Chiến tranh trăm năm giữa Pháp và Anh- bài 4
Một số trận đánh trong cuộc chiến của nhà Caroline năm 1369 -> 1389 Cuộc chiến Trăm năm trong giai đoạn từ năm 1369 -> 1389 được gọi là cuộc chiến của nhà Caroline vì vua Charles V của nước Pháp đã khởi đầu cuộc chiến này vào năm 1369 và kết thúc nó vào năm 1389 sau khi Charles VI-con ...
Một số trận đánh trong cuộc chiến của nhà Caroline năm 1369 -> 1389
Cuộc chiến Trăm năm trong giai đoạn từ năm 1369 -> 1389 được gọi là cuộc chiến của nhà Caroline vì vua Charles V của nước Pháp đã khởi đầu cuộc chiến này vào năm 1369 và kết thúc nó vào năm 1389 sau khi Charles VI-con trai ông-ký hiệp ước hòa bình với Richard II của Anh quốc-con trai của Hoàng tử đen.
Tóm tắt về cuộc đời và sự nghiệp của Charles V
Charles V (ngày 21 tháng 1 năm 1338 – ngày 16 tháng 9 năm 1380), được gọi là The Wise ( khôn ngoan), là vua của nước Pháp từ năm 1364 cho đến khi ông chết vào năm 1380 và là thành viên của Nhà Valois. triều đại của ông đánh dấu một thời đỉnh cao cho nước Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm với việc quân đội của ông đã thu hồi nhiều vùng lãnh thổ vốn đã phải cắt cho nước Anh ttheo Hiệp ước Brétigny.
Tuổi trẻ
Charles được sinh ra tại Château de Vincennes ở ngoại ô Paris-Pháp, ông là con trai của vua John II của Pháp với Bonne của Luxembourg. Sau khi cha của ông kế vị lên ngôi vào năm 1350, Charles đã trở thành Dauphin của Pháp. Ông là người Pháp đầu tiên thừa kế và sử dụng danh hiệu vốn đặt tên theo tên của vùng đất Dauphine được mua lại bởi ông nội của Charles từ Đế quốc La mã Thánh thần.Vị vua tương lai là một cậu bé rất thông minh nhưng có thể chất yếu với làn da nhợt nhạt và một cơ thể gầy ốm và cân đối. Ông có một hình dáng trái ngược với người cha của mình-người rất cao lớn, mạnh mẽ và có mái tóc mầu cát, và theo đồn đại tại thời điểm đó thì ông không con trai đẻ của John. Những tin đồn tương tự cũng sẽ theo đuổi Charles VII-cháu trai của ông.
Thời nhiếp chính và cuộc nổi dậy của the Third Estate
Vua John là một chiến binh dũng cảm nhưng bị coi là nhà cai trị kém cỏi và bị xa lánh bởi tầng lớp quý tộc của mình qua việc độc đoán về pháp luật và sử dụng những cộng sự bị coi là không xứng đáng. Sau khi ngừng nghỉ ba năm, cuộc chiến Trăm năm tiếp tục trong năm 1355 với việc Edward-Hoàng tử đen, dẫn đầu một đội quân Anh-Gascon tiến hành một cuộc càn quét đốt phá trên khắp vùng tây nam nước Pháp.
Sau khi chặn đứng một cuộc tấn công của người Anh vào xứ Normandy, John đã dẫn một đội quân khoảng 16.000 người vượt qua sông Loire trong tháng Chín năm 1356 và cố gắng vây bắt đạo quân gồm khoảng 8.000 binh sĩ của Hoàng tử đen tại Poitiers. Từ chối lời khuyên từ một Thống chế là bao vây và bỏ đói Hoàng tử đen-một chiến thuật Edward sẽ chắc chắn bị đánh bại-John đã tấn công các vị trí mạnh mẽ của đối phương.
Trong trận Maupertuis (Poitiers) sau đó cung thủ Anh đã đánh bại hoàn toàn kỵ binh Pháp và John đã bị bắt. Charles đã dẫn đầu một đạo binh Pháp tại Poitiers và đạo quân này đã rút lui ngay đầu trận chiến. Ngày nay người ta cũng không hoàn toàn rõ ràng liệu vua John hay chính Thái tử Charles đã ra lệnh rút lui này. ( mời tham khảo lại trận Poitiers để xem chi tiết)Kết quả của trận chiến để lại nhiều cay đắng và giận dữ nhằm vào giới quý tộc, những người mà theo quan điểm đại chúng là đã phản bội lại nhà vua, nhưng Charles và những người anh em của ông lại thoát khỏi bị đổ lỗi và ông đã nhận được vinh dự khi trở về Paris. Nhà Dauphin triệu tập các thành viên của Estates General ( người đứng đầu các giai cấp ở các vùng, lúc đó nước Pháp có ba giai cấp: Quý tộc, tăng lữ và bình dân – đây là tiền thân của Nghị viện Pháp ) vào tháng 10 để tìm kiếm nguồn tiền cho công cuộc bảo vệ đất nước.
Tức giận với những gì mà họ coi là quản lý yếu kém, nhiều người đã tập hợp lại và tổ chức thành một hội đồng do Etienne Marcel- the Provost of Merchant/ Người đứng đầu của tầng lớp thương nhân (một danh hiệu tương đương với thị trưởng của Paris ngày nay). Marcel đòi bãi nhiệm bảy Bộ trưởng của Hoàng gia, thay thế họ bằng một Hội đồng 28 người, được chọn từ quý tộc, tu sĩ và tư sản và trả tự do cho Charles II của Navarre, một quý tộc hàng đầu người Norman vốn tuyên bố đòi quyền thừa kế ngai vàng của nước Pháp, người vốn bị giam giữ bởi vua John vì đã giết chết vị Nguyên soái của ông ta.
Nhà Dauphin từ chối yêu cầu này, cho miễn nhiệm các thành viên của Estates-General và rời khỏi Paris.Một cuộc thi ý chí tiếp theo sau đó. Trong một nỗ lực để huy động tiền, Charles đã cố gắng để phá giá đồng tiền của Pháp ( chắc là in thêm tiền ); Marcel đã ra lệnh đình công, và nhà Dauphin đã bị buộc phải hủy bỏ kế hoạch của mình và gọi lại các thành viên của Estates vào tháng Hai năm 1357.The Third Estate ( đại diện của tầng lớp bình dân ) trình lên nhà Dauphin sắc lệnh Grand Ordinance-đây là một danh sách 61 điều luậtvốn giao cho the Estates-General quyền phê duyệt các loại thuế trong tương laivà bầu Hội đồng gồm 36 thành viên với 12 người từ mỗi Estate để cố vấn cho nhà vua.
Cuối cùng Charles đã phải ký sắc lệnh này, nhưng những cố vấn vốn đã bị giải tán của ông đã mang tin tức về tài liệu này đến vua John, người đang bị giam giữ tại Bordeaux. Nhà vua đã từchối chấp nhận sắc lệnh này trước khi được đưa tới Anh bởi Hoàng tử Edward.
Charles đã thực hiện được một tiến bộ của hoàng gia trên toàn quốctrong mùa hè năm đó-những chiến thắng có sự hỗ trợ của các địa phương. Trong khi đó Marcel với sự tham gia của Charles de Navarre- người luôn khẳng định rằng yêu cầu lên ngôi của mình cũng phải ít nhất như là của Edward III. Nhà Dauphin quay lại Paris và giành lại được thành phố.
Trong khi đó Marcel sử dụng một vụ sát hại một công dân đang tìm nơi trú ẩn để thực hiện một cuộc tấn công gần vào nhà Dauphin. Triệu tập một nhóm các thương gia, Vị Thị trưởng này đã dẫn đầu cuộc tuần hành của một đội quân 3.000 người, tiến vào cung điện Hoàng gia và đám đông giết chết ngay hai viên Thống Chế của nhà Dauphin ngay trước mắt ông ta. Charles hoàn toàn kinh hoàng, cố gắng chấn tĩnh đám đông trong giây lát và tìm cách gửi gia đình của ông đi xa rồi trốn khỏi thủ đô ngay khi có thể.
Hành động của Marcel đã làm chấm dứt sự hỗ trợ trong số các quý tộc cho the Third Estate và sự ủng hộ tiếp theo của ông ta với phong trào nông dân khởi nghĩa Jacquerie làm suy yếu sự hỗ trợ cho ông từ các thị trấn, ông đã bị ám sát bởi một đám đông trong ngày 31 Tháng 7 năm 1358. Charles đã có thể khôi phục lại Paris vào tháng tiếp theo, sau đó ông đã ban hành một lệnh ân xá chung cho tất cả, ngoại trừ các cộng sự thân thiết nhất của Marcel.
Hiệp ước Bretigny
Vụ bắt giữ John tạo cho người Anh ưu thế trong các cuộc đàm phán hòa bình. Nhà vua đã ký kết một hiệp ước trong năm 1359 theo đó phải nhượng lại phần lớn phía tây nước Pháp cho nước Anh và ấn định một khoản tiền chuộc 4 triệu Ecu cho cả nước. Nhà Dauphin (được hỗ trợ bởi Hội đồng cố vấn của ông và Estates General) đã bác bỏ hiệp ước này và vua Edward sử dụng điều này như là một cái cớ để xâm lược Pháp vào năm sau đó. Edward đến được Reims trong tháng 12 và Paris vào thánh 3, nhưng Charles tin tưởng vào hệ thống phòng thủ của thành phố vốn đã được cải thiện và ông cấm binh lính của mình đối đầu trực tiếp với người Anh.Charles dựa vào các công sự của Paris vốn được tu bổ bởi Marcel và sau đó cho xây lại Bức tường thành phía Bờ trái (Rive Gauche) và xây một bức tường thành mới ỏ Bờ phải, sau đó nó được mở rộng thành một pháo đài mới được gọi là Bastille ( sau này được gọi là pháo đài nhà ngục Bastille- biểu tượng của nền quân chủ chuyên chế Pháp).
Edward cướp phá và lục soát các vùng nông thôn nhưng không thể ép quân Pháp vào một trận đánh quyết định, và cuối cùng đã đồng ý cắt giảm các điều khoản của mình. Chiến lược tránh đối đầu này có thể đã chứng minh là rất có lợi cho nước Pháp trong suốt triều đại của Charles.Hiệp ước Bretigny, ký kết ngày 8 Tháng Năm 1360, nhượng lại một phần ba phía tây nước Pháp, chủ yếu là ở các vùng Aquitaine và Gascony – cho nước Anh và giảm tiền chuộc nhà vua xuống còn 3 triệu Ecu. Jean được phóng thích vào tháng 10 sau khi người con trai thứ hai của ông-Louis I của Anjou mang chính bản thân đến làm con tin.
Mặc dù cha của ông đã được thả tự do, Charles lại phải chịu những bi kịch cá nhân. Joan-con gái ba tuổi và Bonne-người con trai sơ sinh của ông đã chết trong vòng hai tuần khác nhau; nhà Dauphin đã nói tại lễ tang của hai con là ” nỗi buồn chưa bao giờ ông phải chịu từ trước tới nay” Bản thân Charles đã bị bệnh nặng với tóc và móng tay bị rụng ra, một số gợi ý cho thấy đây là các triệu chứng của ngộ độc asen.Vua John đã chứng minh mình là nhà cầm quyền không hiệu quả khi ông được phóng thích trở về Pháp . Khi Louis của Anjou trốn thoát khỏi nơi giam giữ của người Anh, John tuyên bố ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc quay trở lại nơi mình bị giam giữ. Ông đã tới London vào tháng 1 năm 1364 mắc bệnh và đã qua đời vào tháng Tư ở đó.
Lên ngôi vua
Charles lên ngôi vua của nước Pháp trong năm 1364 tại nhà thờ ở Reims, Pháp. Nhà vua mới đã được rất thông minh nhưng ít nói và hay giấu ý nghĩ của mình, với đôi mắt sắc nét, mũi dài và có yểu tướng. Ông bị bệnh gout ở tay phải và abscess ở bên tay trái, có thể đây là một tác dụng phụ của một cố gắng đầu độc ông trong năm 1359. Các bác sĩ có thể điều trị vết thương, nhưng nói với ông rằng nếu nó bị khô thì ông sẽ chết trong vòng 15 ngày. “Không ngạc nhiên”, sử gia Barbara Tuchman nói “nhà vua sống trong ý thức về một sự cấp bách.” Cử chỉ bên ngoài của ông có thể giấu nhiều cảm xúc bên trong; hôn nhân của ông với Joan de Bourbon được xem là rất bền vững và ông đã không cố gắng để che giấu nỗi buồn của mình tại tang lễ của vợ hoặc của những đứa con của ông, năm trong số đó đã chết trước ông ta.
Triều đại của ông đã bị chi phối bởi các cuộc chiến tranh với nước Anh và hai vấn đề chính: phục hồi các vùng lãnh thổ bị mất tại hòa ước Bretigny và Tard-Venus (tiếng Pháp “những người đến muộn”) đó là việc các đại đội lính đánh thuê đã quay sang cướp bóc sau khi Hiệp ước được ký kết. Để đạt được những mục tiêu này, Charles đã chọn một quý tộc trẻ tuổi người Brittany tên là Bertrand du Guesclin làm chỉ huy của họ, người có biệt danh là “con chó đen của Brocéliande”, du Guesclin chiến đấu với người Anh và thu được thành công trong Cuộc chiến kế thừa Breton và là một chuyên gia về chiến tranh du kích. Du Guesclin cũng đã đánh bại Charles II của Navarre trong trận Cocherel năm 1364 và loại bỏ mối đe dọa của vị quý tộc này đến Paris.
Để tìm cách thoát khỏi những người Tard-Venus, đầu tiên Charles đã thuê họ cho một cuộc thập tự chinh vào Hungary, nhưng do tiếng xấu về sự cướp bóc trước đó của họ và các công dân của Strasbourg đã từ chối không để cho họ qua sông Rhine để tiếp tục cuộc hành trình của họ. Tiếp theo Charles lại gửi các đại đội đánh thuê (dưới sự lãnh đạo của du Guesclin) để chiến đấu trong một cuộc nội chiến ở Castile giữa vua Peter Cruel và Henry-người anh em trai ngoài giá thú của ông. Peter được sự ủng hộ của người Anh, trong khi Henry được sự hỗ trợ của Pháp.
Sau chiến dịch Castillan, Hoàng tử đen đã trở nên chìm ngập trong bệnh tật và nợ nần. Sự cai trị của ông ở Gascony ngày càng trở nên độc đoán. Các quý tộc ở Gasconyyêu cầu Charles viện trợ và khi Hoàng tử đen từ chối trả lời một giấy triệu tập tới Paris để trả lời các cáo buộc, Charles đãphán quyết làông ta không trung thành và tuyênchiếnvào tháng 5 năm 1369. Về mặt pháp lý, Charles có đủ quyền để làm điều này, ông không bao giờ chấp nhận việc từ bỏchủ quyền quốc gia và do đó xứ Gascony vẫn thuộc về nhà vua một cách hợp pháp.
Thay vì tìm kiếm một trận chiến lớn như những người tiền nhiệm đã làm, Charles chọn một chiến thuật đánh tiêu hao và chỉ chấp nhận chiến đấu tại địa điểm mà ông có lợi thế. Lực lượng hải quân Pháp và Castillan phá hủy một hạm đội Anh tại La Rochelle vào năm 1372. Sau đó, du Guesclin liên tung ra các cuộc tấn công đột kích bằng hải quân vào bờ biển của Anh, để trả thù cho các cuộc càn quét chevauchée của người Anh.
Bertrand du Guesclin được bổ nhiệm làm Nguyên soái của Pháp trong năm 1370 và ông đã đánh bại một cuộc tấn công lớn của người Anh ở miền bắc nước Pháp bằng chiến thuật sử dụng các cuộc đột kích, bao vây và những trận tấn công dữ dội. Đặc biệt là ông đã nghiền nát Robert Knolles ( một chỉ huy nổi tiếng của Anh) trong trận Pontvallain.Hầu hết các chỉ huy quân sự cao cấp của Anh đã thiệt mạng trong một vài tháng và Hoàng tử đen đã bỏ về Anh nơi ông qua đời vào năm 1371. Tại năm 1374 Charles đã thu hồi tất cả tất cả các vùng đất của Pháp, ngoại trừ Calais và Aquitaine và vô hiệu hoá hậu quả của Hiệp ước Bretigny.
Cái chết của Nhà vua
Những năm tháng còn lại của Charles được sử dụng vào việc củng cố Normandy (và trung hòa sức mạnh của Charles de Navarre). các cuộc đàm phán hòa bình với người Anh vẫn tiếp tục không thành công. Những sắc thuế mới để hỗ trợ cho cuộc chiến tranh của ông chống lại người Anh đã gây bất mãn sâu sắc trong tầng lớp nhân dân lao động.
Vết áp xe trên cánh tay trái của nhà vua đã khô cạn vào đầu tháng Chín năm 1380, và Charles chuẩn bị để chết. Ngày, giờ phút lâm chung có lẽ ông lại cảm thấy sợ hãi cho chính linh hồn của mình, Charles công bố việc bãi bỏ thuế lò sưởi, nền tảng của tài chính của chính phủ. Sắc thuế này là không thể thực thực hiện nổi, nhưng người ta đã biết đến các điều khoản chi tiết của nó và chính phủ đã từ chối cắt giảm các loại thuế khác điều này đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy ở Maillotin trong 1381.
Nhà Vua qua đời vào ngày 16 tháng 9 năm 1380 và được kế vị bởiCharles VI-người con trai 12 tuổi của ông. Ông được chôn cất tại Vương Cung Thánh Đường St Denis ở St Denis, Pháp.
Trận Castillon
Thời gian: Ngày 17 Tháng Bảy năm 1453
Địa điểm: Castillon-la-Bataille, Gascony
Kết quả: Quân Pháp giành chiến thắng quyết địnhCác bên Tham chiến
Vương quốc Anh
Chỉ huyJohn Talbot, Bá tước của Shrewsbury
Lực lượng :6.000-7.000 người
Tổn thất : 4.000 chủ yếu là bị thương hoặc bị bắt giữ
Vương quốc Pháp
Lãnh địa Công tước xứ Brittany
Chỉ huy : Jean Bureau
Lực lượng : 7.000-10.000 người
Tổn thất : 100 người chết hoặc bị thương
Trận Castillon năm 1453 là trận đánh cuối cùng giữa Pháp và Anh trong Chiến tranh Trăm năm. Đây là trận đánh đầu tiên trong lịch sử châu Âu, nơi mà pháo binh là một nhân tố chính trong việc quyết định yếu tố thành bại của trận chiến.Sau khi quân Pháp chiếm được Bordeaux trong năm 1451, dường như Chiến tranh năm trăm đã đi vào kết thúc. Tuy nhiên sau ba trăm năm dưới sự cai trị của nước Anh, các công dân của Bordeaux tự coi mình là thần dân của vua Anh và gửi sứ giả đến Henry VI của Anh quốc yêu cầu ông này cử binh chiếm lại tỉnh này.Ngày 17 tháng 10 năm 1452, John Talbot, Bá tước Shrewsbury đã đổ bộ xuống gần Bordeaux với một lực lượng khoảng 3.000 kị sỹ và cung thủ. Các đơn vị đồn trú của Pháp đã bị xóa sổ bởi các công dân của Bordeaux, những người sau đó hân hoan mở cửa cho người Anh. Phần lớn phía tây của Gascony đã theo gương của Bordeaux và hoan nghênh người Anh.Trong những tháng mùa đông, vua Charles VII của Pháp tập trung quân đội của mình để sẵn sàng cho một chiến dịch. Khi mùa xuân đến Charles tiến về phía Bordeaux dọc theo ba tuyến đường khác nhau với ba đội quân cùng một lúc.
Talbot nhận được 3.000 lính tăng viện nữa để đối mặt với cuộc phản công của Pháp, nhưng một lực lượng như vậy vẫn đủ về mặt số lượng để chặng hàng nghìn quân Pháp đang tiến về biên giới với Gascony. Khi đội quân đi đầu của Pháp tiến hành bao vây Castillon, Talbot từ bỏ kế hoạch ban đầu của mình và tiến hành một cuộc tấn công để giải vây cho nó. Jean Bureau -chỉ huy của Pháp, đã rất cảnh giác trước sự tiến quân của Talbot, và ra lệnh tập trung từ 7.000 đến 10.000 quân đóng trung quanh doanh trại của mình với một con hào cùng với hệ thống hàng rào và triển khai 300 khẩu pháo trên bờ công sự. Đây là một công cuộc xây dựng hệ thống phòng thủ phi thường của người Pháp, người được hưởng ưu thế về số lượng. Họ đã không thực hiện những cố gắng để tấn công vào Castillon.
Talbot tiến gần đến doang trại của Pháp vào ngày 17 tháng Bảy năm 1453, ông đến đó trước phần chính của quân đội của mình và chỉ đi với một đội xung kích gồm 1.300 kị sỹ.Ông ta cũng đã đánh bại một lực lượng có số lượng tương tự của các cung thủ Pháp (lực lượng dân binh) trong khu rừng trước mặt doanh trại của quân Pháp, chiến thắng này làm cho người của ông tăng sỹ khí lên một cách đáng kể.
Một vài giờ sau cuộc giao tranh ban đầu, một người đưa tin từ thị trấn đến và báo cáo với Talbot-lúc này đang cho quân của ông nghỉ ngơi (họ đã hành quân qua đêm) rằng toàn quân Pháp đang rút lui toàn và rằng hàng trăm người đang cưỡi ngựa để chạy trốn ra khỏi các công sự. Từ trên bức tường thành một đám mây bụi khổng lồ có thể được nhìn thấy từ một khoảng cách khá xa. Thật không may cho ông ta, họ chỉ là những người đi theo doanh trại và đã ra lệnh phải rời khỏi đó trước khi trận chiến nổ ra.
Talbot vội vàng tổ chức lại người của mình và tấn công về phía doanh trại của quân Pháp, và rất ngạc nhiên khi thấy rằng bờ công sự được bảo vệ bởi hàng ngàn cung thủ và tay nỏ cùng hàng trăm khẩu pháo. Tuy ngạc nhiên nhưng không hề nản chí, Talbot đã đưa ra tín hiệu tấn công vào quân đội Pháp. Talbot đã không thể tham gia vào trận chiến một cách trực tiếp. Ông đã bị bắt tù binh và được ân xá trước đó, do đó đã không được phép mang vũ khí chống lại người Pháp ( lời thề trước khi được phóng thích ).
Quân Anh tấn công vào doanh trại của Pháp sau khi vượt qua một con hào, và chỉ để nhận được một trận mưa tên và nỏ cũng với những loạt đạn bắn ra dữ dội từ các khẩu pháo và súng tay hạng nhẹ. Hỏa lực bắn tập trung có thể được giải thích bởi thực tế là com mương- có thể là do tình cờ là một phần của một dòng suối nhỏ, tạo ra một tầm quan sát lý tưởng cho quân đồn trú để phòng thủ.
Khi trận chiến bắt đầu, Talbot nhận thấy rằng lực lượng bộ binh hàng đầu của ông là quá mỏng. Sau đó một giờ các kỵ binh của đội quân người Breton dưới sự chỉ huy của Công tước xứ Brittany đã đến nơi và tấn công vào sườn phải của ông. Người Anh đã bỏ chạy và ngay lập tức bị truy đuổi bởi lực lượng chính của quân đội Pháp.
Trong lúc tháo chạy con ngựa của Talbot đã bị giết bởi một viên đạn pháo hình cầu và ông đã bị mắc kẹt bên dưới nó, cho đến khi một người Pháp-một tay cung thủ Pháp đã nhận ra và giết chết ông ta bằng một chiếc rìu trận. Sau cái chết của ông thì người Pháp đã chiếm lại Bordeaux ba tháng sau đó, hậu quả của nó là mang lại sự kết thúc cho cuộc Chiến Trăm năm .
Một năm sau đó-năm 1453 vua Henry VI của Anh quốc ( phe Lancaster ) bị tâm thần, tiếp sau đó cuộc chiến tranh của Hoa Hồng đã bùng nổ ( nội chiến giữa phe York và phe Lancaster ở nước Anh ) và rõ ràng đã bị mất ưu thế về quân sự trước người Pháp, người Anh đã không còn vị trí nào để tiếp tục theo đuổi các tuyên bố của họ về ngôi vua nước Pháp và bị mất hết đất đai trên lục địa châu Âu (trừ thành phố Calais, sở hữu cuối cùng của Anh tại Pháp, nhưng cuối cùng cũng mất nốt vào năm 1558) và các đảo trên English Channel vẫn thuộc về Anh.
Bertrand du Guesclin
Bertrand du Guesclin (c. 1320 – ngày 13 tháng 7 năm 1380), được gọi là Đại bàng của xứ Brittany hoặc Chó đen của Brocéliande, là một hiệp sĩ người Breton và là vị chỉ huy quân sự của Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm. Ông là Nguyên soái của Pháp quốc từ năm 1370 đến khi ông chết. Nổi tiếng với chiến thuật Fabian của mình ( tránh giao chiến đối mặt ), ông đã tham gia vào sáu trận đánh dàn trận cự kỳ dữ dội và thắng bốn trận mà ông nắm quyền chỉ huy.
Bertrand du Guesclin được sinh ra tại Chateau de la Motte de Broen tại Broons, gần Dinan ở Brittany. Gia đình của ông là một gia đình quý tộc nhỏ người Breton- seigneurs của Broons ( ông là con trai thứ trong một gia đình quý tộc địa phương nhỏ, theo phong tục phong kiến hồi đó thì con trưởng sẽ được thừa kế danh hiệu của cha, còn những người con thứ sẽ được gửi đi xa để đào được đào tạo làm Hiệp sỹ và tìm kiếm vinh quang và tiền bạc trên chiến trường, hoặc hề hề lấy vợ để kiếm của hồi môn-máy bay bà già cũng ok).
Ban đầu ông phục vụ Charles của Blois trong chiến tranh Kế vị Breton (1341-1364). Charles nhận được sự hỗ trợ của Hoàng gia Pháp trong khi Jean de Montfort-đối thủ của ông là đồng minh của người Anh. Du Guesclin đã được phong tước hiệp sĩ vào năm 1354 trong khi phục vụ cho Arnoul d’Audrehem sau một trận chiến chống lại một cuộc tấn công của Hugh Calveley vào lâu đài của Montmuran.
Năm 1356-1357, Du Guesclin phòng thủ thành công chống lại một cuộc bao vây nhằm vào Rennes của người Anh dưới sự chỉ huy của Henry de Grosmont bằng cách sử dụng chiến thuật du kích. Trong suốt cuộc bao vây, ông đã giết chết một hiệp sĩ người Anh tên là William Bamborough-người đã thách ông đánh một trận chiến tay đôi.Cuộc kháng chiến dũng cảm của du Guesclin đã giúp khôi phục sự an toàn cho Pháp sau trận Poitiers và du Guesclin đã gây được sự chú ý tới Charles Dauphin.
Sau khi trở thành vua trong năm 1364, Charles cử Du Guesclin đi để đối phó với Charles II của Navarre, người hy vọng đòi được Lãnh địa Công tước Burgundy mà Charles muốn phong cho Philip-em trai của ông. Ngày 16 tháng Năm, ông đã gặp với một đội quân Anh-Navarrese dưới sự chỉ huy của Jean de Grailly và Đại úy de Buch tại Cocherel và đã chứng tỏ khả năng của mình trong trận chiến này khi đánh bại đối phương. Chiến thắng này buộc Charles II của Navarre phải ký kết một nền hòa bình mới với vị vua Pháp và bảo đảm việc Burgundy sẽ được giao cho Philip.
Ngày 29 tháng 9 năm 1364, trong trận Auray, Charles của Blois đã bị đánh bại hoàn toàn bởi John V, Công tước xứ Brittany và lực lượng Anh dưới sự chỉ huy của Sir John Chandos. Charles đã bị giết trong chiến đấu, việc này kết thúc vọng của nhà Blois về việc thừa kế xứ Brittany. Mặc dù đã chiến đấu một cách anh dũng, Du Guesclin vẫn bị bắt tù binh và Charles V của Pháp đã trả khoản tiền 100.000 franc để chuộc ông.
Năm 1366, Bertrand thuyết phục các chỉ huy của những “Đồng ngũ tự to”, những lính đánh thuê đã quay ra cướp bóc dân Pháp sau khi Hiệp ước Brétigny được ký kết, tham gia với ông trong chuyến viễn chinh tới Tây Ban Nha để giúp Henry của Trastamara chống lại Pedro the Cruel. Năm 1366, du Guesclin chiếm nhiều pháo đài (Magallon, Briviesca và cuối cùng là thủ đô Burgos).
Nhưng quân đội của Henry đã bị đánh bại bởi lực lượng ủng hộ Pedro nằm dưới sự chỉ huy của Edward-Hoàng tử đen tại Najera trong năm 1367. Du Guesclin lại một lần nữa bị bắt tù binh và một lần nữa được chuộc bởi Charles V-người coi ông ta là vô giá. Tuy nhiên, quân đội Anh bị tổn thất nặng trong trận chiến khi cứ bốn trên năm lính Anh đã chết trong Chiến dịch Castillan.
Hoàng tử đen bị ảnh hưởng bởi bệnh lỵ đã phải sớm rút lui sự ủng hộ cho Pedro. Du Guesclin và Henry của Trastamara kéo dài các cuộc tấn công và đánh bại ông này ở trận đánh quyết định Montiel (năm 1369). Henry đã đâm chết Pedro trong lều của du Guesclin và đoạt được ngai vàng của Castile. Bertrand đã được phong tước hiệu Công tước của Molina và liên minh Pháp-Castllian đã được ký kết.
Chiến tranh với nước Anh được nối lại trong năm 1369 và Du Guesclin đã được rút về từ Castile trong 1370 theo lệnh của Charles V, người đã quyết định chọn ông làm Nguyên soái của Pháp-nhà lãnh đạo quân sự của vương quốc. Theo truyền thống chức vụ này luôn được trao cho một nhà Đại quý tộc chứ không phải một quý tộc nhỏ như Du Guesclin, nhưng vua Charles V cần một ai đó nổi bật như là một người lính chuyên nghiệp. Trong thực tế Du Guesclin liên tục gặp nhiều khó khăn trong việc ép các Đại quý tộc phục vụ dưới quyền của ông và cốt lõi của quân đội luôn luôn là đoàn tùy tùng của cá nhân ông.
Ông đã được chính thức phong chức vụ Nguyên soái của nhà vua vào ngày 02 tháng Mười năm 1370. Ngay lập tức ông đã đánh bại một đội quân Anh do Robert Knolles chỉ huy trong trận Pontvallain và sau đó chinh phục hoàn toàn xứ Poitou và Saintonge và buộc Hoàng tử đen phải rời khỏi nước Pháp.
Năm 1372, hạm đội Pháp-Castillan tiêu diệt hạm đội Anh trong trận La Rochelle, trận này hơn 400 hiệp sỹ và 8.000 binh sĩ người Anh đã bị bắt. Làm chủ English Channel, du Guesclin tổ chức các cuộc tấn công đốt phá vào bờ biển Anh để trả đũa cho các cuộc càn quét Chevauchée của người Anh.
Du Guesclin đuổi theo quân Anh tại xứ Brittany trong những năm 1370-1374 và một lần nữa đánh bại quân đội Anh trong trận Chizé năm 1373.
Là một chiến binh trung thành, có năng lực về mặt chiến thuật và kỷ luật, Du Guesclin đã tái chinh phục nhiều vùng của nước Pháp từ tay người Anh cho đến khi ông qua đời vì bệnh tật ở Chateauneuf-de-Tế trong khi dẫn đầu một chuyến viễn chinh quân sự ở xứ Languedoc vào năm 1380. Ông được chôn cất tại Saint-Denis trong khu lă.ng mộ của các nhà vua của nước Pháp. Trái tim của ông được lưu giữ tại nhà thờ của Saint-Sauveur tại Dinan.
Vì lòng trung thành của du Guesclin với nước Pháp, vào thế kỷ 20 những người theo chủ nghĩa dân tộc người Breton coi ông là một ‘kẻ phản bội’ lại xứ Brittany. Trong Thế chiến II, những phần tử xã hội quốc gia Breton thân Nazi thuộc Phong trào Lao động Xã hội Quốc gia đã phá hủy một bức tượng của ông ở Rennes.
Trận Brignais năm1362
Trận Brignais là một thất bại gây sốc của quân đội hoàng gia Pháp trước một đội quân Routier ( Lính đánh thuê được tuyển dụng trong thời chiến nhưng trở nên bị thất nghiệp trong thời bình -> quay ra cướp bóc dân lành ) tạm thời được thành lập bởi các đại đội lính tự do ở phía đông nam nước Pháp.
Trận chiến đã nổ ra trong ngày 06 tháng 4 năm 1362 bên ngoài lâu đài Brignais ở gần Lyon. Mặc dù đây là một đòn giáng khủng khiếp vào chính quyền và sự tự tin của chính phủ của vua John II ( khoảng thời gian ngắn nhà vua quay về từ nhà tù Anh để lo tiền chuộc mình ) và một nguyên nhân gây ra hoảng loạn lớn ở phía đông Pháp, cuộc chiến đã nhanh chóng dẫn đến sự chia rẽ của các lực lượng routier và do đó các hậu quả chính trị của nó là khá nhỏ.
Tuy nhiên, thất bại buộc Hoàng gia Pháp tiếp tục những cải cách hàng đầu trong quân sự để tạo ra một quân đội thường trực ăn lương và đội quân này đã chứng minh được hiệu quả trong việc chống lại quân routier và người Anh.Khi Philip de Rouvre, vị công tước xứ Burgundy mới 15 chết bất đắc kỳ tử mà không có người thừa kế vào tháng 11 năm 1361, John II đã cho sát nhập vùng lãnh địa tước Công trù phú này vào Vương quốc Pháp.
Thông báo của nhà vua được chào đón với một sự ảm đạm trong lảnh địa, nơi mà bệnh dịch đang lan tràn, giới quý tộc thì nghi ngờ về vị lãnh chúa mới của họ và một yếu tố là Great Company-một sự kết hợp và phân rã liên tục của các băng nhóm routier ( quân vô chính phủ) đã đe dọa biên giới phía nam của Công quốc.
Trong Tháng 1 năm 1362, nhà vua ra lệnh cho nông dân địa phương phải mang chính bản thân họ và hàng hóa của họ vào bên trong nơi gần nhất của hoặc các pháo đài hoặc thị trấn có tường bao quanh và đặt Burgundy và các tỉnh phía đông dưới quyền chỉ huy quân sự của Jean de Melun-Công tước của xứ Tancarville, người mà vào giữa tháng Ba đã tập hợp được một đội quân mạnh mẽ khoảng bốn ngàn người, bao gồm cả quân đội của xứ Burgundy và các địa phương xung quanh.
Tancarville hành quân về phía nam và tiến hành bao vây một toàn lâu đài nhỏ có tên là Brignais, vốn được nắm giữ bởi một toán quân tách từ Đại đội của Hélie (hoặc Petit) Meschin-người cùng với Garciot du Chatel, đã hợp tác với thủ lĩnh của các toán thảo khấu Se’guin de Badefol, Perrin Boias và các đội trưởng của quân routier khác để trở thành một chỉ huy của Great Company. Mặc dù tầm quan trọng lâu đài Brignais được coi là nhỏ, vị thủ lãnh của quân thảo khấu không thể bỏ qua mối đe dọa từ Tancarville, đặc biệt là kể từ khi một đạo quân của Hoàng gia khác dưới sự chỉ huy của Arnoul d’Audrehem đang tiến về phía họ từ miền nam.
Đến đầu tháng Tư, Meschin và các chỉ huy của quân routier khác đã thu thập một lực lượng khoảng năm nghìn người ở phía bắc của Lyon.Vào sáng sớm ngày 06 tháng 4, Great Company đã tấn công vào quân đội Hoàng gia một cách hoàn toàn bất ngờ. Vì chủ quan khinh địch Tancarville và phó chỉ huy của ông ta là Jacques de Bourbon-Công tước La Marche, đã làm không tiến hành công tác trinh sát trong vùng này hoặc chuẩn bị các hệ thống phòng thủ như hào, hàng rào, cọc nhon… để bảo vệ doanh trại của họ.
Các lực lượng hoàng gia đã bị tiêu diệt hoàn toàn trước khi họ có thể cầm được vũ khí, hơn một ngàn người đã bị bắt tù binh, bao gồm cả Tancarville, và hầu hết số còn lại đã bị giết chết, bao gồm cả La Marche, người đã chết vì vết thương sau trận chiến.
Chính phủ Hoàng gia sững sờ khi nhận được tin tức về thất bại này và ở miền đông nước Pháp bị rơi vào tình trạng hỗn loạn, tất cả các địa phương hàng ngày chỉ còn biết lo sợ và đề phòng sự xuất hiện của Great Company. Tuy nhiên, vì các chỉ huy của quân routier không thể tổ chức lực lượng của họ lại với nhau một khi trận chiến đã kết thúc thắng lợi. Họ đồng ý thả tự do cho Tancarville để đổi lấy thỏa thuận ngừng bắn vốn được kéo dài đến cuối ngày 26 tháng Năm. Tuy nhiên vào lúc đó, các cuộc đàm phán giữa quân routier và chính phủ Hoàng gia đã bị phá vỡ và bản thân Great Company đã bị phân tán ra thành những toán nhỏ- mối nguy hiểm tức thì đã qua đi mà không để lại hậu quả lớn hơn nữa cho chính phủ của vương quốc Pháp, mặc dù vùng Burgundy và các tỉnh láng giềng vẫn tiếp tục bị cướp bóc, đốt phá bởi các toán quân routier.
Tuy nhiên, cú sốc về thất bại của trận Brignais đã giúp thúc đẩy cải cách mà kết quả là một sắc thuế mới để tài trợ cho một đội quân thường trực mới đã được ấn hành trong triều đại của Charles V. Vào lúc Charles V qua đời trong năm 1380, đội quân mới đã lấy lại được nhiều vùng đất thuộc xứ Aquitaine đang nằm trong tay người Anh và đã trấn áp phần lớn các toán quân routier.
Trận AURAY (1364)
Trận chiến nổ ra trong ngày 29 Tháng Chín năm 1364 ở bên ngoài cổng của bến cảng Breton, trận đánh quyết định Auray đã đã kết thúc cuộc nội chiến kéo dài ở vùng Breton.
Năm 1363, sau 23 năm chiến tranh, hai đối thủ cạnh tranh danh hiệu công tước xứ Brittany đã đồng ý phân chia công quốc Brittany giữa bọn họ, với John de Montfort, người yêu cầu người Anh hậu thuẫn, ở phía tây nam và Charles de Blois- ứng cử viên được Pháp ủng hộ, giữ phía đông bắc.
Việc trao danh hiệu chính thức-Công tước xứ Brittany được quyết định bởi các vị vua của nước Anh và Pháp, Edward III và John II, những người về mặt lý thuyết là trung lập trong cuộc tranh chấp này. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn chưa được trả lời khi cuộc nội chiến lại được tiếp tục vào tháng Tư năm 1364. Trong tháng Bảy, de Montfort bao vây Auray, một trong những thị trấn bờ biển phía nam kiểm soát được bởi đối thủ của ông ta ( nhà Blois ).
Với sự giúp đỡ của Bertrand du Guesclin, một người Breton sau đó phục vụ cho Charles V-vị vua mới của Pháp, Charles de Blois gây dựng được một đội quân của hơn ba ngàn người.Mặc dù được ủng hộ bởi các quý tộc Hoàng gia ở Normandy, Charles de Blois lại không nhận được sự hỗ trợ chính thức từ Charles V, thậm chí ông này còn lấy mất du Guesclin làm Đại úy chỉ huy đội quân người Norman của ông để can thiệp vào Brittany (vua Charles V kết Bertrand du Guesclin chẳng khác gì Lưu Bị kết Triệu Tử Long ).
De Montfort cũng không nhận được sự hỗ trợ từ London nhưng ông này lại nhận được những viện trợ quan trọng từ những viên đại úy người Anh ở địa phương là Sir Robert Knolles và Sir Hugh Calveley. Sir John Chandos cũng ủng hộ de Montfort với một lực lượng nhỏ quân Anh ở xứ Gascony. Vào tháng Chín, quân đội của de Montfort có số lượng hơn hai nghìn người, với hầu hết trong số họ được rút ra từ những đội quân Anh ở địa phương. Như vậy, mặc dù Hoàng gia Anh và Pháp vẫn tỏ ra trung lập, bất chấp đại diện của họ tại Brittany tích cực tham gia vào cuộc chiến.Đến Auray vào ngày 29 tháng 9, Charles de Blois chuẩn bị cho trận chiến ngay lập tức.
Chỉ huy lực lượng của de Montfort, đội quân mà ông đặt trên đỉnh đoạn vượt sông, Chandos ( một cựu binh-trong trận Poitiers ) triển khai quân đội của mình thành ba đại đội, với chính ông ta và Sir Matthew Gourney chỉ huy cánh phải, Knolles chỉ huy bên cánh trái và de Montfort chỉ huy cánh trung tâm. Calveley thì cảm thấy rất thất vọng vì đã bị cử về phía sau để chỉ huy đội dự bị.
Charles de Blois cũng triển khai quân đội của mình theo một đội hình tương tự, ông đã giao quyền chỉ huy ba đại đội của mình cho du Guesclin; Jean de Chalon-con trai của Bá tước Auxerre và chính ông ta.Trong các cuộc đàm phán trước trận chiến, những người Bretons ở mỗi bên (John de Montfort và Charles de Blois) cho thấy một sự sẵn lòng thỏa hiệp hơn so với các đồng minh người Anh và người Pháp của họ. Người Anh đe dọa giết sứ giả của Charles nếu còn tiếp tục kéo dài các cuộc đàm phán và du Guesclin kêu gọi Charles giành chiến thắng để chiếm toàn bộ công quốc cho chính mình, một tình trạng đã làm cho một số người Bretons của phe Charles bỏ khỏi chiến trường ( chắc thấy mệt mỏi vì thương lượng ).
Chiến đấu trên bộ đã hạn chế hiệu quả của các cung thủ Anh, trận chiến mở với việc quân đội Anh-Breton bắt tù binh Jean de Chalon và đẩy cánh quân của ông này vào làm rối loan đội quân của du Guesclin. Sau đó Chandos tập trung các đội quân của ông để tấn công vào Charles de Blois, vốn lúc này rất dễ bị tổn thương bởi số người đào ngũ lúc càng cao hơn nữa từ đội quân của mình. Đội quân của Charles bị áp đảo, ông này đã bị giết và quân đội của ông đã bị đánh tan. Trận chiến bây giờ đã trở thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn. Người của De Montfort đã giết gần tám trăm bắt tù binh hơn một ngàn năm trăm quân đối phương kể cả du Guesclin, người đã phải nộp cho Chandos gần 20.000 £ tiền chuộc ( và tiền chuộc được trả bởi vua Charles V của Pháp ).
Với việc Charles de Blois bị giết chết và con trai của ông cũng đã chết hoặc bị giam cầm, sự nghiệp của ông cũng bị sụp đổ và những người ủng hộ ông quay ra quy phục de Montfort. Mặc dù ông đã chiếm được công quốc Brittany với viện trợ của người Anh, lúc này de Montfort lại kết thúc mối liên minh này và nhanh chóng tỏ lòng trung thành của ông với Charles V của nước Pháp. Vua Pháp chấp nhận kết quả của trận Auray và đứng ra làm trung gian cho Hiệp ước Guerande, theo đó Jeanne de Penthievre, góa phụ của Charles de Blois-người có quyền yêu cầu thừa kế Công quốc, đã thừa nhận de Montfort như Công tước John IV của Brittany vào Tháng Tư năm 1365. ( như vậy ta có thể thấy trong trận này về mặt quân sự Liên quân Pháp-Breton đã thất bại hoàn toàn, nhưng về mặt chính trị thì người Pháp lại toàn thắng)
Trận Nájera năm1367
Trận Nájera (hoặc Navarrete) là một trận chiến nổ ra ở gần phía đông bắc của thị trấn Nájera của xứ Castile ( nay thuộc Tây ban Nha ) vào ngày 03 Tháng Tư 1367 giữa quân đội Anh-Gascon được chỉ huy bởi Edward Hoàng tử đen và một lực lượng Pháp-Castilian được chỉ huy bởi Bertrand du Guesclin-Nguyên soái của Pháp và Henry của Trastámare-người có yêu cầu thừa kế ngôi vua Castile.
Là một thắng lợi lớn cho Hoàng tử đen, Nájera là kết quả của sự can thiệp của cả Anh và Pháp vào trong chiến tranh kế vị xứ Castile, một cuộc xung đột vốn tạo cho cả hai phe trong chiến tranh trăm năm một cơ hội để sử dụng các Routiers ( lính đánh thuê vô chính phủ), những người đã tàn phá đất đai của họ và một cơ hội để tấn công vào lợi ích của nhau và không công khai gây nguy hiểm cho Hiệp ước Hòa bình Bretigny ( đơn giản là để tránh vi phạm hiệp ước Hòa bình thì cả Anh và Pháp lôi nhau ra một góc rồi tẩn nhau thông qua bên thứ ba là xứ Castile).
Mặc dù đây là một thành công quân sự, trận chiến và hậu quả của nó lại là một tai họa về mặt chính trị cho Hoàng tử đen, những nỗ lực hết mình của ông để có được nguồn tài chính trang trải cho những chi phí của chiến dịch này đã bắt đầu những sự kiện cuối cùng lại dẫn đến việc nối lại cuộc chiến tranh Trăm năm.Bị nghi ngờ đã đầu độc bà vợ người Pháp của ông ( chắc là để cưới vợ trẻ đẹp hơn hé hé ) và được gọi là”Cruel-kẻ tàn bạo” vì sự cai trị khắc nghiệt của mình, Pedro I của Castile bị lật đổ bởi-Henry của Trastámare, người anh em cùng cha khác mẹ với ông vào tháng ba năm 1366.
Được hỗ trợ bởi một đội quân đánh thuê dưới sự chỉ huy của du Guesclin và gồm cả rất nhiều người Anh như Đại úy Hugh Calveley, Trastámare đã lên ngôi vua của Castile vào ngày 29 Tháng Ba, một ngày sau khi Pedro bỏ chạy khỏi Burgos- thủ đô của xứ Castile. Bằng cách ủng hộ Trastámare, Charles V và người anh em trai của ông-Louis, Công tước xứ Anjou- trung úy của Hoàng gia ở Languedoc, đã có thể quét sạch nạn lính đánh thuê-vô chính phủ, chuyên cướp bóc-ở miền nam nước Pháp và cài một đồng minh hùng mạnh của nước Pháp vào phía nam biên giới của vùng Aquitaine của nhà Plantagenet.
Vào cuối Tháng bảy, Pedro đã đến vùng Aquitaine, ở đây trong một nỗ lực để giành hỗ trợ cho sự nghiệp của ông, ông mở các cuộc đàm phán với Hoàng tử và Charles the Bad-vua của Navarre. Ngày 23 tháng Chín, cả ba đã ký kết Hiệp ước Libourne, theo đó Pedro hứa trả bằng tiền bạc và đất đai cho các đồng minh của mình để đổi lấy sự trợ giúp của họ trong việc khôi ngôi vua của ông tại xứ Castile.
Mặc dù nhiều người trong đoàn tùy tùng của hoàng tử không thích và không tin tưởng Pedro, nhưng Edward III và các bộ trưởng của ông đã được báo động về mối đe dọa của một xứ Castile thân Pháp, trong khi vị hoàng tử ( phó vương của vua Edward III tại xứ Aquitaine), ngoài việc rất muốn được tiến hành các chiến dịch quân sự, thì cũng giống như người Pháp-ông rất lo lắng trong việc giải phóng vùng đất của mình khỏi sự cướp phá của những đám lính vô kỷ luật.
Dựa vào việc Pedro giữ lời hứa của mình rằng sẽ trả tiền cho chiến dịch, vị Hoàng tử quy tập một đội quân mười ngàn người và trong tháng 2 năm 1367 đã dẫn đầu bọn họ đi vượt qua rặng núi Pyre’ne’an ( Dãy núi nổi tiếng hiểm trở giữa Pháp và Tây Ban Nha ngày nay ), vốn được mở ra cho những kẻ xâm lược bởi nhà vua của Navarre-người cũng đã gửi quân nhưng chính bản thân ông ta lại từ chối tham gia.
Nhà vua Pháp đưa ra lời khuyên nên tránh cuộc chiến và chờ cho cái đói và kiệt sức sẽ buộc Hoàng tử sẽ thu hồi quân, Trastámare đã cho mời du Guesclin và rất nhiều những viên Đội trưởng Pháp đã phục vụ ông trong các trước năm. Vì lực lượng chủ yếu của họ đã được triển khai tại Aragon, người Pháp chỉ cử một ngàn người để làm tăng viện cho quân của Trastámare ở Castilian. Khi quân đội Anh-Gascon tiến tới vùng của Trastámare, các thị trấn và các đơn vị đồn trú tại của nó trên đường hành quân của quân Anh đã chóng tuyên bố ủng hộ Pedro. Ngày 1 tháng Tư, Trastámare, lo ngại sự sụp đổ sắp xảy ra của những lực lượng hỗ trợ về chính trị của ông, đã từ bỏ chiến lược phòng thủ và kêu gọi Charles V triển khai lực lượng của ông ta trên mặt đất để khống chế con đường chính từ Logrono ở gần thị trấn Nájera-một vị trí mà sau này hoàng tử gọi là ”một tốt nơi đang chờ đợi chúng ta”.
Ngày 2 Tháng tư, hoàng tử rời Logrono, tiến tới làng Navarrete, nơi ông cho quân đội của mình tập hợp thành đội hình dã chiến. Đơn vị tiền quân bao gồm các cung thủ Anh và những kỵ sỹ-những người trên danh nghĩa do là do Joh của Gaunt, công tước xứ Lancaster, em trai của Hoàng tử đen chỉ huy, nhưng trong thực tế họ được chỉ huy bởi viên chỉ huy cực kỳ giàu kinh nghiệm-Sir John Chandos. Phần chính của quân đội Anh gồm phần lớn là những binh sỹ người Gascons, những chỉ huy ở bên cánh phải là Arnaud-Amanieu, Lord Albret và John-Bá tước của Armagnac và ở bên cánh trái là Jean de Grally, Đại úy de Buch. Ở cánh trung tâm đích thân Hoàng tử chỉ huy các nhóm lính đánh thuê khác và những người Castile lưu vong. Sau khi lập xong đội hình, quân Anh rời đường lớn và tiến theo đường bộ và hướng về phía đối phương từ phía bắc, một cuộc hành binh vốn sẽ làm họ xuất hiện ở phía cánh trái của Trastámare vào bình minh ngày 03 tháng 4.
Rất ngạc nhiên bởi tốc độ và hướng tấn công của đối phương, du Guesclin buộc phải ra lệnh cho binh lính của mình nhanh chóng di chuyển và quay từ phía đông sang phía bắc để đối mặt với quân địch. Giữa sự hoảng loạn và nhầm lẫn gây ra bởi động tác này, phần lớn các bộ binh và kỵ binh người Castilian đã đào thoát sang phía đối phương. Lo sợ có sự tan rã trong của lực lượng của ông, du Guesclin ra lệnh cho các kị sỹ người Pháp và của ông Castile xuống ngựa tấn công.
Họ phải đối mặt với đạo quân do Lancaster và Chandos chỉ huy mà đạo quân này cũng xuống ngựa để chiến đấu. Người Anh đã tổ chức tấn công bằng các cung thủ vào người Pháp để cho phép cánh quân người Gascon trong quân đội của hoàng tử để bắt đầu một bao vây nhằm vào người của du Guesclin. Được chỉ huy bởi Trastámare và anh em của ông, các kỵ binh hạng nặng người Castilian đã từ chối xuống ngựa để chiến đấu trên bộ, họ tấn công vào đối phương nhưng ngay lập tức đã bị tàn phá bởi những cơn mưa tên của người Anh, cũng giống như người Pháp đã bị tại Crécy.
Lúc này Hoàng tử đen mới ra lệnh tất cả các đội tấn công, đạo quân của chính ông tấn công vào chiến tuyến của người Castile dọc theo phía trước trận địa của họ trong khi các Bá tước Lancaster và Chandos cũng tiến lên để tấn công họ. Ngay lập tức quân đội của Trastámare tan rã, hơn một nửa số quân của ông ta đã bị tiêu diệt trong khi cố gắng bỏ trốn. Quân đội của Hoàng tử đen bị tổn thất rất nhỏ, còn Trastámare mất hơn năm ngàn người nhưng bản thân ông ta đã chạy thoát khỏi chiến trường, còn du Guesclin, viên Thống chế Pháp Arnoul d’Audrehem và hầu hết các Đội trưởng hàng đầu của Trastámare đều bị bắt tù binh.
Trận Nájera cũng tựa như ở Poitiers, đã trở nên hỗn loạn ở giai đoạn cuối của cuộc chiến do sự tranh giành các tù nhân và tiền chuộc. Mặc dù nhiều người trong đội quân của ông đã kiếm được cả một tài sản từ tiền chuộc, vị hoàng tử đã lại ngay lập tức trở nên bất hòa với Pedro, người vốn được ông khôi phục ngai vàng khi ông này tuyên bố mình không thể trả khoản nợ của ông ta cho hoàng tử đen và cũng không muốn nhường cho ông ta một phần lãnh thổ của mình vì lý do an ninh.
Vào cuối Tháng tám, khi Pedro bội ước lại lời hứa của mình và không chịu thanh toán lần đầu tiên cho những gì ông nợ, Hoàng tử đen lúc này bị bệnh lỵ-căn bệnh cuối cùng sẽ giết ông ta và không thể đủ tài chính để duy trì người của mình trong vùng này nữa và đã phải rút lui về vùng Aquitaine với hai bàn tay không. Ông buộc phải tăng thuế tại vùng Aquitaine trả tiền cho chiến dịch, do đó đã làm cho các quý tộc người Gascon như Armagnac và Albret đã chở nên xa lánh và thậm trí còn kiến nghị Charles V chống lại Hoàng tử, những lý do này đã tạo cho nhà vua Pháp cớ để tiếp tục cuộc Chiến tranh Trăm năm trong năm 1369.
Trận Pontvallain
Trận Pontvallain là một trận chiến quan trọng của nước Pháp với nước Anh trong chiến tranh Trăm Năm.
Đó là trận chiến nổ ra vào đầu tháng 12 năm 1370 tại vùng Sarthe giữa lực lượng Anh đã bị gãy ra khỏi quân đội chỉ huy bởi hiệp sĩ Anh-Sir Robert Knolles và một đội quân của Pháp dưới sự chỉ huy của vị Nguyên soái mới được bổ nhiệm-Bertrand du Guesclin.
Trên thực tế trận chiến bao gồm hai cuộc đụng độ riêng biệt, một tại Pontvallain và một nhỏ hơn tại thị trấn Vaas lân cận nên đôi khi chúng được đặt tên thành hai trận riêng biệt.
Mặc dù đây chỉ là trận chiến có quy mô tương đối nhỏ, nhưng nó rất có ý nghĩa bởi vì người Anh đã phải tháo chạy và nó kết thúc danh tiếng 30 năm bất khả chiến bại trong trận chiến dàn trận của người Anh.Robert Knolles đổ bộ xuống Calais trong tháng Tám năm 1370 với một đội quân khoảng 6.000 bộ binh và kị binh để thực hiện một chiến dịch theo kiểu của một cuộc tấn công cướp bóc chevauchée xuyên qua miền Bắc nước Pháp. Ông đã tiến đến gần Paris vào ngày 24 tháng Chín và đã cố gắng khiêu khích với người Pháp để mở một trận chiến dàn trận, nhưng họ đã không mắc bẫy và tính đến tháng Mười Knolles đã di chuyển về phía nam và hành quân về phía Vendôme.
Ông đã tiêu diệt lực lượng đồn trú trong các lâu đài và tu viện giữa các con sông Loir và Loire và để có thể đi tới Poitou hay chọn cách khác tiến vào miền Nam Normandy nếu vua Edward III ký kết được một thỏa thuận với Charles II của Navarre, người sẵn sàng hiến vùng đất của mình tại miền Bắc Normandy như là một căn cứ cho người Anh. Nhiều Đội trưởng cấp dưới, những người tự coi mình khi sinh ra đã giỏi hơn Knolles, lên án sự thiếu rõ ràng của ông về tinh thần thượng võ. Họ thấy những khả năng của một nhà chỉ huy trong Sir John Minsterworth, một hiệp sĩ đầy tham vọng và không ổn định từ các cuộc hành binh ở xứ Wales, người luôn chế giễu Knolles là “một tên kẻ cướp già “.
Trong khi đó Charles V của Pháp đã phong cho hiệp sĩ của ông tốt nhất-Bertrand du Guesclin chức vụ Nguyên soái của nước Pháp và giao cho ông ta nhiệm vụ tiêu diệt đạo quân của Knolles. Tháng du Guesclin tập trung lực lượng của mình tại Caen, nơi ông nhận được quân tiếp viện dưới sự chỉ huy của các Thống chế Mouton de Blainville và Arnoul d’Audrehem cũng như một đạo quân người Breton dưới sự chỉ huy của Olivier de Clisson. Như vậy ông đã có một đội quân khoảng 4.000 người.
Một đội quân thứ hai khoảng 1.200 người được tập hợp ở phía sau Knolles tại Châtellerault dưới sự chỉ huy của Thống chế Sancerre, mà sau đó di chuyển về phía Knolles từ Đông trong khi Du Guesclin bắt đầu di chuyển về phía ông ta từ phía bắc. Knolles lưu ý rằng quân Pháp đang đến gấn và lúc này đề nghị rút quân về phía tây vào vùng đất của người Anh trước khi ông có thể bị bao vây, nhưng các Đội trưởng của ông đã không đồng ý và phản ứng một cách dữ dội, họ muốn trú đông tại đó và họ sẽ tiếp tục tấn công các vùng nông thôn xung quanh, họ tự tin rằng có thể đánh bại bất kỳ cuộc tấn công nào của người Pháp.
Kết quả là quân Anh bị chia rẽ; Knolles cầm đầu một đội ngũ bao gồm đoàn tùy tùng của mình rồi đi về phía Tây, đến chỗ người Anh. Phần còn lại, có số lượng gồm khoảng 4.000 người, đã ở lại trong khu vực thung lũng sông Loir và được chia thành ba toán, một toán được chỉ huy bởi Sir Thomas cùng với Sir Grandison và Sir Hugh Calveley, hai toán kia được chỉ huy bởi Sir Walter, Lord Fitzwalter và Minsterworth.Trận chiến
Du Guesclin rời Caen với quân đội của mình vào ngày 01 tháng 12 và hành quân về phía nam với tốc độ lớn, tới gần Le Mans vào ngày 3 tháng Mười Hai. Ông đã nhận được thông tin tình báo rằng lực lượng của Grandison và Fitzwalter đang bị trải ra và cắm trại giữa Pontvallain và Mayet và mặc dù quân đội của ông đã kiệt sức, ông vẫn ra lệnh hành quân ngay lập tức vào ban đêm để đến Pontvallain và tấn công người Anh vào lúc bình minh ngày 4 tháng Mười Hai.
Cuộc tấn công hoàn toàn bất ngờ, Grandison đã cố gắng rút lui về phía bắc, nhưng người Pháp đã đuổi kịp với ông ta ở dưới chân các bức tường thành của Château de la Faigne. Mặc dù viên Thống chế của Pháp chỉ huy trận này đã bị thương nặng (Arnoul d’Audrehem sau đó đã chết vì vết thương của mình), nhưng lực lượng của Grandison
- 1 Bản chất của xã hội dân chủ và nền chuyên chính độc tài
- 2 Kì thị chủng tộc – Một vấn đề muôn thuở trên đất nước Mĩ
- 3 Cuộc xung đột Việt Chiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc
- 4 Chiến tranh trăm năm giữa Pháp và Anh- bài 6
- 5 Phật giáo thời Lý – Trần với bản sắc dân tộc Đại Việt
- 6 Nỗi ám ảnh của quá khứ
- 7 Bản chất sâu xa của Chủ nghĩa quốc tế vô sản
- 8 Tại sao xã hội trong hai triều đại Lý -Trần lại đạt được sự thịnh vượng?
- 9 Khủng hoảng Syria là tâm điểm của năm 2015?
- 10 Nhà văn hoá Phạm Quỳnh