quảng Đông mà nó còn dẫn tới sự định cư của người nước ngoài tại vùng duyên hải khác và tạo nên một Macao nữa -thứ hoàng đế cho rằng nguy hiểm nhất. Trước hết hoàng đế cố gắng chặn các thuyền của thương nhân Anh đi tới Ninh Ba bằng việc tăng thuế tại hải quan Triết Giang nhưng việc này thất bại. Vì vậy vào mùa đông năm 1757, hoàng đế tuyên bố rằng vào đầu năm tiếp theo, tất cả những thuyền buôn bán với Trung Quốc chỉ có thể neo đậu ở Quảng Đông và không thuyền nào được phép vào Ninh Ba. Đây là một sự thay đổi quan trọng trong chính sách ngoại thương vào đầu thời nhà Thanh – thứ có nghĩa rằng cánh cửa mở ra với bên ngoài đã khép lại một nửa dưới triều vua Khang Hi.
Cùng thời gian đó, chính quyền nhà Thanh tăng cường kiểm soát các hoạt động của người nước ngoài tại các cảng thương mại. Trong quản lý thương mại của người nước ngoài tại các cảng thương mại, nhà Thanh tiếp tục thực thi luật lệ của các cơ quan được bắt đầu từ thời nhà Minh. Theo quy định, tất cả các thương nhân người nước ngoài phải tiến hành công việc làm ăn của mình với một số thương nhân Trung Hoa đặc biệt do nhà Thanh chỉ định và không được buôn bán trực tiếp với người dân thường. Cho dù họ bán hay mua thì họ cũng chỉ được phép trao đổi với các thương nhân hoặc người môi giới do nhà Thanh chỉ định. Ngay vào những năm nhà Thanh mở các cảng biển cho tàu nước ngoài vào buôn bán, các chính quyền địa phương bắt đầu lựa chọn các nhân viên trong số các thương nhân để tiến hành việc buôn bán các món hàng nước ngoài. Ở Quảng Châu, những nhân viên này thường được gọi là “thương nhân Hang” bởi vì phường hội của họ được gọi là Hang (cách gọi cũ của “Hong”) hoặc “Yanghuo Hang”. Số lượng các thương nhân Hang ở thời điểm cao nhất lên tới 26 hoặc hơn và thấp nhất là 4 nhưng thông thường trong lịch sử người ta gọi là “13 Hang”. Các thương nhân Hang lập ra một tổ chức gọi là “Gong Hang” (“Co-hong”) năm 1720, thứ tan rã trong năm tiếp theo nhưng lại được phục hồi năm 1760. Trong những năm Quảng Châu đóng vai trò như cảng mở chính dành cho người nước ngoài trước cuộc Chiến tranh thuốc phiện, Gong Hang là trung gian qua đó các thương nhân phương Tây có thể buôn bán với Trung Quốc và thương nhân Hang được trao cho độc quyền tuyệt đối trong việc buôn bán với thương nhân nước ngoài. Gong Hang và các thành viên của nó thậm chí còn đảm đương việc thu thuế và nợ cho chính phủ và trong tất cả các hoạt động với nước ngoài nó đóng vai trò làm trung gian giữa chính quyền địa phương và người nước ngoài bởi vì trong thời kì đó người nước ngoài không được phép liên lạc với các quan chức Trung Quốc trực tiếp.
Sau khi đóng cửa tất cả các cảng thương mại trừ Quảng Châu, chính quyền Thanh đã ban hành nhiều luật lệ để hạn chế các hoạt động của người nước ngoài ở Trung Quốc. Theo các luật lệ, quy định này, thương nhân người nước ngoài phải giới hạn nơi cư trú tại nơi được chỉ định trong thời gian họ ở Trung Quốc và phải chịu một loạt các chế định khác đối với hoạt động và cư xử của họ nếu như họ không muốn bị trục xuất và mất đi lợi nhuận thương mại.Ở Quảng Châu, nơi được chỉ định dành cho người nước ngoài cư trú là vùng đất kéo dài bên ngoài thành phố, nơi dưới sự giúp đỡ của Gong Hang, các thương nhân đến từ nước ngoài đã xây dựng các căn nhà gọi là “shang guan” (từ này có nghĩa “nhà máy” trong cảm quan cũ của cư dân hoặc là có nghĩa nơi ở của “người đại diện”) cùng phòng tài vụ, kho hàng, kho bạc và nhà ở. Trước năm 1840, có 59 “shang guan” ở Quảng Châu và có hơn một nửa trong số đó thuộc về các thương nhân người Anh. Tất cả các thương nhân người nước ngoài tới Quảng Châu buôn bán phải sống trong chính Shang guan của họ và số lượng những người nước ngoài đi theo không được quá 5 người. Không một người phụ nữ hay trẻ em hoặc loại vũ khí nào được phép mang tới Shang guan. Tất cả các thương nhân nước ngoài phải rời Trung Quốc hoặc trở lại Macao ngay khi họ kết thúc việc buôn bán, không một ai trong số họ được phép ở lại Quảng Châu qua mùa đông. Khi sống trong Shang guan, người nước ngoài bị cấm liên lạc với người Trung Quốc ngoại trừ các thương nhân Hang và các phiên dịch viên của họ, cấm dời Shang guan nếu không có các thương nhân Hang hoặc các phiên dịch viên đi kèm khi cần thiết, cấm thuê mướn các đầy tớ người Trung Quốc, cấm ngồi kiệu. Người nước ngoài không được phép liên lạc trực tiếp với các viên chức người Trung Quốc nếu có gì trình bày thì điều này phải được thực hiện thông qua các thương nhân Hang. Thương nhân Hang phải giám sát và chăm sóc mọi thứ đối với người nước ngoài trong thời gian họ ở đây, từ những điều thiết yếu của đời sống tới thái độ cư xử và các hoạt động của họ và họ bị cấm mượn tiền của người nước ngoài. Các quy định cũng quy định rằng tất cả các thuyền chiến nước ngoài đóng vai trò hộ tống các thuyền buôn không được phép vào Bogue và các thuyền buôn vào hoặc dời Bogue được đặt dưới sự kiểm soát toàn diện của các hoa tiêu và nhà nhà tư sải mại bản Trung Quốc – những người đã đăng kí với cơ quan hành chính địa phương của Trung Quốc ở Macao và đã nhận được giấy phép, nếu có bất cứ sự buôn hậu hay điều phi pháp nào xảy ra trên thuyền, người chủ thuyền sẽ bị trừng phạt. Mặc dù những quy định, luật lệ tầm thường tẻ ngắt này trên thực tế chỉ là trên giấy trong nhiều trường hợp, chúng đã thực sự phản ánh sự lo lắng, cảnh giác của các vua nhà Thanh đối với thế giới bên ngoài. Bằng việc tiến hành một cuộc điều tra toàn diện về chính sách ngoại thương trong đầu thời nhà Thanh, chúng ta phải nói rằng trong phần lớn thời gian của hơn hai trăm năm này, Trung Quốc đã là nhà nước đóng kín hoặc đóng kín một nửa đối với thế giới bên ngoài ngoại trừ một vài thập kỉ trong giai đoạn sau của triều vua Khang Hi. So sánh với triều Minh, thái độ của các ông vua nhà Thanh đối với thế giới bên ngoài trở nên bảo thủ hơn. Vì vậy việc đánh giá chính sách đối ngoại của đầu triều Thanh như là “chính sách đóng cửa” về cơ bản là sát với tình hình thực tế.
Lý do thực thi chính sách ngoại thương bảo thủ trong thời Minh và đầu thời Thanh.
Như những gì đã chỉ ra ở phần đầu bài viết này, từ nhà Minh tới đầu nhà Thanh, chính xác hơn là từ cuộc phát kiến địa lý vào giữa thời Minh cho tới chiến tranh thuốc phiện, là thời kì chủ nghĩa tư bản trưởng thành ở Tây Âu và mở rộng ảnh hưởng của nó tới toàn bộ thế giới – thứ đã dẫn tới những sự thay đổi vĩ đại trong trật tự thế giới truyền thống. Đó chính thời điểm mà sức mạnh hải quân, các nền văn minh ở nhiều phần trên thế giới, vốn tách biệt nhau bởi không gian địa lý bắt đầu trao đổi, cạnh tranh làm cho thế giới sau đó xích lại gần hơn. Trong thời kì này, những quốc gia phấn đấu cho quyền lực biển và chú tâm vào thương mại, buôn bán trên biển đã dẫn đầu con sóng lịch sử và tiến về phía trước. Người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Hà Lan và sau này là người Anh tất cả đã chộp lấy quyền lực trên biển và phát triển thương mại biển. Nhưng Trung Quốc, một quốc gia có nền văn minh lâu đời vốn không thua hề thua kém các nước phương tây cả về kĩ thuật hàng hải và các nhân tố bên trong để phát triển thương mại biển đã chống lại dòng chảy đó và thực thi một chính sách bảo thủ hạn chế thậm chí cấm buôn bán với nước ngoài. Vậy thì, điều này đã diễn ra như thế nào? Tác giả nghĩ rằng ít nhất lý do nằm ở các khía cạnh sau đây: truyền thống lịch sử, văn hóa của Trung Quốc, thực tế chính trị mà hai vương triều đã đối mặt vào thời điểm đó, tình hình phát triển kinh tế trong lịch sử Trung Quốc và cuối cùng là hệ thống kinh tế tương đối toàn diện của Trung Quốc với tư cách là một nước lớn.
1. Ảnh hưởng của truyền thống văn hóa, lịch sử Trung Quốc
Cathaysian, chủ thể mang trên mình nền văn minh Trung Hoa cổ xưa, là một quốc gia chuyên về trồng trọt. Văn minh Cathaysian, ngay từ khi bắt đầu, đã có đặc trưng là nền văn minh nông nghiệp. Nó coi trọng sự phát triển nông nghiệp và coi trồng trọt như là một nguồn của cải xã hội trong khi mặt khác nó coi khinh thương mại khi coi nó là một nhân tố không có gì là quan trọng đối với nền kinh tế. Tư tưởng trọng nông ức thương được đẩy mạnh trong suốt thời kì Chiến Quốc (475-221 trước CN) đã trở thành xu hướng chính của tư tưởng kinh tế Trung Hoa và được các ông vua tin tưởng và theo đuổi xuyên suốt toàn bộ lịch sử Trung Quốc kể từ từ nhà Tần và nhà Hán (221 tr.CN-220 sau CN). Vào cuối thời kì phong kiến, với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và thương mại tư tưởng coi thường thương mại đã bị thử thách ở một vài khu vực, nhưng thế thượng phong của nó trong giới nho sĩ và chính sách kinh tế của nhà nước thì không hề thay đổi. Các ông vua của triều Minh-Thanh tiếp tục duy trì chính sách coi nông nghiệp là nền tảng kinh tế trong khi thương mại chỉ được coi đóng vai trò phụ trong nền kinh tế – thứ cần thiết nhưng không đáng phải khuyến khích. Trong tư tưởng truyền thống Trung Hoa, thương mại và thương nhân thường bị cho là có liên quan tới với việc bán đắt với giá cắt cổ và hưởng thụ cuộc sống xa hoa vô độ. Vì thế sự phát triển quá mức của thương mại không chỉ gây hại cho kinh tế nông nghiệp thông qua việc tiêu tốn một số lượng lớn nhân lực của việc trồng trọt mà còn làm hư hỏng xã hội nói chung. Tư tưởng trọng nông ức thương truyền thống của Trung Hoa rõ ràng đã đi ngược lại làn sóng tranh giành thương mại trên biển lúc đương thời. Kể từ phát kiến địa lý, chủ nghĩa trọng thương đã trở thành thịnh hành trong giới kinh tế Tây Âu. Tất cả các quốc gia biển ở đó đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quay vòng hàng hóa và nhập khẩu kim loại quý đối với sự thịnh vượng của quốc gia ở thời kì này. Tất cả các nước đều chủ động hỗ trợ phát triển thương mại trên biển thông qua sử dụng sức mạnh quốc gia. Thương mại thuộc địa của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, kỉ nguyên người đánh xe ngựa trên biển của Hà Lan và sự thành lập của đế chế Anh đều là kết quả của chủ nghĩa trọng thương và chính sách quốc gia. Tuy nhiên, trong kỉ nguyên như vậy, các hoàng đế Trung Quốc vẫn chủ trương ức thương. Vì vậy rõ ràng là họ không có khả năng thực thi một chính sách ngoại thương tích cực để khuyến khích các thương nhân đi ra ngoài và mở rộng thị trường cho quốc gia. Khái niệm truyền thống “Hoa Di” của Trung Hoa cũng là một lý do quan trọng. Khái niệm này là thái độ chính trị văn hóa tự coi mình là trung tâm khẳng định rằng văn minh Trung Hoa là ưu việt hơn các nước khác. Mặc dù kiểu thái độ này là đặc điểm chung của tất cả các nền văn minh cổ tương đối phát triển nói chung, nhưng do vị trí địa lý đặc biệt của Trung Quốc tách biệt với các nền văn minh cổ đại khác bởi rào cản tự nhiên bốn mặt, cũng như vị trí thuận lợi của văn minh Trung Hoa và “thế giới của nó” mà chủ nghĩa coi mình là trung tâm của người Trung Quốc rất mạnh và từ đó Trung Quốc đã không chỉ tạo ra một khái niệm có tính kết hợp và hệ thống là “Hoa Di” mà liên quan đến khái niệm này, họ đã phát triển thành một hệ thống tính cách và nguyên tắc trong giải quyết các mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Theo khái niệm này, Trung Quốc là trung tâm của thế giới và hoàng đế Trung Quốc là “Thiên tử” thay trời cai trị toàn bộ thế giới. Bên ngoài Trung Quốc nơi các hoàng đế trực tiếp cai trị là những vùng do “Man Di” sinh sống ở những quốc gia dã man. Mặc dù tất cả các quốc gia này đều hung dữ và hoang dã, hoàng đế vẫn luôn mong muốn tặng quà cho họ và coi họ như chư hầu nếu như họ có nguyện vọng muốn được khai hóa và công nhận sự cai trị của họ thông qua triều cống triều đình. Lý tưởng cao nhất của hoàng đế Trung Quốc cổ đại là thành lập một trật tự thế giới trong đó ông ta là người cai trị toàn bộ các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên chủ nghĩa coi mình là trung tâm của Trung Quốc về bản chất không có nghĩa là hiếu chiến hoặc dũng cảm. Nó nhấn mạnh sự ưu việt của Trung Quốc trên thế giới nhưng nó chưa bao giờ thiên về bành trướng và chưa bao giờ muốn ép buộc các nước khác chấp nhận một thế giới thống nhất đặt dưới sự cai trị của Trung Quốc. Nó diễn tả sự khuất phục của các nước khác dưới đạo đức và sức mạnh kiểu mẫu của Trung Quốc. Do đó nó đặt trọng tâm vào việc bảo vệ nền văn minh Trung Hoa và duy trì trật tự bên trong chống lại những ảnh hưởng của các quốc gia bên ngoài hơn là mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc tới thế giới. Đây là dấu hiệu thực sự để phân biệt Trung Quốc với các nước khác. Từ cách nhìn của các hoàng đế “Thiên Triều”, trật tự cai trị bên trong là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, nó là thứ đã làm nên Trung Quốc kể từ khi nó trở thành quốc gia văn minh. Vì vậy, nó hoàn toàn cần thiết để các hoàng đế thực thi mọi biện pháp có thể để chống lại sự đầu độc của những người dã man bên ngoài. Chỉ khi các quốc gia bên ngoài có mong muốn quan sát phong tục và hệ thống lễ nghi Trung Hoa, thứ đã tạo ra trật tự cai trị bên trong Trung Quốc, họ mới được chấp nhận và đón tiếp chu đáo. Nhưng nếu họ dám thay đổi những phong tục và hệ thống này họ sẽ bị trục xuất và cấm cửa.
Khái niệm “Hoa Di” đã không gây trở ngại cho việc Trung Quốc mở rộng ra ngoài thế giới trong buổi đầu lịch sử, đặc biệt vào thời kì mà nó là quốc gia hùng mạnh như dưới thời nhà Hán (206 tr.CN-220), Đường (618-907). Tại thời kì đó, sự hùng mạnh của quốc gia đã làm cho các hoàng đế của Trung Quốc có đủ tự tin và mở rộng liên lạc với thế giới bên ngoài, cảm giác ưu việt về “Thiên Triều” và văn hóa Trung Hoa có lẽ đã ở mức cao nhất về mặt tâm lý. Nhưng từ thế kỉ 16, đặt biệt là từ sau thế kỉ 17, nền văn minh Trung Hoa phát triển cao đã phải đối mặt với một nền văn minh mới chưa từng nghe thấy do những người châu Âu mang đến với tàu chiến, thứ mà ít nhất xét ở mức độ nguyên liệu nó không hề thua kém Trung Quốc mà ở nhiều khía cạnh dường như nó còn vượt xa cả Trung Quốc.
Tình hình này đã làm chao đảo “Thiên Triều” của các hoàng đế. Vì vậy như một phản ứng bản năng đối với ảnh hưởng phương Tây, thái độ của các hoàng đế đối với thế giới bên ngoài bắt đầu ngày càng trở nên tiêu cực. Tất nhiên họ chưa bao giờ mong muốn thừa nhận đứng ngang bằng với các quốc gia phương Tây: không chỉ vì người phương Tây vẫn được coi là những người bán khai mà còn vì những nước phương Tây buôn bán với Trung Quốc vẫn tiến hành triều cống. Nhưng đây cũng chỉ nhằm mục đích bảo vệ lòng tự trọng của “Thiên Triều” ở vẻ ngoài và về mặt tâm lý mà thôi. Trên thực tế sự tự tin của “Thiên Triều” về sức mạnh của mình đã suy sụp. Bởi vậy, các vua ở thời Minh -Thanh đã chuyển vị trí của tổ tiên họ là mở ra thế giới sang bảo vệ văn minh Trung Hoa và trật tự cai trị khỏi ảnh hưởng của nước ngoài bằng chính biên giới của nó. Đây là lý do cơ bản giải thích tại sao các hoàng đế trong thời kì này nhấn mạnh và coi trọng việc phân ranh giới giữa người Trung Quốc và người nước ngoài đồng thời thực thi chính sách ngoại thương bảo thủ.
2. Ảnh hưởng của thực tế chính trị
Ảnh hưởng của thực tế chính trị đối với chính sách ngoại thương cũng không thể bỏ qua bởi vì mục đích đầu tiên của bất cứ vương triều nào khi làm chính sách cũng là đảm bảo sự cai trị an toàn của mình. Lý do trực tiếp của chính sách cấm biển tiến hành trong thời kì đầu và giữa nhà Minh là sự quấy rối không ngừng của hải tặc Nhật Bản ở vùng viển đông nam, thứ như chúng ta đã đề cập ở trên, đã bắt đầu từ ngay những năm đầu sau khi thành lập vương triều Minh và không hề chấm dứt cho tới giữa thế kỉ 16. Vấn đề nghiêm trọng của mối đe dọa xâm lược của người Mông Cổ ở phía bắc trong cùng thời gian cũng tạo ra chính sách nói trên. Vào đầu triều Minh, nhà Nguyên vốn rút lui vào sa mạc phía bắc Vạn Lý Trường Thành sau khi bị Chu Nguyên Chương đánh bại vẫn có trong tay một bộ phận quân lính và chưa bao giờ từ bỏ nỗ lực tái kiểm soát toàn bộ quốc gia. Về sau mặc dù Mông Cổ bị chia tách ra làm nhiều phần và nhà Nguyên (Bắc Nguyên) cuối cùng cũng biến mất vào đầu thế kỉ 15, nhưng mối đe dọa xâm lược đến từ người Mông Cổ không hề mất đi cho tới khi một thỏa thuận hòa bình giữa Minh và Tartar Khan dưới triều vua Long Khánh (1567-1572) được xác lập. Bởi vì phải hướng sự tập trung vào sự xâm lược ở phía bắc trong thời kì này, thứ được các nhà sử học cho rằng đây là một trong hai sự xâm lược của nước ngoài trong suốt thời nhà Minh, một cách tự nhiên đã làm cho nhà Minh không có khả năng thực thi một chính sách chủ động trong việc phòng thủ bờ biển chống lại hải tặc Nhật Bản. Sự cấm biển của nhà Minh vào cuối vương triều là thực tế nhằm thanh toán vấn đề hải tặc Nhật Bản đồng thời cũng là nhằm giải quyết vấn đề xâm lược của người Mông Cổ ở phía bắc.
Lệnh cấm biển của nhà Thanh trong những thập kỉ đầu thống trị của vương triều như một quyền lực quốc gia và việc duy trì hạn chế người dân tự do đi ra nước ngoài và sự hạn chế nghiêm ngặt tiếp xúc giữa người nước ngoài với người dân thường Trung Quốc tại các cảng biển sau khi từ bỏ lệnh cấm là bắt nguồn từ sự quan tâm tới chính trị trong nước, đó là nhằm mục đích loại bỏ mối liên hệ giữa các lực lượng phản Thanh ở lục địa và trên biển. Triều Thanh được lập nên bởi người thiểu số, những người cư trú ở phần đất xa xôi hơn phần lớn những người mà họ cai trị. Người Hán có số lượng lớn gấp vài trăm lần người Mãn Châu. Trước triều Thanh, ngoại trừ triều Nguyên được lập ra bởi người Mông Cổ trong một thời gian ngắn, không có quyền lực chính trị với tư cách như là một quốc gia thống nhất nào được tạo ra bởi người thiểu số ở Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, triều Mãn Thanh từ ngày đầu được thành lập và kiểm soát toàn bộ quốc gia đã chú tâm lớn tới việc bảo vệ vương triều trước sự kháng cự của người Hán, thứ không hề chấm dứt trong suốt thời gian vương triều Thanh tồn tại. Các vua Thanh biết rằng có hàng trăm ngàn người Hán sống ở Đông Nam Á, cách xa nơi họ có thể vươn quyền lực tới, và triều đình Thanh luôn coi những người Hán này là lực lượng phản Thanh tiềm tàng. Đó chính là lí do khi hoàng đế Khang Hi nói rằng triều Thanh phải thực thi những biện pháp cấm thương mại biển để ngăn chặn bất kì sự liên kết có thể nào giữa các lực lượng phản Thanh trong và ngoài nước.
3. Lý do kinh tế
Phân tích từ khía cạnh kinh tế thấy rằng lí do thứ nhất mà trong suốt triều Minh và đầu triều Thanh, toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc vẫn là nền kinh tế nông nghiệp truyền thống tự cung tự cấp hoặc bán tự cung tự cấp. Thực tế là trong thời gian này, kinh tế thương nghiệp đã tiến triển lớn với sự phát triển độc lập của thủ công nghiệp và thương mại nông nghiệp và mầm mống tư bản chủ nghĩa đã nổi lên kể từ giữa triều Minh nhưng tất cả những sự thay đổi này chỉ xảy ra ở một vài vùng và ở một vài lĩnh vực của nền kinh tế. Vào thời gian đó, động lực của việc mở cửa Trung Quốc đối với các mối quan hệ thương mại quốc tế phần lớn đến từ các tỉnh hưng thịnh ở vùng Đông nam nơi do sự phát triển cao về kinh tế thương nghiệp trong nông nghiệp và thủ công nghiệp thực sự cần tới thị trường ngoài nước nhất. Nhưng ở phần lớn hơn của quốc gia, như ở phần lớn các tỉnh trong đất liền bởi vì nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp hay bán tự cung tự cấp vẫn còn chiếm vị trí ưu thế cho nên không có yêu cầu cấp bách nào đối với thị trường ngoài nước. Bởi lý do này, bất cứ khi nào có tranh luận trong triều đình về việc mở cửa buôn bán với nước ngoài, tiếng nói ủng hộ cấm biển luôn chiếm ưu thế. Những ý kiến trái ngược khi đó phần lớn đến từ các quan chức quản lý các tỉnh phía Đông nam hoặc những người có quê ở đó. Trước những ý kiến mạnh mẽ đòi cấm biển hay đặt ngoại thương dưới những quy định cứng nhắc, ý kiến của họ khó có thể được chấp nhận trong nhiều trường hợp. Bên cạnh đó, điểm khởi đầu cho luận điểm của họ đối với chính sách mở cửa biển phần lớn là lợi nhuận từ thuế và sinh nhai của người dân ở vùng duyên hải, nhưng hiếm khi họ thảo luận về vấn đề từ tầm nhìn coi việc mở biển ở tầm quốc gia như là một chính sách trọng thương ở các quốc gia phương Tây. Điều này không nói lên điều gì ngoài sự yếu kém của kinh thế thương nghiệp của quốc gia tại thời điểm đó.
Thứ hai, chúng ta phải thừa nhận rằng Trung Quốc là một quốc gia lớn với nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ thống kinh tế quốc gia hợp nhất thứ có thể tạo ra phần lớn sản phẩm nó cần… Nó đã có ít sự phụ thuộc vào nền kinh tế của thế giới bên ngoài. Trên thực tế, Trung Quốc trong ngoại thương khi đó chủ yếu đã đóng vai trò là nước xuất khẩu các sản phẩm thủ công và nông nghiệp nội địa chứ không phải là nước nhập khẩu các sản phẩm của nước ngoài. Nó xuất đi chè, tơ, lụa, gốm, vải dệt tay, hợp kim đồng-niken, đường, giấy, dược liệu, … và nhập khẩu chủ yếu các thứ xa xỉ phẩm của nước ngoài ngoại trừ đồng của Nhật Bản, gạo của Xiêm và một số lượng nhỏ các sản phẩm công nghiệp phương Tây. Do lý do này, nó đã có được một cán cân ngoại thương mong muốn và xuất khẩu một số lượng lớn bạc hàng năm cho tới đầu thế kỉ 19 khi thương nhân người Anh bắt đầu vận chuyển thuốc phiện tới với số lượng lớn. Bất chấp ngoại thương có vai trò quan trọng như thế nào đối với một số vùng và một số ngành kinh tế của quốc gia tại thời