18/06/2018, 16:16

Chiến tranh trăm năm giữa Pháp và Anh- bài 7

Giới thiệu một số chỉ huy hàng đầu của người Anh trong chiến tranh trăm năm-giai đoạn cuộc chiến của nhà Valois Henry VI – Vua nước Anh Henry VI (từ ngày 06 Tháng 12 1421 – đến ngày 21 Tháng 5 năm 1471) là vua của nước Anh từ năm 1422- đến1461 và một lần nữa từ năm 1470 đến 1471 và ...

Giới thiệu một số chỉ huy hàng đầu của người Anh trong chiến tranh trăm năm-giai đoạn cuộc chiến của nhà Valois

Henry VI – Vua nước Anh

Henry VI (từ ngày 06 Tháng 12 1421 – đến ngày 21 Tháng 5 năm 1471) là vua của nước Anh từ năm 1422- đến1461 và một lần nữa từ năm 1470 đến 1471 và là người tranh chấp ngai vàng của nước Pháp từ năm 1422-1453. Cho đến năm 1437, triều đại của ông bị chi phối bởi nhiếp chính. Các tài liệu đương thời mô tả ông là yêu hòa bình và có đạo đức, không phù hợp với hoàn cảnh cuộc nội chiến đẫm máu còn được gọi là cuộc chiến Hoa hồng được bắt đầu trong thời trị vì của ông. Trong thời gian bị tâm thần ông đã được yêu cầu kết hô với Margaret-Nữ hoàng của Anjou, người nắm quyền kiểm soát vương quốc của ông và cũng góp phần vào sự sụp đổ của chính ông ta cũng như sự sụp đổ của Nhà Lancaster và sự gia tăng của Nhà York.

Thời thơ ấu của Henry VI 

Henry là con duy nhất và là người thừa kế của vua Henry V của nước Anh ( người đã chiến thắng trong trận Azicourt trước quân Pháp ). Ông sinh ngày 6 tháng 12 năm 1421 tại Windsor và đã lên ngôi ở vua của nước Anh lúc mới chín tháng tuổi vào ngày 31 tháng 8 năm 1422 khi cha ông qua đời, do đó ông trở thành người thừa kế ngai vàng nước Anh trẻ tuổi nhất. Hai tháng sau, ngày 21 Tháng Mười năm 1422, ông trở thành vua của nước Pháp sau cái chết của Charles VI-ông ngoại của ông như theo điều khoản của Hiệp ước Troyes năm 1420. Catherine de Valois-mẹ của ông lúc đó mới 20 tuổi và là con gái của Charles VI, đã bị nghi kị một cách nghiêm trọng bởi các quý tộc Anh và điều này đã ngăn cản việc bà có một vai trò đầy đủ trong việc nuôi dạy con trai mình.

Ngày 28 Tháng 9, 1423, các quý tộc đã thề trung thành với Henry VI. Họ triệu tập Nghị viện nhân danh nhà vua và thành lập một hội đồng nhiếp chính cho đến khi vua nên đến tuổi trưởng thành. Một trong những người anh em còn sống sót của Henry V- John, Công tước xứ Bedford, được bổ nhiệm làm quan nhiếp chính chuyên phụ trách cuộc chiến tranh đang diễn ra tại Pháp. Trong khi Bedford vắng mặt, chính phủ Anh được điều hành bởi Humphrey, Công tước xứ Gloucester-người anh em trai còn sống sót khác của Henry V, ông này được bổ nhiệm nhiệm vụ bảo vệ vương quốc và chế độ. Nhiệm vụ của ông bị hạn chế trong việc gìn giữ hòa bình và triệu tập Nghị viện. Henry Beaufort, Đức Giám mục của Winchester (sau 1426 nhậm chức Đức Hồng Y Giáo Chủ)-một người chú họ xa của Henry, có một vị trí quan trọng tại Hội đồng nhiếp chính. Sau khi Công tước Bedford qua đời vào năm 1435, Công tước xứ Gloucester tuyên bố mình là Nhiếp chính vương, nhưng đã vấp tranh cãi bởi các thành viên khác của Hội đồng nhiếp chính.

Từ 1428, gia sư của Henry là Richard de Beauchamp, Bá tước của Warwick, người có cha là nhân vật chủ chốt trong cuộc đảo chính chống lại sự cai trị của vua Richard II ( con trai của Hoàng tử Đen ).

Edmund và Jasper-những người anh em cùng cha khác mẹ của Henry VI, những người con trai trong cuộc tình của người mẹ góa chồng của ông với Owen Tudor, sau này được phong những lãnh địa công quốc. Edmund Tudor là cha của Henry Tudor-người sau đó lên ngôi vua như là Henry VII của Anh quốc ( trâu bò húc nhau ruồi muỗi được, nhà Lancaster và nhà York đều toi, nhà tudor hưởng phước ).

Phản ứng trước buổi đăng quang của Charles VII Valois làm Vua của Pháp ở nhà thờ Reims vào ngày 17 tháng Bảy năm 1429, Henry đã ngay lập tức đăng quang lên ngôi vua Anh trước tuổi tại Westminster Abbey vào ngày 6 Tháng 11 năm 1429, sau đó lễ đăng quang của ông như là vua của Pháp được tiến hành tại Notre Dame de Paris vào ngày 16 Tháng 12 năm 1431, mặc dù phải đến một tháng trước ngày sinh nhật thứ mười sáu của ông tức là ngày 13 Tháng 11 năm 1437 thì ông mới có được một số quyền điều hành độc lập, trước khi cuối cùng nhận được đầy đủ các quyền hạn của hoàng gia khi ông đủ tuổi trưởng thành.

Quản lý chính phủ và các chính sách tại nước Pháp 

Henry đến tuổi trưởng thành vào năm 1437, trong cũng năm đó mẹ ông đã qua đời và ông được giao quyền quản lý chính phủ. Henry- một con người nhút nhát và đạo đức, không thích sự lừa dối và bạo lực đã ngay lập tức cho phép triều đình của mình bị ảnh hưởng bởi một vài quý tộc mà ông yêu thích-những người có những quan điểm xung đột về vấn đề trong cuộc chiến tranh với nước Pháp.

Sau cái chết của Henry V, Anh đã bị vuột mất đà thắng lợi trong Chiến tranh Trăm năm, trong khi bắt đầu với chiến thắng quân sự của Joan Arc, nhà Valois đã đạt được những chiến thắng trên lục địa Châu Âu. Vị vua trẻ-Henry VI ủng hộ một chính sách hòa bình ở Pháp và do đó ông ủng hộ phe chủ trương Hòa bình, đứng đầu là Đức Hồng Y Beaufort và William de la Pole-Bá tước xứ Suffolk và những người đồng chí với họ, trong khi Humphrey-Công tước xứ Gloucester và Richard-Công tước xứ York, những người ủng hộ việc tiếp tục cuộc chiến đã bị nhà vua ghẻ lạnh.

Cuộc hôn nhân với Nữ Hoàng Margaret xứ Anjou 

Đức Hồng Y Beaufort và Bá tước Suffolk thuyết phục nhà vua Henry VI rằng cách tốt nhất để lập lại hòa bình với nước Pháp là thông qua một cuộc hôn nhân với Margaret Anjou, cháu gái của vua Charles VII và Nữ Hoàng Marie xứ Anjou. Henry đã đồng ý, đặc biệt là khi ông nghe nói về sắc đẹp tuyệt vời của Margaret và đã cử Suffolk đi thương lượng với Charles, ông này đã đồng ý với cuộc hôn nhân với điều kiện rằng ông sẽ không cho các của hồi môn theo phong tục và thay vào đó ông ta ( vua Pháp ) sẽ nhận được các vùng đất xứ Maine và Anjou từ tay người Anh. Những điều kiện này đã được nhất trí trong Hiệp ước thành Tours, nhưng việc nhượng lại Maine và Anjou đã được giữ bí mật với Nghị viện vì điều này sẽ làm người dân Anh trở nên cực kỳ giận dữ. Cuộc hôn nhân đã diễn ra vào ngày 23 tháng 4 năm 1445, một tháng sau ngày sinh nhật thứ mười lăm của Margaret.

Henry đã bị dao động khi phải giao nộp các vùng Maine và Anjou cho Charles vì biết rằng hành động này là tương đương với một sự phản bội và sẽ bị phản đối kịch liệt bởi các Bá tước Gloucester và York. Tuy nhiên, Margaret đã được cho là quyết tâm làm cho ông tiến hành việc giao đất này. Khi hiệp ước được công bố vào năm 1446, sự tức giận của nhân dân đã tập trung vào Bá tước Suffolk, nhưng Henry và Margaret đã quyết tâm bảo vệ ông này.

Thế lực của các Bá tước Suffolk và Somerset 

Năm 1447, nhà vua và hoàng hậu cho triệu tập Công tước xứ Gloucester trước Nghị viện về tội phản quốc. Động thái này được xúi giục bởi các kẻ thù của Công tước Gloucester – Bá tước Suffolk, Đức Hồng Y Beaufort lúc này đã già và cháu trai của ông ta-Edmund Beaufort, Bá tước Somerset. Công tước Gloucester đã bị tạm giam tại Bury St Edmunds nơi ông qua đời, có thể là do một cơn đau tim, mặc dù đương thời có tin đồn là ông đã bị đầu độc trước có thể được xét xử.

Công tước xứ York-người thừa kế ngôi vị của Henry VI, đã bị loại khỏi triều đình và cử đi để quản lý Ireland, trong khi các đối thủ của ông ta- các Bá tước Suffolk và Somerset đã được thăng thưởng tước Công, một danh hiệu tại thời điểm đó vẫn thường chỉ được dành cho những người ruột thịt gần nhà vua nhất. Công tước Somerset vốn mới được tấn phong đã được cử sang Pháp để chỉ huy cuộc chiến ( giữa Anh và Pháp ).

Trong các năm tiếp sau của triều đại của Henry, chế độ quân chủ đã trở thành ngày càng không được lòng dân, do những sự cố về mặt luật pháp, trật tự, tham nhũng, đã làm cho những khoản thu từ các lãnh địa của hoàng gia vào triều đình của nhà vua ngày càng giảm sút và đương nhiên Nhà nước đã gặp phải những khó khăn về mặt tài chính cộng với sự mất ổn định của các vùng lãnh thổ mà người Anh đang chiếm đóng tại Pháp. Năm 1447, giới quý tộc Anh đã dấy lên một chiến dịch chống lại Công tước Suffolk-người vốn bị căm ghét nhất trong đoàn tùy tùng của vua và được xem như là một kẻ phản bội của Vương quốc. Henry đã buộc phải điều ông này đi sống lưu vong, nhưng chiếc tàu của Suffolk đã bị chặn lại ở English Channel và cái xác bị băm vằm của ông này đã được tìm thấy trên bãi biển ở Dover.

Năm 1449, Công tước Somerset nhận nhiệm vụ chỉ huy chiến dịch ở Pháp và ông này đã làm tái tạo tình trạng thù địch ở Normandy ( đương nhiên là giữa người Anh và người Pháp ), nhưng tới mùa thu ông này phải tháo lui đến Caen. Vào năm 1450, người Pháp đã chiếm lại toàn bộ tỉnh này (Normandy), vùng đất vốn được chiếm bởi những chiến thắng cực kỳ nhọc nhằn của Henry V. Những người lính được gọi tái ngũ đã không còn được thanh toán đúng hạn, thêm vào đó là tình trạng vô luật pháp ở các quận phía nam của nước Anh, Jack Cade đã cầm đầu một cuộc nổi loạn ở Kent 1450, tự xưng là “John Mortimer”, quân nổi loạn rõ ràng là được sự ủng hộ của Công tước xứ York và đóng quân tại White Hart Inn ở Southwark. Henry VI phải đến London với một đội quân để đè bẹp cuộc nổi loạn, nhưng ông lại phát hiện ra rằng Cade đã bỏ chạy và ông này để lại hầu hết quân đội của mình phía sau trong khi bản thân đã dẫn đầu một lực lượng nhỏ để truy kích quân nổi dậy và gặp được họ ở Sevenoaks. Cuộc tháo chạy đã được chứng minh là một cuộc rút lui chiến thuật: Cade đã thành công trong một cuộc phục kích nhằm vào lực lượng của nhà vua trong trận chiến Solefields và quay trở lại để chiếm London. Cuối cùng, cuộc nổi loạn đã bị đàn áp và London đã được tái chiếm sau một vài ngày nằm trong tay quân phiến loạn, nhưng chủ yếu là bởi những nỗ lực của các cư dân của nó chứ không phải là của quân đội của nhà vua. Ở mức nào đó cuộc nổi dậy cho thấy rằng những cảm giác bất mãn trong dân chúng với Henry VI đang ngày càng lên cao.

Năm 1451, Công quốc Guyenne-vốn nằm trong tay người Anh từ thời vua Henry II cũng đã bị thất thủ ( đương nhiên là vào tay người Pháp ). Trong tháng 10 năm 1452, người Anh lại tổ chức một cuộc hành binh tiến vào Guyenne và tái chiếm Bordeaux và đã thu được một số thắng lợi, nhưng vào năm 1453 Bordeaux đã lại một lần nữa thất thủ làm cho Calais chở thành lãnh thổ duy nhất còn lại của nước Anh trên lục địa Châu Âu.

Henry VI bị điên và Công tước York can thiệp vào triều chính

Vào năm 1452, Công tước xứ York đã được thuyết phục để trở về từ Ireland, ông này đã khẳng định vị trí xứng đáng của mình trước Nghị viện và đặt dấu chấm hết cho một chính phủ tồi tệ. Công tước xứ York là một người rất được lòng dân chúng và ông này đã sớm huy động được một đội quân ở Shrewsbury. Trong khi đó, triều thần của Henry cũng huy động được một đội đội quân có kích thước tương tự như của ông kia ( Công tước xứ York ) ở London. Một cuộc thương thuyết đã được tiến hành ở phía nam London, với việc Công tước York đưa ra một danh sách các khiếu nại và yêu cầu thanh lọc triều đình, bao gồm cả việc bắt giữ Edmund Beaufort, Công tước thứ 2 của Somerset. Ban đầu nhà vua đã đồng ý, nhưng Margaret đã can thiệp để ngăn chặn việc bắt giữ Beaufort. Năm 1453, ảnh hưởng của ông này đã được khôi phục và York đã lại một lần nữa bị cô lập. Phe triều đình cũng đã được tăng cường bằng cách thông báo rằng Hoàng hậu đang mang thai.

Tuy nhiên, khi nghe thấy sự thất thủ lần cuối cùng của Bordeaux trong tháng 8 năm 1453, Henry đã rơi vào tình trạng suy nhược thần kinh và trở nên hoàn toàn vô thức với tất cả mọi thứ đang diễn ra xung quanh mình. Sự kiện này đã kéo dài trong hơn một năm và thậm chí Henry đã thất bại trong việc cho ra đời đứa con trai và là người thừa kế riêng của mình-vị hoàng từ vốn được đặt tên thánh là Edward. Có thể Henry VI đã thừa hưởng bệnh điên từ Charles VI của Pháp- ông ngoại của ông ta và phải sống liên tục trong sự điên rồ trong hơn ba mươi năm cuối của cuộc đời mình.

Trong khi đó Công tước xứ York đã có được một đồng minh rất quan trọng, đó là Richard Neville-Bá tước của Warwick, một trong những Đại quý tộc có ảnh hưởng nhất và có thể còn giàu có hơn cả chính bản thân York. York được bầu làm Hộ quốc công nhiếp chính của Vương quốc Anh trong năm 1454. Hoàng hậu Margaret đã bị loại trừ hoàn toàn khỏi triều đình và Edmund Beaufort đã bị giam giữ trong Tháp London, trong khi nhiều người ủng hộ phe York cho lan truyền tin đồn rằng người con của vua thực chất chính là con của Beaufort. Ngoài ra, trong những tháng mà York làm nhiếp chính ông đã giải quyết được vấn đề bội chi của chính phủ.

Thời kỳ Chiến tranh Hoa Hồng ( sẽ được dịch chi tiết ở phần sau)

Sau một loạt các trận chiến khốc liệt giữa hai nhà Lancaster và York, Henry đã bị lật đổ và bị cầm tù vào ngày 04 tháng ba 1461 bởi người anh em họ của mình, Edward York, người đã trở thành vua của nước Anh với tên hiệu Edward IV. Vào thời điểm này Henry thường xuyên trở nên điên rồ và dường như ông đã cười và ca hát trong khi trận St Albans lần thứ hai nổ ra để giải cứu cho chính ông. Nhưng Edward vẫn có thể chiếm ngôi vua nước Anh, mặc dù ông này không thể bắt tù binh Henry VI và bà hoàng hậu của ông ta, những người này đã chạy trốn đến Scotland. Trong thời gian đầu tiên của triều đại Edward IV, phe Lancaster vẫn tiếp tục kháng cự chủ yếu là dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hậu Margaret và những quý tộc vẫn trung thành với bà ở các quận phía Bắc của nước Anh và xứ Wales. Henry VI-người đã được che chở một cách an toàn bởi các đồng minh của nhà Lancaster ở Scotland, Northumberland và Yorkshire, nhưng cuối cùng ông vẫn bị bắt bởi vua Edward trong năm 1465 và sau đó bị giam giữ tại ngục Tháp London.

Quay trở lại ngai vàng 

Hoàng hậu Margaret, đang sống lưu vong ở Scotland và sau đó là ở Pháp, quyết tâm giành lại ngai vàng thay mặt chồng và con trai của bà. Cô độc một mình, bà không thể làm gì nhiều. Tuy nhiên, cuối cùng Edward IV đã mất đi hai trong số những người ủng hộ chính của ông: đó là Richard Neville-Bá tước Warwick và em trai của ông (Edward IV )-George, Công tước xứ Clarence. Theo sự xúi giục của vua Louis XI của nước Pháp, họ đã thành lập một liên minh bí mật với Margaret. Sau khi cho con gái của mình kết hôn với Edward xứ Westminster-con trai Henry và Margaret, Bá tước Warwick quay trở lại Anh và đánh bại phe York trong một trận chiến và phục hồi ngôi vị của Henry VI trong ngày 30 tháng 10 năm 1470 (Richard Neville có biệt danh là Gã buôn vua vì ông ta chán dựng vua nhà York lại dựng vua nhà Lancaster). Tuy nhiên, vào thời gian này thực chất Bá tước Warwick và Công tước Clarence thực sự là những nhà cai trị nước Anh nhân danh Henry VI.

Thời gian Henry trở lại ngai vàng kéo dài không đến sáu tháng. Warwick đã sớm làm cho mình lâm vào cảnh khó khăn khi tuyên chiến với xứ Burgundy ( một phần của nước Pháp nhưng vào thời gian này về mặt quân sự xứ này còn áp đảo cả chính quốc của nó ), bởi vì người đứng đầu xứ này đã cho Edward IV những hỗ trợ cần thiết để giành lại ngai vàng của ông ta bằng vũ lực. Ông ta ( Edward IV ) đã giành một chiến thắng quyết định ở trận Tewkesbury ngày 04 tháng 5 năm 1471, Edward của Westminster với danh hiệu Hoàng tử xứ Wales-con trai của Henry VI đã bị giết chết sau trận đánh này.

Ngồi tù và qua đời 

Henry đã bị giam giữ trong ngục Tháp London, nơi ông qua trong đêm ngày 21/22 tháng 5 năm 1471. Khả năng là đối thủ của Henry đã cố giữ cho ông ta còn sống đến thời điểm này và ra tay hạ sát Edward-người con trai của Henry, người vốn là một thủ lãnh ghê gớm hơn rất nhiều của phe Lancasters. Theo quấn sách sử Historie of the Arrivall of Edward IV, một biên niên sử chính thức thiên về Edward VI, thì Henry qua đời vì u sầu khi nghe tin tức về trận Tewkesbury và cái chết của con trai của ông. Tuy nhiên, sau đó có nhiều nghi ngờ rằng Edward VI-người tái đăng quang vào buổi sáng sau cái chết của Henry VI, trong thực tế đã ra lệnh giết chết ông ta.

Ban đầu vua Henry VI được chôn cất tại Abbey Chertsey, sau đó trong năm 1485 xác của ông được chuyển đến nhà nguyện St George-Lâu đài Windsor.

John Lancaster, Công tước thứ nhất của Bedford

 John Lancaster, Công tước thứ nhất của Bedford, (sinh từ ngày 20 tháng 6 năm 1389 – mất ngày 14 tháng 9 năm 1435), còn được gọi là John Plantagenet, là con trai thứ ba còn sống sót của vua Henry IV của Anh quốc với Hoàng Hậu Maria de Bohun và làm phó vương của Anh tại Pháp cho cháu trai của ông -vua Henry VI.Tiểu sử vắn tắtJohn được phong là Bá tước vùng Kendal, Bá tước vùng Richmond và Công tước xứ Bedford trong năm 1414 bởi anh trai của ông-vua Henry V. Ngày 14 tháng Sáu năm 1423, tại Troyes ông đã kết hôn với Anne-con gái của John the Fearless ( công tước xứ Bugundy-Pháp ). Sau cái chết của Anne trong khi sinh nở Paris năm 1432, ông đã kết hôn với Jacquetta Luxembourg. Con ngoài giá thú, ông có một người con gái tên là Mary Plantagenet, bà này đã kết hôn với Pierre de Montferrand (mất 1454).Khi vua Henry V qua đời vào năm 1422, Công tước Bedford ganh đua quyết liệt với người em trai của ông-Humphrey-Công tước xứ Gloucester trong việc nắm quyền kiểm soát Vương quốc Anh. Bedford đã được chính thức phong làm quan Nhiếp chính nhưng ông lại chỉ tập trung vào các trận chiến đang diễn ra ở nước Pháp, trong thời gian ông vắng mặt Công tước Gloucester đã trở thành Hộ quốc công của Anh quốc. Bedford đã nhiều lần đánh bại quân Pháp ở các trận Cravant, Vernuil, Herrings… và giai đoạn đầu của cuộc bao vây thành phố Orléans cho đến khi có sự xuất hiện của Joan Arc ở phía quân Pháp. Vào năm 1431, Bedford đã cố gắng bắt giữ và hành hình Joan Arc tại Rouen sau đó ông dàn xếp cho một lễ đăng quang của vua Henry VI vốn đang là một đứa bé vị thành niên tại Paris. Mặc dù đã hành hình Joan Arc nhưng Bedford vẫn không thể xoay chuyển được chiến cuộc ngày càng trở nên bất lợi cho người Anh, đặc biệt Anne-vợ ông thì Liên minh giữa Anh quốc và xứ Bugundy đã xụp đổ, lúc này không có sự hỗ trợ của quân đội Bugundy, người Anh không thể kháng cự nổi trước sức phản công mạnh mẽ của người Pháp và phải liên tục tháo lui và bại trận bất chấp những nỗ lực của ông ta. John đã chết trong khi Nghị viện của vùng Arras đang được tổ chức tại lâu đài Joyeux Repos của ông ở Rouen và được chôn cất tại Nhà thờ lớn Rouen Cathedral. Ông không để lại một người thừa kế hợp pháp nào.

John Talbot, Bá tước đầu tiên của Shrewsbury

John Talbot, Bá tước đầu tiên của Shrewsbury và cũng làBá tước đầu tiên của Waterford (sinh khoảng năm 1384/1387 tại Blakemere, Shropshire – mất ngày 17 tháng 7 năm 1453 tại Castillon-Pháp), ông còn được gọi là ” Bố già Talbot” và ông cũng là một chỉ huy quân sự quan trọng bậc nhất của người Anh trong cuộc Chiến tranh Trăm năm, ông dường như là người duy nhất nắm giữ chức vụ Nguyên soái của nhà Lancaster ở Pháp.

Tóm tắt tiểu sử 

Ông là hậu duệ của Richard Talbot, một người thuê đất của Walter Giffardtại Woburn và Battledsen trong vùng Bedfordshiretừ năm 1086. Gia đình Talbot là chư hầu phong kiến của nhà Giffard ở vùng Normandy. Hugh Talbot-con trai của ông ta (Richard Talbot)được cấp vùng Beaubec Abbey và nó được xác nhận bởi con trai của ông-Richard Talbot ( trùng tên với Talbot ông) vào năm 1153. Richard Talbot cháu ( chết năm 1175) được kê tên trong Honour of Giffard Giffard ở Buckinghamshiretrong năm 1166. Ông này cũng có một gia sản ở Linton tại Herefordshire và giao choGilbert Talbot-con trai của ông (mất 1231) thừa kế trong năm 1190.Một ông Gilbert Talbot (mất 1274) -cháu trai của ông Gilbert Talbot được vừa nói tới đã kết hôn với Gwenlynn Mechyll. SirRichard Talbot-con trai của họ đã nắm giữ thái ấp Eccleswall Herefordshire nhân danh Sarah-vợ của ông ta-người vốn là em gái của William de Beauchamp. Năm 1331 con trai của Richard Gilbert Talbot (1276-1346) đã được triệu tập vào Nghị viện Anh, hành động này được coi là bằng chứng về pháp lý của tước hiệu nam tước của ông ta. Con trai của Richard Gilbert kết hôn với Elizabeth Comyn và nhận từ vợ quyền thừa kế lâu đài Goodrich Castle ở Herefordshire.

John Talbot là con trai thứ hai của Richard Talbot, Nam tước đời thứ 4 nhà Talbot với Ankaret le Strange-Nữ bá tước thứ đời 7 của nhà Strange ở vùng Blackmere.Richard-em trai của ông( đặt tên giống ông bố) trở thành Tổng-Giám-Mục của thành phố Dublin và kiêm Lord Chancellor ( tương đương chức vụ tể tướng? ) của Ireland và một trong những chính khách có ảnh hưởng nhất ở Ailen vào thời gian của ông.

Cha ông qua đời năm 1396 khi Talbot mới chỉ lên chín tuổi, do đó Thomas Neville-Lord của Furnival đãtrở thành người chồng thứ hai của Ankaret, ông này đã là người có rất nhiều ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống thủa thiếu thời của JohnTalbot. Cuộc hôn nhân cũng tạo cơ hội mang lại một danh hiệu cho người con trai thứ hai của nhà Talbot theo ông bố dượng cũng qua ngả hôn nhân vì Neville không có con trai ( Talbot đã cưới Maud Neville-con gái và cũng là người thừa kế của Thomas Neville).

Khởi đầu lập nghiệp.

Từ 1404 đến 1413, ông phục vụ cho Gilbert-người anh trai cao tuổi của mình trong cuộc chiến ở xứ Wales hay còn gọi là cuộc nổi loạn của Owain Glyndŵr. Sau đó, trong vòng 5 năm sau đó kể từ tháng 2 năm 1414, ông giữ chức vụLord Lieutenant ở Ailen, nơi ông đã tham gia một số trận chiến. Ông đã phải có một loạt các tranh chấp với Bá tước Ormonde và Lord Grey of Ruthin về việc thừa kế trong danh dự vùng Wexford mà ông đang nắm giữ. Những khiếu nại đã được tiến hành để chống lại ông tại chính phủIreland và bạo lực đã nổ ra ở Herefordshire. Những tranh chấp của ông với Bá tước Ormonde đã leo thang thành một mối hận thù lâu dài giữa Lord Shrewsbury ( Talbot) và Tổng-giám-mục Dublin-người anh trai của ông ở một phe với nhà Butler và đồng minh của họ là nhà Berkeley. Sự thù hận đã đạt đến đỉnh cao trong những năm 1440, khi cả hai phe đều bị khiển trách bởi Hội đồng cơ mật bởi tranh chấp này đã làm suy yếu sự thống trị của người Anh ở Ai-len. Cuối cùng sự hòa giải đã đạt được bởi cuộc hôn nhân của con trai của Lord Shrewsbury và con gái-cũng là người thừa kế của Ormonde.

Phục vụ tại Pháp

Cho đến lúc đó chức vụ chính của John Talbot dường như là một Marcher Lord ( một nhà quý tộc tài năng và tin cậy được nhà vua Anh cử đi trấn giữ vùng biên ải, thường là vùng biên giới Anh-xứ Wales, một vùng cực kỳ hỗn tạp ). Năm 1427, ông đã lại một lần nữa đến nước Pháp, nơi ông đã chiến đấu cùng với Công tước Bedford và Bá tước Warwick tại các vùng khác nhau như Maine và và cuộc bao vây thành phố Orléans. Ông đã chiến đấu tại trận Patay vào ngày 18 tháng 6 năm 1429, tại trận này ông đã bị bắt làm tù binh và bị giam giữ trong bốn năm.

Ông được phóng thích để đổi lấy với Jean Poton de Xaintrailles-một viên thống chế của Pháp và trở về Anh vào tháng 5 năm 1433. Ông ở lại đó cho đến khi trở lại Pháp cùng với Bá tước Somerset.

Talbot là một người lính táo bạo và tích cực, có lẽ là một viên Đại úy táo bạo nhất của thời đại đó. Ông và binh lính của ông luôn luôn sẵn sàng để chiếm lại một thị trấn và giáng trả mọi bước tiến của quân Pháp. Phương châm của ông là tổ chức các cuộc tấn công nhanh chóng và tích cực. Ông được khen thưởng bằng cách được bổ nhiệm làm thống đốc và Trung tướng( lieutenant general ) ở Pháp và Normandy vào năm 1434, Công tước Bedford đã phong cho ông làm Bá tước của Clermont ( một vùng đất của Pháp ).

Tháng 1 năm 1436, ông đã dẫn đầu một lực lượng nhỏ bao vây Kyriell và đánh bại cả La Hire cùng với Xaintrailles tại Ry ởgần Rouen. Năm sau đó tại Crotoy sau khi tiến hành một cuộc đột kích táo bạo vào Somme ông đã làm cho một lực lượngquân Burgundy rất đông ( lúc này người Bugundy lại đã về phe người Pháp )phải tháo chạy tán loạn. Trong tháng Mười Hainăm 1439, sau một cuộc tấn công tạt sườn bất ngờ vào doanh trại của quân Pháp, ông đã đánh tan một đội quân tinh nhuệ đông khoảng 6000 người của Nguyên soái Richemont và năm sau đó ông tái chiếm thành phố Harfleur. Năm 1441 ông truy kích quân Pháp bốn lần tới tận sông Seine và sông Oise với một nỗ lực vô ích để ép họ phải tham chiến.

Lord của Shrewsbury

Khoảng tháng 2 năm 1442, Talbot trở lại Anh để yêu cầu tiếp viện khẩn cấp cho Công tước xứ York lúc này đang trấn thủ tại vùng Normandy. Trong tháng 3 theo mệnh lệnh của nhà vua tất cả các con tàu đã được trưng dụng cho mục đích này ( tăng viện) và bản thân Talbot phải đứng ra chịu trách nhiệm tập hợp các con tàu từ các cảng London và Sandwich.

Trong Whit Sunday-Chủ Nhật Trắng ngày 20 tháng 5, Henry VI trao tặng ông danh hiệu Comes Salopie, dịch là Bá tước của Shropshire nhưng bất chấp điều này, ông thường được biết đến như là Bá tước của Shrewsbury. Chỉ năm ngày sau đó để đáp ứng yêu cầu tái tăng viện Talbot đã quay trở lại Pháp vào tháng Sáu và cập cảng tại Harfleur. Trong thời gian này ông đã được gặp mặt Eleanor-người con gái đã 6 tuổi của ông lần đầu tiên và gần như chắc chắn là làm cho Nữ Bá tước Margaret ( vợ thứ hai của ông ta) mang thai một đứa trẻ khác.

Trong tháng 6 năm 1443, Talbot lại quay trở lại nước Anh để yêu cầu quân tiếp viện thay mặt cho Công tước York, nhưng vào thời gian này thay vì gửi sang Pháp một đội quân nằm dưới sự chỉ huy của Edmund Beaufort-em rể của Shrewsbury, Nghị viện Anh đã từ chối. Sir Christoper- người con trai của ông đã ở lại nước Anh và ngay sau đó anh này đã bị ở tuổi 23 bằng một ngọn thương và bởi một trong những người của mình-Griffin Vachan Treflidian vào ngày 10 tháng 8 tại Cawce, quận Salop.

Dũng sỹ Achilles của người Anh

Năm 1445ông được bổ nhiệm bởi vua Henry VI ( trên danh nghĩa là vua của nước Pháp) làm Nguyên soái tại Pháp. Bị bắt tại Rouen năm 1449 ông đã hứa sẽ không bao giờ mặc giáp để chống lại nhà vua Pháp một lần nữa và ông đã thực hiệnđúng với lời của mình. Tuy nhiên, mặc dù đã không trực tiếp tham gia chiến đấu, ông vẫn tiếp tục chỉ huy lực lượng quânAnh để chống lại người Pháp. Ông đã bị đánh bại và giết chết trong trận Castillon gần Bordeauxvào năm 1453, đây là một trận đánh có hiệu lực kết thúc sự thống trị của người Anh tại vùng lãnh thổ Aquitaine-một trong những nguyên nhân chính của cuộc chiến tranh trăm năm. Trái tim của ông được chôn trong ô cửa của nhà thờ St Alkmund Whitchurch, Shropshire.

Mặc dù Talbot thường được nhớ đến như là một chiến binh vĩ đại, một số người đã đặt ra những nghi ngờ về tài cầm quâncủa ông. Đặc biệt là họ cho rằng các cuộc tấn côngmang tính dại dột. Tốc độ và sự dữ dội là những yếu tố quan trọng để tạo ra thành công và chiến thắng trong các cuộc chiến thời trung cổ và không những vậy Talbot còn đòi hỏi phải có tính bất ngờ. Hơn nữa, ông thường ở vị trí ép đối thủ vàomột trận chiến mà họ không sẵn sàng. Trong thất bại của ông tại trậnPatay năm 1429, ông đã được khuyên bởi Sir John Fastolf-người sau đó đã bị đổ lỗi cho thất bại, rằng không nên tham chiến, nhưng lúc đó người Pháp đang được truyền cảm hứng từ Joan Arc và họ đã cho thấy một tinh thần chiến đấuchưa từng có – họthường tiếp cận một vị trí của quân Anh với một sự cẩn thận trọng cao đó.

 
John Fastolf
 

Sir John Fastolf ( sinh trong khoảng năm 1378 – chết ngày 5 tháng 11 năm 1459) là một hiệp sĩ Anh trong Chiến tranh Trăm năm, người đã có một danh tiếng kéo dài hơn trong thực tế bởi đã trở thành nguyên mẫu của Sir John Falstaff trong một vở kịch của Shakespeare. Tuy nhiên, nhiều sử gia cho rằng ông cũng rất xứng đáng để trở nên nổi tiếng nhờ chính khả năng của bản thân, không chỉ trong tư cách là một người lính mà còn như là một người bảo trợ cho văn học, một tác giả viết về chiến lược chiến thuật quân sự và có lẽ còn gần như là một nhà tư bản công nghiệp ở thời đầu.Thủa thiếu thời và những năm đầu tiên của sự nghiệpÔng là con trai của một quý ông ở vùng Norfolk, Sir John Fastolf Caister-on-Sea, và được cho là đã làm Hộ sỹ ( Hiệp sỹ học nghề ) từ Thomas Mowbray-Công tước xứ Norfolk từ khoảng trước năm 1398. Ông phục vụ cho Bá tước Thomas Lancaster ở Ai-len trong khoảng thời gian những năm 1405 và 1406. Ông tuyên bố đã đến được đất thánh Giê-ru-sa-lem khi còn là một cậu bé như vậy thì ông phải là thành viên của đoàn tùy tùng của Henry Bolingbroke, sau đó là của Henry IV của Anh quốc.Hôn nhân

Năm 1408, ông kết hôn với Millicent, góa phụ của Sir Stephen Scrope Castle Combe ở Wiltshire. Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho ông rất nhiều của cải.

Sự nghiệp của Fastolf ở Pháp

Ông phục vụ trong xứ Gascony năm 1413 và ở miền Bắc nước Pháp từ 1415 đến 1439, nơi ông phục vụ dưới Henry V và anh em trai của nhà vua, Công tước của Bedford. Ông đã tham gia vào cuộc bao vây thành phố Harfleur năm 1415 nhưng đã bị ốm nặng và phải quay về nhà và do đó bỏ lỡ mất trận Agincourt, mặc dù ông đã quay trở lại để bảo vệ Harfleur chống lại các nỗ lực tái chiếm thành phố của người Pháp trong mùa đông năm 1415-1416. Ông là chỉ huy đội cận vệ riêng của Bedford và là Thống đốc của các tỉnh Maine và Anjou và trong tháng 2 năm 1426 ông đã lập ra một đại đội Hiệp sỹ-Knight Companion và là thành viên của Most Noble Order of the Garter. Fastolf cũng được bổ nhiệm làm hiệp sĩ của Order of Golden Fleece ( Hiệp sỹ Lông cừu vàng? ) nhưng vinh dự này đã bị thu hồi vào năm 1429. Nhưng cũng trong năm đó, ông đã được bổ nhiệm thay Sir John Talbot, Bá tước thứ nhất của Shrewsbury-cũng là chỉ huy trực tiếp của ông và ông cũng trở thành một chủ đề gây nhiều tranh cãi sau khi kết thúc cuộc bao vây thành phố Orleans ( vấn đề công-tội ). Trong thời gian ở Pháp ông trở thành Nam tước của Sillé-le-Guillaume và do đó trở thành thành viên của giới quí tộc cao cấp, một vị trí mà ông không bao giờ có thể đạt được khi còn ở quê nhà.

Thành công và thất bại

Sau một chuyến quay trở lại Anh để thăm nhà trong năm 1428, ông quay trở lại với cuộc chiến và vào ngày 12 tháng Hai năm 1429 khi phụ trách hộ tống một đoàn xe tải chở đồ tiếp vận cho quân Anh đang bao vây Orléans ông đã đánh bại liên quân Pháp-Scotland trong trận Herrings ( Cá trích). Trong cuốn tiểu sử của ông

The Real Falstaff (xuất bản năm 2010), Stephen Cooper ( tác giả ) đã cố tái hiện lại vị trí của trận chiến này. Ngày 18 tháng 6 cùng năm, một đạo quân Anh lớn dưới sự chỉ huy của các chỉ huy Fastolf và Talbot đã phải hứng chịu một thất bại nghiêm trọng tại Patay. Theo nhà sử học Pháp Jehan de Waurin-người sống tại thời đó thì thảm họa bắt nguồn từ sự dại dột của Talbot và Fastolf chỉ chạy trốn khi sự kháng cự là vô vọng. Một số tài liệu khác ghi chép rằng ông ta đã tỏ ra hèn nhát và sự thật thì John-Công tước xứ Bedford lần đầu tiên đã tước danh hiệu Order of the Gater của ông, mặc dù sau quá trình điều tra ông đã được phục hồi danh dự.Fastolf tiếp tục phục vụ chiến đấu ở Pháp và chiếm được sự tin cậy bởi Bedford và Richard York. Cuối cùng ông chỉ trở về nhà trong năm 1440 khi đã qua tuổi sáu mươi. Tuy nhiên, ông tiếp tục mắc vào những vụ bê bối, và trong cuộc nổi loạn của Cade trong 1451, ông bị buộc tội nổi loạn-đây là nguyên nhân gây ra những thảm họa cho người Anh qua việc phải “giảm bớt quân ở Normandy”.

Đối đầu với Joan Arc

Trong cuộc bao vây thành phố Orleans năm 1429, người Pháp đã có ý định từ bỏ thành phố sau khi họ nghe tin đồn (trong đó có những tin đồn đúng sự thật) rằng John Fastolf đang đến với một lực lượng lớn quân Anh để tăng cường cho quân bao vây. Jean Dunois (còn được gọi là “Con hoang của Orleans”) đã quyết định không nói điều này với Joan và để đẩy nàng ra khỏi vị trí chỉ huy trọng yếu nhưng đã nhận được câu trả lờinổi tiếng của nàng.”

Bastard Bastard, nhân danh Chúa tôi ra lệnh cho ngài biết rằng ngay sau khi ngài nghe được tin Fastolf xuất hiện, ngài sẽphải cho tôi biết. Nếu hắn ta đi qua được mà tôi không biết thì tôi thề với ngài rằng tôi sẽ cắt cái đầu của ngài xuống “.Các chỉ huy Pháp đã thừa nhận rằng nàng nói đúng và nàng ( đương nhiên là cùng quân đội Pháp) đã thành công trong việc đánh bại cuộc bao vây này.Joan Arc

dẫn đầu quân Pháp tiến đến các thị trấn nằm trong thung lũng sông Loire và triển khai bao vây thành phốJargeau trong ngày 12 tháng 6 năm 1429, mặc dù Fastolf đã cố gắng tập trung binh lính và tăng cường phòng thủ bằng cả hỏa khí sử dụng thuốc súng. Sau kết quả của một chuỗi các thất bại bất ngờ, Talbot và Fastolf đã chọn giải pháp đối đầu với quân Pháp trong một trận chiến để chấm dứt các thành công của họ ( quân Pháp ) việc này đã dẫn đến trận chiến Patay nơi mà hầu như Fastolf chỉ chạy thoát thân trong gang tấc (ông đã tháo chạy tới Paris) và Talbot đã bị bắt làm tù binh (Joan đã dẫn đầu đội quân Pháp này và đã có mặt trong trận chiến mặc dù nàng đóng vai trò như thế nào trong đó thì còn đang là điều gây nhiều tranh cãi ).

Trong những năm 1950 nhà sử học McFarlane thuộc đại học Oxford đã phát hiện ra rằng Fastolf có một số tiền lớn ở Phápvà ông đã cố gắng để chuyển chúng trở lại nước Anh và đầu tư vào bất động sản. Vào thời điểm đó danh tiếng của ông bị lẫn lộn giữa cái tốt và cái xấu. Một người đầy tớ đã viết về ông rằng: ” ông là một con người tàn bạo, không bao giờ biếtthương hại và có lòng thương xót” và nhận xét này đã trở thành nổi tiếng bởi nó được ghi trong bức thư của Paston. Bên cạnh việc sở hữu các tài sản của vợ, ông còn có các bất động sản lớn tại Norfolk và Suffolk, một ngôi nhà tại Southwark ở London và ông cũng sở hữu the Boar’s Head Inn. Địa điểm tòa nhà của ông ở Southwark được biết đến như là Fastolf Place hoặc Palace đã được khai quật vào những năm 1990 nhưng người ta chỉ còn tìm thấy một vài phần của lớp đá ốp.Từ

năm 1435 mặc dù đã nghỉ hưu ông vẫn viết rất nhiều bức thư khuyến cáo chính phủ Anh thời đó về chiến lược và chính sách để theo đuổi cuộc chiến ở Pháp. Chúng được lưu giữbởi ngài William Worcester-thư ký của ông và cuối cùng được xuất bản bởi giáo sư Joseph Stevenson trong thế kỷ XIX. Ông cũng là trung tâm của những cuộc hội đàm văn học quan trọngmà nó đã tạo ra bản thảo của ông bằng tiếng Pháp và tiếng Anh.N

hững năm cuối đời ông gặp nhiều rắc rối bởi các vụ kiện tụng, tranh chấp liên quan đến bất động sản của mình ở vùngĐông Anglian, lúc này ông được sự giúp đỡ của cả Paston và Sir William Yelverton và phe chủ chiến tại triều đình Anh quốc, các mâu thuẫn giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa cuối cùng đã dẫn đến cuộc chiến tranh được gọi là nội chiến Hoa Hồng. Paston và Yelverton lại là hai trong số các nhân vật chính trong các trận chiến vì đống tài sản của ông sau khi ông qua đời. Fastolf có xu hướng thông cảm với Richard Plantagenet-Công tước đời thứ 3 của xứ York, người mà ông đã được biết đến và phục vụ tại Pháp, nhưng sẽ là một sự cường điệu khi nói rằng ông là ‘một Yorkist-người của phe York.’ Ông là một người goá vợ trong suốt thập kỷ cuối cùng của cuộc đời mình, khi ông sống tại Southwark và Caister và ông không có người thừa kế. Dường như ông là một nhân vật sống cô đơn và đã cố gắng để phác thảo kế hoạch thành lập một trường Cao đẳngChantry ở Lâu đài Caister Castle.

Chết và chôn cất

Ông qua đời tại Caister trong tháng 11 năm 1459. Ông được chôn cất bên cạnh vợ mình-bà Millicent ở tu viện St Benet’s Abbey trong một lối đi đặc biệt xây dựng ở phía Nam của nhà thờ tu viện St Benet. Trong thập niên cuối của cuộc đời ông có một đồng minh chính trị gần gũi và cũng là một người bạn-Paston John, một chủ đất Norfolk, người trở nên nổi tiếng qua các bức thư của nhà Paston, đó là một bộ sưu tập gồm hơn 1.000 hiện vật tương ứng giữa các thành viên của gia đình Paston. Di chúc trên giường bệnh của ông đặt John Paston vào vị trí như là một chấp hành viên và là người thừa kế của ông đã dẫn đến những vụ kiện tụng kéo dài nhiều năm. Các tàn tích của St Benet’s Abbey mang một vẻ đẹp ma mị nhưng người ta vẫn có thể đến tham quan cũng như những tàn tích của lâu đài Caister Castle. Lâu đài đã không bao giờ trở thành một trường Cao đẳng Chantry như Fastolf dự định. Thay vào đó nó được chuyển giao cho gia đình Paston. Phần lớn tài sản của Sir John qua bà Magdalen đã được chuyển đến trường Cao đẳng Oxford nơi ông được nhớ đến như một ân nhân .

Richard York-Công tước thứ 3 của York

Richard-Công tước thứ 3 của York, Bá tước thứ 6 của March, Bá tước thứ 4 của Cambridge và Bá tước thứ 7 của Ulster, thông thường ông được gọi là Richard York (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1411 – chết ngày 30 tháng 12 năm 1460) là một đại quý tộc hàng đầu của Anh quốc và cũng là chắt của vua Edward III. Ông thừa kế những bất động sản lớn và phục vụ trong nhiều phần khác nhau của lãnh thổ Anh tại Pháp vào cuối của cuộc Chiến tranh Trăm năm và cuối cùng tại Anh ông đã trở thành Hộ quốc công trong khi Henry VI bị điên. Xung đột giữa ông với Margaret của Anjou-vợ của Henry và các thành viên khác trong triều đình của Henry là một yếu tố hàng đầu trong các biến động chính trị của nước Anh vào giữa thế kỷ mười lăm và cũng là nguyên nhân chính của cuộc nội chiến Hoa Hồng. Cuối cùng Richard đã cố gắng để đòi ngôi vị nhưng đã được thuyết phục rằng ông sẽ chỉ trở thành vua cái chết của Henry. Trong vòng một vài tuần sau thỏa thuận này ông đã chết trong một trận chiến. Mặc dù Richard không bao giờ trở thành một nhà vua, ông là cha của Edward IV và Richard III ( những vị vua Anh thuộc nhà York và là những ông vua Anh cuối cùng thuộc giòng Plantagnet ).Cha của ông đã bị tử hình và bị tịch thu tài sản vì tội tham dự vào vụ Southampton Plot chống lại vua Henry V vào ngày 5 tháng 1415. Do đó Richard không có quyền thừa kế những vùng đất cũng như danh hiệu từ cha mình. Tuy nhiên, người chú về bên nội của ông-Edward Norwich, Công tước đời thứ 2 của York, người đã bị giết chết trong trận Agincourt ngày 25 tháng 10 năm 1415 đã không có con và Richard đã trở thành thừa kế nam gần nhất của ông ta.Sau một số do dự Henry V đã cho phép Richard kế thừa danh hiệu và các vùng đất của Công quốc xứ York. Với ít danh hiệu hơn nhưng lại nhiều bất động sản lớn hơn lãnh địa bá tước của March cũng đã rơi vào tay ông sau cái chết của người chú về đằng mẹ-Edmund Mortimer, Bá tước đời thứ 5 Earl March vào ngày 19 tháng 1 năm 1425. Lý do cho sự do dự của Henry là người ta nói rằng Edmund Mortimer đã vài lần công bố rằng ông ta có quyền đòi hỏi ngai vàng-Anh quốc cao hơn Henry IV của nước Anh-cha của Henry V và điều này rất thuận lợi cho các phe phái nổi loạn chống lại ông. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời của mình, Mortimer vẫn luôn là một người ủng hộ trung thành của Nhà Lancaster.

Richard York hoàn toàn được thừa hưởng tuyên bố đòi ngôi vua Anh từ Mortimer và Cambridge khi ông thừa kế bọn họ và ông cũng trở thành nhà Đại quý tộc giàu có và quyền lực nhất ở Anh quốc chỉ sau có nhà vua.

Tuổi thơ và giáo dục

Là một đứa trẻ mồ côi, việc quản lý các khoản thu nhập từ lãnh địa của Richard đã trở thành tài sản của Hoàng gia. Mặc dù rất nhiều vùng đất của người chú ở York đã được cấp vĩnh viễn cho ông ta và những người thừa kế nam của ông, những diện tích đất còn lại tập trung ở Lincolnshire, Northamptonshire, Yorkshire, Wiltshire và Gloucestershire là rất đáng kể. Do đó các giám hộ của cậu bé mồ côi coi đó là một món quà có giá trị cao từ Hoàng gia vào tháng Mười năm 1417 những lãnh địa này đã được cấp cho Ralph Neville-Bá tước đầu tiên của Westmoreland, còn cậu bé Richard sống dưới sự giám hộ của Sir Robert Waterton. Ralph Neville là cha của một gia đình rất lớn ( hai vợ, 23 đứa trẻ, 20 người trong số họ có thể trưởng thành ) và có nhiều con gái cần lấy chồng. Và có sự sắp xếp từ trước, vào năm 1424 ông này tổ chức đính hôn Richard lúc này mới 13 tuổi Cecily Neville với-con gái của mình mới 9 tuổi.

Trong tháng 10 năm 1425 khi Ralph Neville qua đời ông, để lại quyền giám hộ York cho bà vợ góa của ông, Joan Beaufort. Lúc này công việc giám hộ thậm chí còn thu được nhiều giá trị hơn nữa bởi vì Richard đã lại được thừa kế bất động sản của Mortimer sau cái chết của Bá tước March. Những thái ấp này tập trung ở vùng xứ Wales và trong biên giới Anh-xứ Wales ở xung quanh Ludlow.

Có rất ít tài liệu ghi lại thời thơ ấu của Richard. Ngày 19 tháng Năm năm 1426 ông được phong tước hiệp sĩ tại Leicester bởi John Lancaster-Công tước đầu tiên của Bedford, em trai của vua Henry V. Trong tháng 10 năm 1429 (hoặc có thể sớm hơn) cuộc hôn nhân của ông với Cecily Neville đã được cử hành. Ngày 6 tháng 11 ông có mặt tại lễ đăng quang chính thức của Henry VI tại Westminster Abbey. Sau đó ông theo Henry sang Pháp để có mặt tại lễ đăng quang của ông này như là vua của nước Pháp tại Notre Dame trong ngày 16 tháng 12 năm 1431. Cuối cùng, ngày 12 tháng năm 1432 ông đủ tuổi trưởng thành và được giao toàn quyền kiểm soát các bất động sản của mình.

Giai đoạn ở Pháp năm 1436-1439

Trong tháng 5 năm 1436, một vài tháng sau cái chết của Bedford, York được bổ nhiệm thay thế ông kia làm Trung úy của Anh quốc tại Pháp. Cuộc chinh phục của Henry V ở Pháp không thể được duy trì mãi mãi, hoặc là Vương quốc Anh cần thiết phải chinh phục thêm các vùng lãnh thổ để đảm bảo sự lệ thuộc vĩnh viễn của người Pháp, hoặc thừa nhận sự tồn tại của các lãnh thổ này để đạt được một thỏa hiệp. Trong khi Henry VI còn nhỏ tuổi, Hội đồng nhiếp chính của ông đã lợi dụng những điểm yếu của nước Pháp và liên minh với người Burgundy để làm tăng tài sản của nước Anh, nhưng sau khi Hiệp ước Arras được ký kết ( năm 1435), người Burgundy không còn công nhận yêu cầu của vua Anh về ngôi vị của vua Pháp nữa.

Việc bổ nhiệm York là một trong một số các biện pháp ngăn chặn và cố gắng duy trì các tài sản của Anh trên đất Pháp sau cái chết của Bedford cho đến khi vua Henry VI đủ tuổi trưởng thành. Việc Paris thất thủ trước quân Pháp (đích đến ban đầu của ông) đã làm cho quân đội của ông phải chuyển tới Normandy. Cùng hợp tác với các Đại úy của Bedford, York đã thu được một số thành công đáng kể như thu hồi lại Fecamp và giữ Pays de Caux, trong khi ông cũng thiết lập được trật tự và công lý tại Công quốc Normandy. Tuy nhiên, ông không hài lòng với các điều khoản mà theo đó ông được bổ nhiệm tại Pháp, chúng làm cho ông phải lấy nhiều tiền để thanh toán tiền lương cho quân lính của mình và các chi phí khác từ bất động sản riêng của chính mình. Thời hạn ở Pháp của ông chỉ được được kéo dài vượt quá mười hai tháng so với khế ước gốc và ông trở lại Anh vào tháng 11 năm 1439. Mặc dù có vị trí như là một trong những quý tộc hàng đầu của vương quốc, ông đã không có tên trong Hội đồng cơ mật của Henry VI khi quay trở về.

Quay lại Pháp một lần nữa năm 1440-1445

Henry lại điều York sang Pháp một lần nữa vào năm 1440 sau khi một cuộc đàm phán hòa bình với người Pháp bị thất bại. Ông được tái bổ nhiệm Trung úy tại nước Pháp vào ngày 02 Tháng 7, lần này ông nhận được những quyền hạn cuối cùng đã được cấp cho Bedford trước đó. Vào năm 1437, York đã có thể tin tưởng vào sự trung thành của những người ủng hộ Bedford bao gồm cả Sir John Fastolf và Sir William Oldhall.

Tuy nhiên vào năm 1443 Henry lại bổ một chỉ huy

mới,đó chính là John Beaufort-Công tước đời thứ nhất của Somerset, người phụ trách một đội quân gồm 8.000 binh sỹ, ban đầu đội quân này được dành để giải vây cho xứ Gascony. Đội quân này đã hút hết nhân lực và các nguồn lực khác mà York rất cần tại thời điểm đó, khi ông đang chiến đấu quyết liệt để giữ bằng được biên giới của vùng Normandy. Không chỉ có vậy, điều khoản trong việc bổ nhiệm Somerset có thể đã gây cho York cảm giác rằng vai trò của ông như là một vị Phó vương rất hiệu quả tại toàn bộ lãnh địa của nhà Lancaster tại Pháp đã giảm xuống chỉ còn là thống đốc của vùng Normandy. Quân đội của Somerset đã không đạt được một thắng lợi nào và cuối cùng phải quay trở về Normandy nơi mà ông này lăn đùng ra chết. Điều này có thể là sự khởi đầu của lòng thù hận mà York đã nuôi dưỡng với nhà Beaufort mà sau này nó đã trở thành một trong những nguyên nhân của cuộc nội chiến.

Thái độ của ông là phản đối kịch liệt việc Hội đồng cơ mật đầu hàng và giao nộp vùng Maine để đổi lấy một phần việc mở rộng thỏa thuận ngừng bắn với người Pháp và một cô dâu Pháp cho Henry, đã làm cho ông bị đẩy đi làm Phó vương ở Ireland ngày 30 Tháng 7. Trên một khía cạnh nào đó đây là một bổ nhiệm hợp lý vì Richard đang nắm danh hiệu Bá tước Ulster và có những bất động sản đáng kể ở Ireland, nhưng đây cũng là một cách thuận tiện loại bỏ ông ta khỏi chính trị ở cả Anh và Pháp. Thời hạn làm việc của của ông là mười năm, đây là một quyết định nhằm gạt ông ta ra khỏi triều đình Anh trong thời gian đó.

Những vấn đề trong nước giữ ông ở lại Anh cho đến tháng 6 năm 1449, nhưng cuối cùng ông đã lên đường cùng với Cecily (người đã mang thai vào thời điểm đó) và một đội tùy tùng đông khoảng 600 người. Điều này cho thấy ông đã dự kiến lưu trú ở lại đó một thời gian. Tuy nhiên, với tuyên bố thiếu tiền để trang trải cho các tài sản của mình ở Anh, York đã quyết định trở về Anh. Tình trạng tài chính của ông có thể thực sự có vấn đề, kể từ giữa những năm 1440 ông đã nợ Hoàng gia gần 40.000 £ và thu nhập từ các bất động sản của ông đã giảm.

Lãnh đạo phe đối lập năm 1450-1452

Trong năm 1450 việc bị bại trận liên tiếp trong mười năm trước đó đã tạo nên tình trạng bất ổn chính trị nghiêm trọng tại Anh. Vào tháng Giêng, Adam Moleyns-Thành viên của Hội đồng Cơ mật và Đức-Giám-mục của Chichester đã bị hành hình bởi đám đông ( theo kiểu Lynch ). Cũng trong tháng này ủy viên trưởng của Hội đồng cơ mật của nhà vua, William de la Pole-Công tước thứ nhất của Suffolk, đã bị ám sát trên đường đi lưu vong. Hạ viện yêu cầu nhà vua phải trả lại các khoản tài trợ cho đất đai và tiền bạc mà ông đã chi tiêu vào những mục mà ông yêu thích.

Trong tháng sáu, tại các hạt Kent và Suss.e.x đã dấy lên một cuộc nổi dậy. Dưới sự lãnh đạo của Jack Cade (lấy tên Mortimer), họ nắm quyền kiểm soát của London và giết chết John Fiennes, Nam tước đầu tiên của Saye và là quan Trưởng Ngân khố Tối cao của nước Anh. Trong tháng 8 cùng năm, các thị trấn cuối cùng được nắm giữ tại Normandy đã rơi vào tay người Pháp và những dòng người tị nạn đã làm ngập lụt nước Anh.

Ngày 07 tháng Chín, York đổ bộ xuống tại Beaumaris. Phải lẩn tránh một nỗ lực của Henry VI nhằm để chặn bắt ông ta và tập hợp những người ủng hộ, York đến London vào ngày 27 tháng 9. Sau một cuộc họp (và có thể có cả bạo lực) mà không đi đến một kết luận nào với nhà vua, York tiếp tục tăng cường tuyển binh cả ở vùng Đông Anglia và ở phía tây. Bạo lực ở London lại bùng lên khi Somerset trở lại Anh sau sự sụp đổ của những vùng lãnh thổ của Anh ở Normandy, nên ông này được giam vào trong ngục Tháp London cho sự an toàn của chính mình. Trong tháng 12 Nghị viện Anh bầu chọn viên thị thần của York-Sir William Oldhall làm diễn giả.Lập trường công khai của York là phải cải cách, đòi hỏi phải có một chính phủ tốt hơn và truy tố những kẻ phản bội-những người đã làm mất miền Bắc nước Pháp. Đánh giá bởi những hành động sau này

0