24/06/2018, 17:23

Câu hỏi ôn tập Việt Nam từ năm 1919- 1930 (Phần 3) – Lịch sử 12

Câu 17: Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn viết : “Người là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam…” 1. Trên cơ sở trình bày ...

 Câu 17: Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn viết : “Người là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam…”
1. Trên cơ sở trình bày những nét chính về cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh từ năm 1911 đến năm 1969, anh (chị) hãy :
– Nêu những công lao to lớn của Người đối với dân tộc.
– Rút ra những phẩm chất tiêu biểu của Anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh và giải thích nguồn gốc của những phẩm chất đó.
2. Từ đó, anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về sự đánh giá của UNESCO đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. .

Hướng dẫn làm bài
1. Những công lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng dân tộc, là vị lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Từ buổi thanh xuân đến khi vĩnh biệt chúng ta, Người đã cống hiến tất cả
sức lực và trí tuệ của mình cho dân tộc. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghị quyết của UNESCO có đoạn viết : “Người là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam…”. Có thể thấy, từ năm 1930 đến năm 1969, đã nổi bật lên công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh, cụ thể như sau:

a/ Từ 1920 – 1930:
Trải qua cuộc hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn – con đường cách mạng vô sản do Lênin vạch ra. Năm 1920, Người đứng về Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người đã trải qua 10 năm vận động để chuẩn bị cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam.
+ Tích cực đào tạo cán bộ cách mạng, củng cố tổ chức, lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
+ Hợp nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam ( 3/2/1930 ). Vạch ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo, thắm đượm
tinh thần dân tộc và tính nhân văn.

b/ Từ 1930 – 1945:
– Từ năm 1930 đến 1940, Người hoạt động ở nước ngoài, song vẫn thường xuyên theo dõi và có nhiều ý kiến chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
– Từ đầu năm 1941, Người về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng:
+ Chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, hoàn chỉnh chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đặt vấn đề khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân ta.
+ Sáng lập ra Mặt trận Việt Minh, đã thu hút được toàn dân từ miền núi đến miền xuôi, từ nông thôn tới thành thị, hình thành một đội quân chính trị hùng mạnh.
+ Người ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22/12/1944) – đội quân chủ lực của cách mạng Việt Nam.
+ Người là linh hồn của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, chính Người đã soạn thảo và công bố bản Tuyên ngôn Độc lập – khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử.

c/ Từ 1945 – 1969 :
– Nguyễn Ái Quốc cùng Đảng lãnh đạo và chèo lái con đường Cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, bảo vệ thành quả cách mạng năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám (1945 – 1946), tạo cơ sở lực lượng để ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. (Người đã đề ra những quyết định sáng suốt với những chính sách mềm dẻo về sách lược, cứng rắn về nguyên tắc nhằm phân hoá đối phó kẻ thù bảo vệ thành quả cách mạng, ngày 6/3/1946, Người kí Hiệp định sơ bộ, ngày 14/9/1946, Hồ Chí Minh kí với Pháp Tạm ước).
– Trong thời gian từ năm 1946 đến năm 1969, vai trò của Người gắn liền với Đảng Cộng sản Việt Nam . Trong kháng chiến chống Pháp cùng Đảng đề ra đường lối kháng chiến, chính sách xây dựng hậu phương, phát triển kinh tế, văn, hoá, đặc biệt thu được thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, buộc Pháp
rút khỏi Việt Nam năm 1954.

– Từ năm 1954 đến năm 1969, Người cùng Đảng lãnh đạo các phong trào chống Mỹ ở miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
– Người cùng Đảng Đảng lãnh đạo một cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ.
– Nhìn chung, công lao to lớn nhất của Hồ Chí Minh ở thời kì 1946 – 1969 đó là cùng Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành một lúc hai nhiệm vụ chiến lược: bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp cho dân tộc ta nhiều công lao to lớn. Hiện nay trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, những phẩm chất sáng ngời của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị soi sáng mãi trong từng bước đi của toàn Đảng, toàn dân ta.

2. Những phẩm chất tiêu biểu của Anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh và nguồn gốc của những phẩm chất đó.
+ Phẩm chất tiêu biểu :
– Hy sinh, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thể hiện lòng yêu nước thiết tha, trung thành với sự nghiệp của nhân dân “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và đấu tranh cho thắng lợi của cách mạng thế giới.
– Tinh thần đấu tranh bất khuất, dù gian khổ, hy sinh đến đâu cũng không nản trí…”Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không là nô lệ.
– Người là trung tâm của sự đoàn kết toàn dân…”Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
– Biểu tượng của tinh thần yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân chính,
– Tiêu biểu cho đạo đức cách mạng.
+ Nguồn gốc :
– Truyền thống gia đình, quê hương, đất nước.
– Kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của các vị anh hùng dân tộc trước đó và những tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác – Lênin.
– Do thực tiễn đấu tranh cách mạng.
– Sự phấn đấu của bản thân.

3. Suy nghĩ về sự đánh giá
Sự đánh giá của UNESCO đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời nhận xét thấu đáo. Trước hết, UNESCO đánh giá đúng về công lao và đóng góp của Hồ Chí Minh đối với dân tộc và phẩm chất tiêu biểu của người như : Điếu văn của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại lễ tang Hồ
Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta.
Mỗi dân tộc đều có những anh hùng riêng của mình. Song không nhất thiết là anh hùng dân tộc thì cả thế giới không biết đến. Hồ Chí Minh là một trong những trường hợp đặc biệt: một anh hùng dân tộc được cả thế giới biết đến và ca ngợi. Đó là niềm vinh quang và tự hào của dân tộc Việt Nam.
+ Những đóp góp của Hồ Chủ tịch đối với thế giới mà nhân loại tiến bộ đã thừa nhận và cao ngợi : Hồ Chí Minh – Chiến sĩ cách mạng quốc tế.

Câu 18. Trình bày những mặt tích cực và hạn chế của các phong trào đấu tranh yêu nước và dân chủ công khai những năm 1919 – 1925.

*Hạn chế

– Mục tiêu phong trào dân tộc của tư sản dân tộc chủ yếu đòi quyền lợi kinh tế, cố gắng đấu tranh chống lại sự chèn ép của tư bản nước ngoài nhưng hoạt động còn mang tính chất cải lương, phục vụ quyền lợi của tầng lớp trên, giới hạn trong khuôn khổ của chủ nghĩa thực dân.

*Tích cực
– Phong trào của tiểu tư sản có tác dụng thức tỉnh lòng yêu nước, truyền bá tư tưởng tự do dân chủ trong nhân dân, truyền bá những tư tưởng cách mạng mới. Mặc dù vậy, phong trào có hạn chế là đấu tranh còn bồng bột, xốc nổi, chưa có chính đảng lãnh đạo.

Câu 19. Trong những năm 1919-1920,ở Việt Nam có những lực lượng chủ yếu nào đã tham gia vào phong trào dân tộc dân chủ.Nêu và nhận xét về mục tiêu đấu tranh của các lực lượng đó?

Hướng dẫn trả lời:

-Lực lượng chủ yếu tham gia vào phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam năm 1919-1925 là tư sản,tiểu tư sản và công nhân Việt Nam
-Mục tiêu đấu tranh:
Giai cấp tư sản:chống tư bản nước ngoài,tư sản mại bản,đòi quyền lợi kinh tế là chủ yếu.
Giai cấp tiểu tư sản:đòi dân sinh,dân chủ,đòi quyền lợi kinh tế,quyền lợi chính trị,độc lập,dân chủ,dân sinh.
Giai cấp công nhân:Chống đế quốc,phong kiến tay sai,tự do dân sinh,dân chủ,giải phóng dân tộc
-Nhận xét
Các giai cấp,tầng lớp tham gia phong trào dân tộc dân chủ có những mục tiêu giống nhau là chống Pháp,đòi tự do,dân chủ.Bên cạnh đó,các giai cấp khác nhau còn có những mục tiêu đấu tranh khác nhau.Suy cho cùng thì tất cả đều là phong trào yêu nước,phong trào dân tộc,dân chủ,bước đầu cho cách mạng vô sản.

Câu 20. Trước sự khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, trong 20 năm đầu thế kỷ XX của phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta đã diễn ra quá trình tìm kiếm con đường cứu nước mới. Bằng sự hiểu biết của mình, anh (chị) hãy làm sáng tỏ:
a. Chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh ?
b. Con đường đi tìm chân lý của Nguyễn Ái Quốc có những điểm gì khác với con đường đi của những người đi trước ?
c. Vị trí, ý nghĩa của con đường cứu nước mà Nguyễn Ái Quốc đã chọn đối với tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam.

a) Chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
– Đến cuối thế kỷ XIX trong khi các nước tư bản phương Tây chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thì ở các nước phương Đông chậm tiến tư tưởng dân chủ tư sản mới bắt đầu phát triển và tác động mạnh đến các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Điều này được thể hiện rõ rệt ở cuộc duy tân Nhật Bản
(1868), Trung Quốc (1898) với đỉnh cao là cuộc cách mạng Tân Hợi (1911). Trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua các tân thư, tân văn Trung Quốc dội vào Việt Nam. Các học thuyết về nhân đạo dân quyền của các nhà phát ngôn của giai cấp tư sản pháp lúc chủ nghĩa tư bản Pháp đang lên thông qua sách báo Pháp cũng được truyền bá vào Việt Nam. Gương tự cường của Nhật Bản, đặc biệt là chiến thắng của Nhật đối với Nga trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905) đã ảnh hưởng đến phong trào cách mạng và tình hình tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX.

– Trong khi các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản tràn vào Việt Nam thì ở nước ta thực dân Pháp đang tiến hành đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất, tạo ra cơ sở vật chất cho sự tiếp thu tư tưởng mới đồng thời làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp vốn đã sâu sắc lại càng sâu sắc thêm.
– Trước sự thất bại của phong trào Cần vương, cách mạng nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước, các sĩ phu yêu nước mong muốn tìm kiếm một con đường cứu nước mới và họ đã nhanh chóng tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản được truyền bá vào Việt Nam.

– Tất cả các yếu tố trên đây đã làm nảy sinh trào lưu dân tộc chủ nghĩa, mang nội dung tư tưởng mới. Quan niệm ái quốc trung quân theo ý thức hệ phong kiến được thay thế bằng chủ nghĩa quốc gia dân tộc, gắn liền khái niệm nước với dân. Cuộc đấu tranh chống đế quốc gắn liền với cuộc đấu tranh đòi dân
chủ, dân quyền, phát triển đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa, xây dựng một nước Việt Nam mới theo hình ảnh các nước văn minh trên thế giới.

+ Trong khi thống nhất với nhau về mục tiêu, những người chủ xướng lại có sự phân hoá về biện pháp cứu nước với hai xu hướng chính: cải cách ôn hoà với đại diên tiêu biểu là Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu với xu hướng cách mạng bạo động. Hai xu hướng này song song tồn tại và không đối lập với nhau một cách tuyệt đối, chúng đan xen, hoà lẫn vào nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, thì xu hướng bạo động là duy nhất đúng và xu hướng cải cách cũng có những tác dụng nhất định.
– Phan Bội Châu chủ trương muốn chống pháp thắng lợi không thể đi theo con đường cũ, phải xây dựng phong trào toàn quốc, phải tìm kiếm cách thức hoạt động mới. Ông chủ trương vận động đông đảo quần chúng trong cả nước, tranh thủ sự viện trợ của nước ngoài, tổ chức bạo động đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, xây dựng nên một chế độ chế độ chính trị dựa vào dân (lúc đầu ông chủ trương nền quân chủ lập hiến, sau chuyển sang tư tưởng cộng hoà) với việc thành lập Duy Tân hội, phát động phong
trào Đông du, tổ chức Việt Nam Quang phục hội.
+ Trong chủ trương của mình, Phan Bội Châu cũng chưa đặt ra mục tiêu lật đổ chế độ phong kiến nhưng ông đả kích bọn quan lại phong kiến thối nát. Ông hô hào cải cách dân chủ, góp phần truyền bá, mở trường dạy học, phát triển công thương…

+ Mặt hạn chế của Phan Bội Châu là mơ hồ về chính trị, muốn dựa vào đế quốc này, đánh đổ đế quốc kia để giải phóng dân tộc. Mặt khác Phan Bội Châu cũng chưa thấy được động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam là công, nông. Có thể nói trước khi xuất hiện Nguyễn Ái Quốc trên vũ đài chính trị Việt Nam, thì Phan Bội Châu là lãnh tụ tiêu biểu nhất của cách mạng Việt Nam. Mặc dù chủ trương có hạn chế nhưng ông có tư tưởng dân chủ sớm nhất ở Việt Nam đồng thời có công khơi dậy dân quyền của Việt Nam.
– Phan Chu Trinh gương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trương cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền dựa vào pháp đánh đổ vua quan phong kiến hủ bại, coi đó như là một điều kiện tiên quyết để giành độc lập. Ông lên án kịch liệt chế độ vua quan, phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài. Chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh nhiều phong trào cải cách xã hội lúc đó đã nổi lên ở Bắc kỳ, Trung kỳ như việc thành lập Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy tân với hệ quả trực tiếp của nó là phong trào chống sưu thuế năm 1908 ở Trung kỳ.

+ Tư tưởng của Phan Châu Trinh thể hiện một tinh thần dân tộc yêu nước sâu sắc nhưng chủ trương cải cách, dựa vào thực dân Pháp cứu nước của ông có phần không hợp thời thế.
– Như vậy, đến đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa yêu nước chuyển thành chủ nghĩa dân tộc gắn liền với tư tưởng dân chủ. Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều là thủ lĩnh xuất sắc cùng đứng trong phong trào dân tộc dân chủ này. Điều khác nhau là trong khi Phan Bội Châu nhấn mạnh vấn đề giải phóng dân tộc, cho đó là điều kiện tiến hành các cuộc cải cách dân chủ, thì phan Chu Trinh lại nhấn mạnh vấn đề cải cách dân chủ, cho đó là điều kiện để giải phóng dân tộc. Tuy có sự khác nhau như vậy giữa Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh nhưng nhân dân Việt Nam với lòng yêu nước thiết tha không phân biệt bạo động hay cải cách đều hưởng ứng chủ trương của hai ông, tạo nên một phong trào dân tộc dân chủ mạnh mẽ đầu thế kỷ XX, đánh dấu một bước chuyển biến mới của phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta.
Nhưng cuối cùng thất bại, phong trào giải phóng dân tộc rơi vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước.

b) Con đường đi tìm chân lý cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
– Tiếp nhận sâu sắc truyền thống yêu nước của dân tộc, được sự giáo dục tốt đẹp của gia đình, Nguyễn Sinh Cung sớm có lòng yêu thương đồng bào nghèo khổ và tinh thần yêu nước.
– Tuy tiếp thu truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước, song Nguyễn Sinh Cung sớm nhận thấy không thể đi theo con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến, tư sản được. Điều mà Nguyễn Sinh Cung sớm nhận thức được và nó dẫn người đi đúng hướng là nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại chính quốc, ở nước đế quốc đang thống trị mình. Mùa hè năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm con đường cứu nước. Đó là sự kiện mới chưa hề có trong lịch sử nước ta, vốn theo con đường truyền thống đi sang phương Đông. Việc xuất dương đã được nhiều thế hệ cha anh lớp trước thực hiện song chỉ để cầu viện, chuẩn bị lực lượng kéo về nước, hoặc đào tạo cán bộ để về chỉ đạo, phát động phong trào đấu tranh trong nước. mục đích chủ yếu của các chuyến xuất dương trước đó
nhằm tổ chức tập hợp lực lượng nhưng chưa có ai đặt vấn đề và chủ trương sang phương Tây tìm đường cứu nước như Nguyễn Tất Thành.

– Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, trải qua cuộc hành trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, tư bản đế quốc, hoà mình vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân các nước. Từ lòng yêu thương đồng bào Nguyễn Ái Quốc mở rộng đến sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên khắp thế gian và có cùng một kẻ thù chung. ở Người, nảy sinh ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh cho nguyện vọng, quyền lợi chung. Chính cuộc hành trình này cũng rèn luyện Người trở thành một công dân có đầy đủ phẩm chất, tư tưởng, tâm lý xã hội của giai cấp vô sản và đây là một trong những cơ sở để Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản, người chiến sĩ quốc tế.
– Do xuất phát từ mục đích đi ra nước ngoài “xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào” chứ không theo một con đường định sẵn, nên Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành nghiên cứu cách mạng Anh, Mỹ, Pháp và cho rằng những cuộc cách mạng này đều không đến nơi đến chốn vì không giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột.

– Thực tiễn trong gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa” của Lênin (1920) tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, nâng cao nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về con đường giải phóng dân tộc của mình cũng như của các dân tộc bị áp bức khác vì nó phù hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, những hoài bão ấp ủ từ lâu ở Người nay trở thành hiện thực.

c) Phân tích ý nghĩa lịch sử của Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước chân chính cho dân tộc.
– Đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến với chủ nghĩa Mác- Lênin theo con đường cách mạng vô sản. Đây là công lao to lớn đầu tiên của Người đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác- Lênin. Đó là con đường giải phóng duy nhất mà cách mạng tháng Mười đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

– Mở đường giải quyết khủng hoảng về đường lối cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam, tạo ra một trong ba nhân tố cấu thành Đảng cộng sản Việt Nam (chủ nghĩa Mác- Lênin), nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
– Theo con đường cứu nước mà Nguyễn Ái Quốc đã chọn, từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đến nay đã căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta và tình hình thế giới để đề ra đường lối đúng đắn, kịp thời và đã đưa dân tộc ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác: cách mạng tháng Tám, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đại thắng mùa xuân 1975. Ngày nay dân tộc việt Nam vẫn tiếp tục đi theo con đường mà Nguyễn Ái Quốc đã chọn để xây dựng đất nước Việt Nam trở thành một quốc gia: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

Câu 22. Trình bày và phân tích ba yếu tố dẫn đến sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

-Yếu tố bên trong

+ Trước sự đàn áp, bóc lột hết sức dã man và tàn bạo của thực dân Pháp. ở Việt Nam lúc này đã có một số đảng đứng lên lãnh đạo quần chúng nổi dậy nhưng vẫn chỉ mang tính tự phát. Đặc biệt các đảng này tuy cùng một chí hướng là đem lại lợi ích cho người dân nhưng lại đi theo những con đường khác nhau có thể dẫn đến thực dân Pháp lợi dụng mà gây chia rẽ, dễ triệt phá. Trước tình hình đó, việc thống nhất các đảng phải thành một chính đảng duy nhất là một yêu cầu cấp bách.

+ Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp nước ta trong thời đại mới.

+ Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ này ngày càng phát triển.

+ Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của giai cấp công nhân

– Yếu tố bên ngoài: Hình thành Đảng cộng sản Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết để hoà nhập với phong trào công nhân thế giới và các cuộc đấu tranh dân tộc dân chủ trên thế giới. Dần dẫn đến các hoạt động hợp pháp hơn của đảng đối với thực dân Pháp và quốc tế.

– Tạo ra khả năng thuận lợi để liên kết giữa các đảng cộng sản ở các nước có quan hệ với nhau theo mục tiêu chung.

2. Ý nghĩa

– Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, có ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng. Hội nghị đã đáp ứng đòi hỏi bức thiết của phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam lúc bâý giờ.
– Thành quả lớn nhất mà Hội nghị mang lại cho đất nước là đã quy tụ toàn bộ phong trào công nhân và phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của một đội tiên phong duy nhất của cách mạng , với đường lối cách mạng đúng đắn, dẫn tới sự thống nhất về tư tưởng và hành động của phong trào cách mạng cả nước.
– Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là mốc đầu tiên xây dựng truyền thống đoàn kết, nhất trí của Đảng.

– Thắng lợi của Hội nghị là kết quả tất yếu của 10 năm chuẩn bị công phu, đấu tranh gian khổ, quyết liệt chống mọi âm mưu khủng bố và lừa bịp của đế quốc tay sai; là thắng lợi của hệ tư tưởng và đường lối chính trị của giai cấp công nhân chống hệ tư tưởng và đường lối chính trị của giai cấp tư sản.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là điều kiện cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là điều kiện cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là biểu hiện sự xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng nước ta.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử nước ta-thời đại mà giai cấp công nhân đứng ở trung tâm kết hợp các trào lưu cách mạng , là giai cấp quyết định nội dung và phương hướng phát triển chính của xã hội Việt Nam; thời đại mà nhân dân ta làm ra lịch sử một cách tự giác và có tổ chức; thời đại mà nhân dân Việt Nam không chỉ làm nên lịch sử vẻ vang của mình mà còn góp phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc bị áp bức, xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập và tiến bộ xã hội .

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.
– Với đường lối đúng đắn, sáng tạo, từ khi ra đời và cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp , đoàn kết được các lực lượng yêu nước, đã lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn.

– Đánh giá sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam nước ta. Nó chứng tỏ rằng, giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.

– Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh-người sáng lập , lãnh đạo và rèn luyện Đảng.

Câu 23. Lịch sử và ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2017)

Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức và chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. Hội nghị đã quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3-2 hàng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.

– Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất, theo một đường lối chính trị đúng đắn đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử trọng đại, một bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

– Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

– Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập  hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 83 năm qua.

– Với chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, ĐCSVN đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Câu 24. Phân tích những ưu điểm nổi bật của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được đồng chí Nguyễn Ái Quốc trình bày tại Hội nghị thành lập Đảng.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua, tại hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản(từ ngày 6-1 đến ngày 8-2-1930).Gồm các văn kiện: “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “điều lệ vắn tắt”, và lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng.Tính đúng đắn và sáng tạo của cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện qua những nội dung sau:

Cương lĩnh vạch rõ cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
Cách mạng tư sản dân quyền ( cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và cách mạng xã hội chủ nghĩa; hai giai đoạn cach mạng kế tiếp nhau, không có bức tường ngăn cách (“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đẻ đi tới xã hội cộng sản”). Như vậy ngay từ đầu , Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta là giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta: Đánh đổ đế quốc phong kiến và tư sản phản cách mạng; làm cho nước Việt Nam độc lập, dựng lên chính phủ công-nông-binh; tổ chức ra quân đội công nông ; tịch thu sản nghiệp lớn của bọn đế quốc và ruộng đất cả bọn phản cách mạng đem chia cho dân cày nghèo; tiến hành cải cách ruộng đất,đem lại ruộng đất cho nông dân…Như vậy Cương Lĩnh chính trị bao gồm nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến ,nhưng nổi bật nhất là chống đế quốc và tay sai phản động ,giành độc lập tự do cho tòa thể dân tộc .Lực lượng là công nông ,đồng thời phải lôi kéo tiểu tư sản ,tri thức ,trung nông về phe vô sản giai cấp ,còn phú nông ,trung tiểu địa chủ ,tư bản Việt Nam chưa lộ rõ bộ mặt phản động thì phải lợi dụng làm cho họ trung lập .

Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam .Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác –Lê Nin làm nền tảng tư tưởng ;Đảng phải có trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân ,làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng ;phải thu phục đại đa số dân cày ,dựa vững vào dân cày ;đồng thời phải liên minh các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nước khác ,đoàn kết,tổ chức cho họ đấu tranh chống đế quốc và phong kiến ,điều này rất đúng với hoàn cảnh một nước thuộc địa như Việt Nam .Cương Lĩnh đầu tiên của Đảng còn đặc cách mạng Việt Nam vào tiến trình cách mạng của thời đại ,coi cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới ,đứng về phía cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới .

Câu 25. Vì sao nói rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam? Vai trò của Nguyên Ái Quốc đối với Hội nghị thành lập Đảng.

Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thống trị rất tàn bạo, hà khắc và phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, xã hội Việt Nam đã có những biến đổi lớn: Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến; hai mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội ngày càng gay gắt. Đó là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược và giữa nhân dân ta chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ, phong kiến tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp.

Nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai là không tách rời nhau. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai ở khắp mọi nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Song các phong trào đấu tranh đó đều thất bại, nguyên nhân chủ yếu là chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, chưa có một lực lượng xã hội, một giai cấp tiên tiến và một tổ chức cách mạng chặt chẽ đủ sức lãnh đạo phong trào. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự bế tắc và khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc sau 10 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể đã bắt gặp được chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm được con đường cứu nước đúng đắn, Người nói: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”. Đây là bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến quyết định mở đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách Mệnh để tuyên truyền, giáo dục bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tiếp tục chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, tại Quảng Châu – Trung Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản được triệu tập dưới sự chủ trì và lãnh đạo của Bác Hồ. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đó là cương lĩnh và điều lệ đầu tiên của Đảng…Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến sĩ cách mạng đứng đầu là Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước.

Theo dõi phần tiếp theo:

Phần 1; Câu hỏi ôn tập Việt Nam từ năm 1919- 1930 (Phần 1) – Lịch sử 12

Phần 2:Câu hỏi ôn tập Việt Nam từ năm 1919- 1930 (Phần 2) – Lịch sử 12

Những chuyên mục hay của Lịch sử lớp 12:

  • Giải bài tập Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 12
  • Câu hỏi ôn tập môn Lịch sử lớp 12
  • Đáp án môn Lịch sử lớp 12
  • Đề thi học sinh giỏi môn Lịch sử lớp 12
0