Các trường đại học Nga: Đi tìm sự ưu tú đã mất hay xây dựng những trường hoàn toàn mới? (Kỳ 2)*
Lương giảng viên đại học ở Nga nằm trong số thấp nhất trên thế giới (đánh giá dựa trên sức mua tương đương). Lương chính thức thấp đến nỗi đội ngũ giảng viên về cơ bản không thể nào sống nổi nếu không có việc làm thêm nào khác (hoặc trong môi trường học thuật như giảng ...
Lương giảng viên đại học ở Nga nằm trong số thấp nhất trên thế giới (đánh giá dựa trên sức mua tương đương). Lương chính thức thấp đến nỗi đội ngũ giảng viên về cơ bản không thể nào sống nổi nếu không có việc làm thêm nào khác (hoặc trong môi trường học thuật như giảng dạy ở trường khác, hoặc thậm chí ở ngoài lĩnh vực học thuật).
Giảng viên đại học, việc nghiên cứu và văn hóa học thuật
Về những điều “có vấn đề” chính yếu của giảng viên đại học, lương thấp
là chuyện quan trọng nhất, và thiếu chuyên gia có trình độ cũng là vấn
đề nan giải. Lương chính thức thấp đến nỗi đội ngũ giảng viên (GV) về cơ
bản không thể nào sống nổi nếu không có việc làm thêm nào khác (hoặc
trong môi trường học thuật như giảng dạy ở trường khác, hoặc thậm chí ở
ngoài lĩnh vực học thuật).
Theo Altbach
và cộng sự (2012), lương GV ở Nga nằm trong số thấp nhất trên thế giới
(đánh giá dựa trên sức mua tương đương). Kết quả của việc thiếu hụt tài
chính trên quy mô rộng như thế là gì? Trước hết, phần đông GV phải tìm
việc làm thêm, khiến họ không còn thời gian cho chuyên môn, như giảng
dạy hay nghiên cứu. Một số người - thường là những người thông minh nhất
- rời khỏi môi trường học thuật để làm cho các doanh nghiệp hay cho các
trường đại học ngoại quốc. Điều này dẫn đến việc thiết lập một thứ
chuẩn mực hàn lâm mới, ngụ ý là chẳng có gì sai khi nhận thêm tiền phụ
thêm trực tiếp từ SV. Sự nảy nở của thứ chuẩn mực này được tạo điều kiện
và hợp thức hóa nhờ sự thiếu hụt tài chính được xem như một lý do biện
bạch phổ biến. Ngày nay những SV tài năng khi tốt nghiệp không thiết tha
gì đến việc trở thành GV (xem Yudkevich và cộng sự (2014)), và lương
thấp chỉ là một trong nhiều lý do.
Những
lý do khác là điều kiện làm việc thiếu thốn (khả năng tiếp cận cơ sở dữ
liệu rất hạn chế, thông tin, thiết bị, dụng cụ v.v.) và định hướng thang
bậc theo chiều dọc của công ty là một phần của văn hóa học thuật ở Nga.
Văn hóa học thuật là một vấn đề khá nghiêm trọng bao gồm nhiều yếu tố,
chúng ta sẽ liệt kê ra vài thứ ở đây.
Mối
liên hệ với xã hội có một vai trò quan trọng trong đời sống học thuật
và ở Nga cơ chế phát triển sự nghiệp thực thụ đã bị thay thế bằng sự
trung thành, mối quan hệ, và việc ra quyết định dựa trên các kiến nghị.
Thiên về đồng huyết là một chuẩn mực phổ biến trong đời sống hàn lâm
(xem Horta (2010) về tình trạng đồng huyết nói chung và xem thêm Sivak,
Yudkevich (2012) về tình trạng này trong các trường đại học Nga).
Một vấn đề liên quan là văn hóa nhấn mạnh lòng trung thành trong sinh
hoạt học thuật. Ví dụ như sự tác động của các tiêu chuẩn và chuẩn mực
địa phương vào thực tế giảng dạy và nghiên cứu. Các trường vẫn đang duy
trì một cơ chế khép kín với rất ít trao đổi thông tin với nhau. Chúng ta
có thể nói rằng chủ nghĩa phong kiến đã trở thành một đặc điểm của hệ
thống. Nó ngụ ý sự khép kín của các trường đại học và sự nảy nở sinh sôi
các thứ rào cản đã ngăn chặn không chỉ sự cạnh tranh và đánh giá mà còn
cản trở luôn cả sự hợp tác. Chủ nghĩa phong kiến rất gần với những hiện
tượng phổ biến như tình trạng đồng huyết hay có rất ít luân chuyển GV
giữa các trường. SV cũng vậy, học trường nào thì chỉ học mãi ở trường
ấy. Quả thật là trong tình thế hiện nay, các trường đều thiết tha muốn
giữ lại SV giỏi và tạo điều kiện cho họ học tiếp lấy bằng thạc sĩ và
tiến sĩ.
Chương trình đào tạo được thiết
kế theo lối chuyên môn hóa rất hẹp. Trong thời Xô viết, điều này cho
phép các trường bắt đầu giữ độc quyền về mặt đào tạo SV và thuê GV. Hiện
nay, những nguyên tắc sơ đẳng như thế chỉ có tác dụng làm manh thêm
“chủ nghĩa phong kiến” giữa các trường.
Một vấn đề khác là chất lượng và khả năng cạnh tranh của đội ngũ GV,
những người mà năng lực của họ còn xa mới đạt mức mong muốn. Theo dữ
liệu thăm dò ý kiến, GV thường tự đánh giá mình khá cao về kỹ năng giảng
dạy và nghiên cứu (xem Sivak, Yudkevich (2013) về kết quả khảo sát ở
Nga dựa trên phương pháp CAP). Trong lúc đó, đánh giá ngoài cho một kết
quả trái ngược. Số GV yêu cầu SV phải đọc tài liệu tiếng Anh và bản thân
họ thường xuyên tiếp cận thư viện điện tử với những tập san khoa học
chuyên ngành mới nhất, là một con số rất thấp.
Số liệu khảo sát về năng suất nghiên cứu cũng chẳng lạc quan gì hơn.
Một mặt, đội ngũ GV Nga có rất nhiều ấn phẩm ở cấp vi mô (xem dữ liệu về
Giám sát các Tổ chức Giáo dục và Thị trường giáo dục), nhưng mặt khác,
hầu hết đó là các ấn phẩm địa phương, thường là tập san của các trường,
bằng tiếng Nga và hiếm khi có quá trình bình duyệt. Sự hiện diện của các
nhà khoa học Nga trong các cơ sở dữ liệu ấn phẩm khoa học quốc tế như
Web of Science hay Scopus là rất rất thấp (xem Pislyakov (2013)). Chỉ có
20% GV đại học ở Moscow và Saint Petersburg, những người đã tham dự
cuộc khảo sát dựa trên phương pháp CAP nói trên, là có ít nhất một bài
báo khoa học không phải bằng tiếng Nga trong ba năm trước đó. Thế nhưng,
hơn 40% GV chưa từng bao giờ có một bài báo khoa học bằng tiếng nước
ngoài đã khẳng định rằng họ có một nền tảng nghiên cứu xuất sắc (Sivak,
Yudkevich(2013)). Mức độ hội nhập quốc tế còn tệ hơn nữa ở những trường
cấp khu vực.
Một câu hỏi nảy ra khi nói
về ấn phẩm khoa học. Liệu các nhà nghiên cứu Nga có nên hội nhập hoàn
toàn vào cộng đồng hàn lâm dùng tiếng Anh làm phương tiện giao tiếp như
là một ngôn ngữ của khoa học, và do đó, xói mòn thị trường khoa học
trong nước, hay là họ nên trước hết nhằm vào người đọc tiếng Nga trong
nước? Cách nghĩ thứ hai hiện nay đang rất phổ biến (nhất là trong số
những người không có lấy một bài báo khoa học nào bằng tiếng nước
ngoài). Ngay cả những người thiên về hội nhập quốc tế cũng thấy khó mà
cố gắng và đạt được cả hai mục tiêu cùng lúc. Kết quả là, cộng đồng khoa
học - ngay cả trong phạm vi từng lĩnh vực chuyên ngành - thường bị chia
thành hai nhóm đối lập, những người dĩ nhiên là được hướng dẫn bởi
những tiêu chuẩn học thuật khác nhau. Giữa khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội, tình trạng này cũng có nhiều khác biệt.
Về tổng thể,
có thể nói rằng mức độ quốc tế hóa trong giới hàn lâm Nga là khá thấp.
Ít người có kinh nghiệm giảng dạy hay nghiên cứu ở nước ngoài, the dữ
liệu của hai cuộc khảo sát nói trên. Số người nước ngoài đến giảng dạy ở
các đại học Nga cũng thấp: chỉ một số ít giảng viên, nghiên cứu viên
người nước ngoài làm việc tại Nga, và vô cùng ít có trường đại học Nga
nào thử tuyển dụng giới hàn lâm quốc tế.
Mức độ quan liêu và các thứ quy định trong đời sống học thuật và quy
trình đào tạo ở Nga khiến người nước ngoài khó lòng thích nghi nổi. Muốn
thành công trong việc tuyển dụng giới hàn lâm quốc tế thì trước hết
phải giải quyết một số vấn đề, như xuất nhập cảnh (giấy phép lao động,
v.v.), bảo hiểm và hưu bổng, an ninh và nơi ở (vì ở Nga hầu hết mọi giao
tiếp trong sinh hoạt hàng ngày trong xã hội là bằng tiếng Nga). Đồng
thời, cũng có những vấn đề về tổ chức và về mặt học thuật trong nhà
trường: thiếu những hợp đồng biên chế, hệ thống thuế không minh bạch
(theo quan điểm của người nước ngoài), việc tính lương và nghỉ phép. Bên
cạnh đó, chế độ visa gây ra những hạn chế nhất định cho việc giao lưu
quốc tế (khá là hạn chế đối với những người nước ngoài quen với việc tự
do di chuyển). Bởi thế, cả hệ thống nhìn chung có vẻ có rất nhiều cấm
đoán đối với người nước ngoài, tuy là hầu hết những cấm đoán ấy là từ
bên ngoài, tức là từ những lực lượng bên ngoài trường đại học. Đã có một
số bước đi nhằm giải quyết vấn đề này. Ví dụ, cho đến mãi gần đây,
nghiên cứu sinh tiến sĩ là người nước ngoài vẫn phải trải qua một quy
trình dài dằng dặc để xác nhận tương đương văn bằng, kể cả phải dịch
toàn văn luận án sang tiếng Nga. Hiện nay, theo một nghị định của phủ
tổng thống, bằng cấp của những trường đại học hàng đầu thế giới được
chấp nhận mà không cần một thủ tục đặc biệt nào cả.
Tất cả những thay đổi tiêu cực trong hai mươi năm qua đều có tác động
đến văn hóa học thuật. Đầu thập kỷ 90 đến đầu những năm 2000, những
người với các giá trị học thuật truyền thống đã từ từ bị đẩy bật ra khỏi
không gian học thuật, thay vào đó là những người có những giá trị khác
bắt đầu quan tâm đến công việc của đại học. Những nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định lựa chọn hay theo đuổi sự nghiệp của các GV đại học đã thay
đổi. Uy tín khoa học của khoa hay trường, cũng như sự hợp tác khoa học
giữa các GV được xem là quan trọng đối với trên 80% GV vào năm 1992, thì
nay chỉ còn quan trọng với ít hơn 50% người tham gia cuộc khảo sát năm
2012.
Đội ngũ GV ở Nga cũng công nhận
rằng các nhà quản lý cấp khoa và cấp trường đều đang tăng cường chức
năng kiểm soát (xem Altbach (1996), Yudkevich và cộng sự (2012)). Đồng
thời, họ thấy mình chẳng liên quan gì đến việc ra quyết định về những
vấn đề quan trọng. Quả thật là cơ chế quản lý đại học ở Nga khiến những
quyết định về đào tạo hay học thuật chủ yếu là quyết định của giới quản
lý chứ không phải giới hàn lâm. Mức độ tự trị trong khoa học và sự gắn
bó của GV với quá trình ra quyết định của nhà trường là rất thấp. Kết
quả là, phần lớn cơ chế kiểm soát là thẳng đứng từ trên xuống. Cơ chế
đánh giá được tổ chức theo lối ấy đã thay thế cho cơ chế bình duyệt, và
điều này đã tạo ra tác dụng phụ lên hành động của GV. Họ nhận thức rằng
kiểu đánh giá từ bên ngoài và từ trên xuống như thế - như một cái gì đối
lập với đánh giá cùng cấp trong nội bộ - như một “áp lực” và dấu hiệu
của ‘quan liêu hóa”. Trong lúc đó, cơ chế đồng quản trị lại là điều cốt
lõi để xây dựng một trường đại học đẳng cấp quốc tế (Rozovsky (2012)).
Chúng ta cũng nên xem xét một số vấn đề quan trọng trong lịch trình kế hoạch của cộng đồng học thuật Nga.
Trước hết, giá trị hiệu lực của bằng cấp và chất lượng của các luận án
tiến sĩ đang bị nghi ngờ ở Nga (nhất là hệ thống hai cấp tiến sĩ và tiến
sĩ khoa học) Trong những tháng gần đây, một số vụ scandal đạo văn nổ ra
với bị cáo là các nhà chính trị và quan chức nhà nước cao cấp với luận
án của họ, trong đó có cả các quan chức ngành giáo dục. Tuy quy mô của
những vi phạm ấy chỉ mới được chính thức công nhận gần đây, nó đã tồn
tại từ lâu trong thực tế và có nhiều lý do để lo ngại về điều này. Bởi
vì cầm một tấm bằng (nhất lại là bằng tiến sĩ) được coi là rất oai, mà
đạt được nó thì cũng chẳng tốn kém bao nhiêu thông qua những chương
trình học phải trả tiền, nên số bằng được cấp đã tăng rất nhanh những
năm qua, nhất là bằng trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Tuy
nhiên chất lượng của những luận án đã dẫn tới những tấm bằng ấy thì rất
thấp, về cơ bản nó chỉ dẫn đến cơ hội mua bằng (mua một luận án đã viết
xong hoặc bảo vệ luận án theo một sự “sắp xếp” đặc biệt). Cuối cùng thì,
điều đó dẫn đến.
giảm giá trị cả hệ thống bằng cấp của Nga
trong lúc bằng cấp của nước ngoài được coi trọng bất kể uy tín của
trường đó ra sao (ít ra nó cũng được coi ngang với các trường top của
Nga).
Vấn đề bằng cấp cũng liên quan tới
cuộc cải cách quá chậm trễ trong đào tạo sau ĐH, hiện nay đã không còn
khả năng cạnh tranh trong một số lĩnh vực. Một vấn đề khác là hầu hết
nghiên cứu sinh chẳng hề có ý định làm việc trong lĩnh vực học thuật.
Hầu hết (kể cả nghiên cứu sinh toàn thời gian) đều đang làm việc toàn
thời gian ở các doanh nghiệp. Học bổng nghiên cứu sinh quá thấp, bởi vậy
những người trẻ không thể nào theo đuổi việc học nếu không làm thêm.
Mặt khác, các chương trình đào tạo sau đại học toàn thời gian thường
không mấy nghiêm ngặt với các đề tài nghiên cứu, điều này đặc biệt hấp
dẫn với nam vì địa vị nghiên cứu sinh có nghĩa là rất dễ bị làm cho
thoái chí.
Những vấn nạn của đào tạo sau
đại học thậm chí còn sâu sắc hơn do sự thiếu vắng một thị trường khoa
học thực sự ở trong nước và thiếu triển vọng việc làm tương lai bên
ngoài cánh cổng trường đại học cho giới hàn lâm. Điều này có nghĩa là
nhà trường không có động lực kích thích để tạo ra những SV giỏi nghề
nghiên cứu, bởi năng lực của họ dù sao cũng không được thị trường coi
trọng.
Cùng với tình trạng đồng huyết, hiện tượng này đã góp
phần vào việc SV không cạnh tranh vào những vị trí tốt nhất và không có
động lực để rèn luyện kỹ năng nghiên cứu và theo đuổi sự nghiệp nghiên
cứu.
Thị trường khoa học và một cơ chế
gắn với uy tín khoa học của các nhà hàn lâm vẫn còn là điều sẽ đến trong
tương lai. Một trong những điều đã ngăn cản quá trình này là đến nay,
các trường đại học vẫn không được tự mình cấp văn bằng mà phải qua một
hội đồng xác thực đặc biệt do Bộ Giáo dục và Khoa học quản lý. Nói cách
khác, bằng cấp của tất cả các trường đều có giá trị như nhau trên thị
trường, khiến các trường chẳng được lợi lộc gì khi tạo ra những luận án
xuất sắc và chẳng mất mát gì khi sản xuất ra những luận án kém cỏi. Các
trường được cấp ngân sách tùy theo số lượng SV, đối với SV sau đại học
nhà trường được cấp nhiều tiền hơn so với SV, bởi thế các trường sẽ có
lợi hơn khi mở nhiều ngành sau đại học và tuyển vào thật nhiều nghiên
cứu sinh. Hiệu quả hoạt động của các trường được đánh giá dựa trên số
luận án được bảo vệ thành công, điều này đã xui giục họ chấp nhận luận
án chất lượng kém.
Công nghệ bằng cấp
cũng liên đới với công nghệ làm tập san khoa học (xem Sokolov (2012)).
Ấn phẩm khoa học ngày nay không chỉ là phương tiện truyền thông khoa học
mà còn là tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động khoa học của các nhà
nghiên cứu và các nhóm nghiên cứu, bởi vậy làm tập san khoa học đã trở
thành một hoạt động kinh doanh. Các tập san được thương mại hóa (chủ yếu
đóng tại Moscow hoặc khu vực) nhận tiền để xuất bản những bài báo chất
lượng kém, đã trở thành cực kỳ phổ biến. Các tác giả bị tính tiền theo
đủ cách: có khi họ bị yêu cầu trả tiền cho việc “biên tập” hay đăng ký
nhận tập san. Trong tình hình này, ngay cả các tập san không thỏa hiệp
về chất lượng cũng phải bắt tác giả đóng tiền mới có thể tồn tại được,
và thật khó mà phân biệt chân giả về chất lượng với hai thứ tập san ấy.
Trong mọi trường hợp, các trường hiện nay đều có tính đến số lượng ấn
phẩm khoa học khi đánh giá kết quả hoạt động nghiên cứu, vì vậy các tập
san khoa học đang đứng trước nhu cầu rất cao. Không may là thị trường
không đáp ứng theo lối hiệu quả nhất, và tình thế nước Nga cũng không
ngoại lệ. Có những vấn nạn tương tự ở Trung Quốc, Ấn Độ, và một số nước
khác. Có những tập san khoa học và những nhà xuất bản trên thị trường
toàn cầu đưa ra những bài báo khoa học có thể phá hủy uy tín khoa học
của người ta thay vì thêm vào một giá trị nào đó (Altbach, Rapple
(2012)).
Có lẽ tốt hơn là tính đến chất
lượng của tập san thay vì số lượng bài báo khoa học mà người ta trình
ra. Nhưng ở Nga điều này thật là khó vì thiếu một hệ thống đánh giá các
tập san dựa trên những tiêu chí khách quan của ngành đo lường thư mục
khoa học, như là chỉ số ảnh hưởng (IF) chẳng hạn. Chúng ta đã đề cập
trong phần trên về việc thiếu bình duyệt cùng cấp, ít ra là trong một số
ngành, vì vậy chúng ta có thể thấy kết quả hoạt động thường được đo
bằng những tiêu chí số lượng, là điều dĩ nhiên sẽ phương hại cho toàn bộ
hệ thống.
(Kỳ cuối: Sinh viên, chính sách tuyển sinh, cơ cấu và chất lượng giáo dục)
Phạm Thị Ly dịch