Hà Nội – Việt Nam: 100 năm giao thoa văn hóa Đông – Tây, Nam – Bắc (Lý luận và Thực tiễn)
GS Trần Quốc Vượng I. Khái niệm 1.1. Thuật ngữ phương Tây Acculturation được các nhà văn hóa học Việt Nam, từ thập kỷ 60 đến nay dịch một cách khác nhau: - Văn hóa hóa (Nguyễn Khắc Viện) - Hỗn dung văn hoá (Nguyễn Đức Từ Chi) - Đan xen văn ...
GS Trần Quốc Vượng
I. Khái niệm
1.1. Thuật ngữ phương Tây Acculturation được các nhà văn hóa học Việt Nam, từ thập kỷ 60 đến nay dịch một cách khác nhau:
- Văn hóa hóa (Nguyễn Khắc Viện)
- Hỗn dung văn hoá (Nguyễn Đức Từ Chi)
- Đan xen văn hóa (Trần Quốc Vượng)
- Tiếp biến văn hóa (tiếp xúc và biến đổi văn hóa) (Hà Văn Tấn)
- Giao hòa văn hóa (Hoàng Ngọc Hiến)[1]
- Gần đây nhất nhà nghiên cứu Hữu Ngọc dịch là “Tương tác văn hóa” (tại hội nghị Quốc tế về Việt Nam học, Hà Nội, 1997).
Còn tôi (Trần Quốc Vượng) sau nhiều năm suy nghĩ đã quyết định dịch lại là “Giao thoa văn hóa” ý chỉ sự “móc ngoặc”, “móc nối” giữa hai hay nhiều nền văn hóa, để chuyển biến nền văn hóa bản địa do sự tương tác giữa hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh (endogenous >< exogenous). Khái niệm này đã được lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội chấp thuận với giáo trình Giao thoa văn hóa ở Việt Nam do tôi chủ biên.
Thuật ngữ này đã xuất hiện trong khoa học nhân văn Âu - Mỹ từ thập kỷ 30 của thế kỷ này và được học giả lớn H. Herkovits định nghĩa như sau: “Dưới từ acculturation, ta hiểu là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hóa khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp gây ra sự biến đổi mô thức (pattern) văn hóa ban đầu của một hay cả hai nhóm”[2].
Trong quan niệm của các học giả Mỹ, chủ yếu điền dã trên địa bàn Mỹ La tinh và châu Phi, đã nói đến acculturation (R. Ridifield, R. Liton, H. Herkovits...) là sự có mặt của ít nhất 2 cộng đồng (nhóm) người, tộc người... có văn hóa khác nhau, là nói đến sự tiếp xúc văn hóa (contacts culturels) lâu dài và quan hệ trực tiếp giữa hai bên.
1.2. Có thể phân tích mối quan hệ tương tác giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Quốc để làm sáng tỏ quan niệm trên.
Trong nhiều bài viết trước đây[3], tôi đã chứng minh rõ người Việt cổ ở lưu vực tam giác châu thổ sông Nhị với các hằng số sinh thái: nóng - ẩm - mưa nhiều - gió mùa (P. Gourou gọi là vùng “châu Á gió mùa” (Asie des moussons)) lấy nông nghiệp lúa nước làm nguồn sống chính, với mối bận tâm chính, như Giáo sư Viện sĩ Đào Thế Tuấn vạch ra là Nước[4]. Nước có mặt “thủy hại”.
Lũ lụt thì lút cả làng
Đắp đê phòng lụt, thiếp chàng cùng lo!
Và mặt “thủy lợi”
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống
*
Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm...
Trong khi đó, cái nôi của người Hoa là vùng cao nguyên và bình nguyên hoàng thổ (loess) Hoàng Hà[5].
Đất không phải là phù sa sông màu nâu như châu thổ sông Nhị, cái nôi của người Việt, mà là do gió Tây thổi về rắc lên cao - bình nguyên Hoàng Hà. Độ ẩm kém, lượng mưa trung bình 400mm/năm và lượng bốc hơi lại cao nên người Hoa trồng khô với các giống kê, cao lương và sau này là mạch. Khi bành trướng xuống phương Nam, người Hoa - với sự giao thoa văn hóa với các bộ tộc Bách Việt - mới biết trồng lúa nước và biết ghi chép, kiểu Hoa hóa, các di sản văn hóa Việt cổ vô thể như huyền tích Bàn Cổ, huyền tích Ngưu Lang - Chức Nữ (“mưa ngâu” đâu có ở Hoàng Hà?), lịch 12 con vật (lịch Hoa gốc từ Thương - Chu là lịch can - chi) ... rồi sau này dùng sách dạy lại người Việt y như một di sản văn hóa Trung Hoa... Cho nên huyền thoại, huyền tích “Thần Nông” (ngữ pháp Việt) đã mang tính giao thoa văn hóa Việt - Hoa (“cháu 3 đời” Thần Nông là Đế Minh đi “tuần thú” phương Nam lấy nàng Vụ Tiên đẻ ra Lộc Tục (tên Việt đầu tiên còn ghi lại)). Lộc Tục sau là Kinh Dương Vương, chia đất với “anh cùng cha khác mẹ” là Đế Nghi. Đế Nghi cai trị phương Bắc, Kinh Dương Vương trông coi cõi Nam. Rồi Kinh Dương Vương - Long Nữ cũng như huyền thoại - huyền tích Âu Cơ - Lạc Long Quân là rất đáng trân trọng vì nó còn hoài niệm hồi cố về một địa bàn Bách Việt cổ rộng lớn từ hồ Động Đình, hồ Bành Lãi xuống phía nam Ngũ Lĩnh (mà người Trung Hoa thường gọi “hắt ra” là Lĩnh ngoại (Quảng Đông - Việt Đông), Quảng Tây (Việt Tây) - Âu Việt - Lạc Việt (Âu Lạc). Đấy là sự “chế tác” folklore[6] của các nhà Nho yêu nước. Đây vẫn là truyền thống “con Rồng cháu Tiên” rất đẹp mà chúng ta, ở thời buổi giao thừa thế kỷ XX - XXI và thiên niên kỷ II - III cần giữ gìn.
Tất nhiên, từ trước sau Công nguyên, người Việt đã tiếp thu văn hóa Hoa Hạ (văn hóa Sở ở nơi giao thủy Hán Thủy - Dương Tử (Hán khẩu) là kết quả giao thoa văn hóa Việt - Hoa đầu tiên, mà kết tinh là nhân vật văn hóa lớn Khuất Nguyên và các tác phẩm Ly Tao và Cửu Ca[7]. Sách Hán thư dẫn lời Hán Vũ đế nói về Việt phương, rất sợ phục phương thuật của người Việt. Vì vậy, ở một vài bài trước đây, tôi đã nói đến diễn trình của giới trí thức Việt Nam lần lượt là (vẫn có đan xen trong lịch sử):
- Phương sĩ (vua Hùng là tiêu biểu, dùng yêu thuật để lên ngôi).
- Thiền sư (tiêu biểu là Khuông Việt đại sư): đây là kết quả giao thoa Việt - Ấn - Hoa từ đầu Công nguyên.
- Nho sĩ (tiêu biểu là các Trạng nguyên) điển hình của giao thoa văn hóa Việt - Hoa.
- Các trí thức “Tây học” hiện đại (mà ở Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX có câu : “Phi cao đẳng bất thành phu phụ”), điển hình của giao thoa văn hóa Việt - Pháp, Đông - Tây[8].
1.3. Sự giao thoa - tương tác văn hóa Việt - Hoa không thể quy giản thành “bên cho” (Hoa) - “bên nhận” (Việt). Sự đời bao giờ cũng “có đi có lại”. Người Hoa tiếp thu một số hoa văn Việt trên trống đồng Đông Sơn đưa vào gương đồng, kỹ thuật chế tác thủy tinh, một vài giống lúa chịu hạn, vải bông, đường mía (như đường phèn), kỹ thuật dùng kiến trừ sâu cam và một vài truyền thuyết như vợ chồng Ngâu... Người Việt - đất Việt tiếp thu - hội nhập ở văn hóa Hán trước hết là mô hình tổ chức hành chính (xã - hương - huyện - quận - đạo - trấn - tỉnh...),ở hệ thống quan chức (tuy có giản lược đi, vì Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Hoa là nước lớn), ở chế độ khoa cử... thậm chí không khỏi có khuynh hướng vọng ngoại “Nam nhân Bắc hướng” (chữ của GS. Tsu - Đại học Princeton, Mỹ)[9].
Thậm chí nhân danh, nhiều địa danh (trừ tên Thăng Long là “tên chữ” (Hán - Việt, nhưng rất độc đáo Việt Nam) cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa (trước sau Công nguyên, người Việt Nam không có tên họ như bây giờ, chỉ có tên kiểu (đã được ghi âm bằng chữ Hán, là một loại Việt - Hán) như Ích Xương, Thi Sách, Trưng Trắc, Lý Bí (sau mới đọc là Lý Bôn, Lý Phần), Bầu (sau mới đọc là Lý Thiên Bảo). Ở thế kỷ VI, Hậu Lý Nam Đế chỉ xưng là Lý Phật Tử (Phật Tử họ Lý chứ không xưng là Thiên tử kiểu Trung Hoa).
Với thời gian đắp đổi, tiếng Việt cổ cũng hấp thụ nhiều từ, nhiều khái niệm triết lý - xã hội - văn hóa của người Hoa (trong tiếng Việt có trên 60% từ gốc Hoa, đọc chệch đi, (ngữ âm khác, phần nhiều thành từ Hán - Việt) với một ngữ pháp, trật tự từ khác và nhiều khi cả ngữ nghĩa cũng khác đi (“khốn nạn”, “khoái trá”...).
Nhà văn Tô Hoài đã nói đến “tiếng Hồ Gươm” tức tiếng Việt của riêng người Hà Nội, không giống hẳn với bất kỳ tiếng địa phương nào.
1.4. Đến thời kỳ “Đại thương mại” (Grand Commerce XVI, XVII, XVIII) với “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến” (và Hội An, Cù Lao Phố, Bến Nghé ở Đàng Trong) thì người Việt hội nhập một số từ và sản phẩm ngoại sinh như bánh chưng hình vuông, (kiểu Quảng Đông - thay cho bánh tét hình trụ), đậu Hà Lan, rượu vang (vin)... cùng một số từ mới như đầu (thay cho trốc), như hoa (thay cho bông), bát (thay cho đọi), thuyền (thay cho ghe), thìa (cùi dìa (cuiller)) ...
1.5. Đặc biệt, từ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, dưới thời thuộc địa thực dân, thì sự giao thoa Việt - Pháp, Đông - Tây... diễn ra mạnh hơn, từ Nam chí Bắc trên rất nhiều lĩnh vực, dưới hai hình thức:
- Giao thoa cưỡng bức (forced acculturation):
Như trường Pháp - Việt (Franco - Annamite), trường Trung học Bảo hộ (Lycée (du) Protectorat), sau cách mạng là trường Chu Văn An, không kể trước đó là trường “Hậu bổ”...; như chế độ Công sứ (tỉnh), Thống sứ (Bắc kỳ), Toàn quyền (toàn Đông Dương), Đốc lý (Hà Nội); chế độ khoa cử: tốt nghiệp tiểu học (Certificat), Trung học cơ sở (Diplôme), Trung học chuyên khoa (Baccalauréat), tốt nghiệp đại học (Licencié) ...
Người Pháp cũng lập Học viện Pháp về Viễn Đông (Ecole Francaise d’ Extrême - Orient) (từ 1901)[10] và hệ thống Bảo tàng Bắc Trung Nam (ở Hà Nội là Musée Louis Finot, nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), Nhà hát Lớn (Grand Théâtre) mà người Hà Nội trước gọi là “nhà hát Tây” chuyên diễn ca kịch, opera ... cho phần lớn ông Tây, bà Đầm xem[11].
- Giao thoa tự nguyện (voluntary acculturation):
Việc trồng một số cây rau cây hoa gốc ôn đới (đặc biệt vùng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Láng đã có nền tảng trồng hoa, rau từ trước). Từ đó tiếng Hà Nội, sau đó lan tỏa ra nhiều địa phương khác đã hội nhập hoa dơn (glaieul), vi-ô-lét (violette), păng-xê (pensée)..., rau xà lách (salade), xu hào (chourave), xu xu (chou-chou), xúp lơ (chou-fleur) ...
Và một số thức ăn, đồ uống Tây: sâm banh (champagne), cô nhắc (cognac), uýt-ky(whisky), tách (tasse), cốc (cup), bít tết (beefsteak), giăm bông (jambon), bánh Tây (pain, nay gọi là bánh mì)[12], pa tê (pâté), xúc xích (saucisse)...
1.5.6. Trong văn hóa cũng có sự áp đặt và sự tự nguyện về tư tưởng - ý thức hệ, thời Việt - Hoa (cũ) là Nho giáo, Đạo giáo, cả Phật giáo, thời Việt - Hoa mới, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là Tân thư, với các tư tưởng Tam Dân của Tôn Dật Tiên, và ở cuối nửa đầu kéo dài gần suốt nửa sau thế kỷ XX là tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Stalin, tư tưởng Mao cho đến khi Bác Hồ mất khá lâu, cuối thập kỷ 80, ta mới nêu cao từ Hà Nội ra cả nước, tư tưởng Hồ Chí Minh (nền tảng bản địa gốc Việt Nam, có hấp thu tư tưởng Mác - Lênin sáng tạo)[13]
1.6. Có thể sơ đồ hóa - hình học hóa quá trình giao thoa văn hóa của Việt Nam - Hà Nội là như sau:
Sơ đồ này chỉ muốn minh họa một ý tưởng của GS. Olov Janse - người Thụy Điển, đào khảo cổ ở Việt Nam từ 1934-1935, 1938-1939, sau dạy ở Đại học Havard Mỹ: “Việt Nam (là) ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh”[14]. Cũng ý đó, nhưng được diễn tả một cách khác, GS. Fukui Hayao, Đại học Kyoto đến Hà Nội năm 1998 đã nhận xét rằng: “Văn hóa Hà Nội - Việt Nam cũng như các nền văn hóa khác nên được nhìn nhận như một quá trình tác động qua lại giữa những nhân tố nội sinh và những nhân tố ngoại sinh”[15].
1.7. Không một nền văn hóa nào dù lớn, dù nhỏ mà không có sự vay mượn một số nhân tố của các nền văn hóa khác. Văn hóa Mỹ được gọi một cách biểu tượng là melting pot (mà nhà văn hóa Hữu Ngọc dịch là “nồi hầm nhừ”, theo tôi thì nên dịch là “Bình dung hóa”). Australia tự coi là xứ sở đa văn hóa và có chiến lược đa văn hóa (multiculturalism). Nhiều nhà văn hóa học thế giới cho rằng có nhiều nền văn hóa Trung Hoa: văn hóa Hoa Bắc, văn hóa Hoa Nam, văn hóa Tây Nam, văn hóa Đông Nam[16] có thể gọi chung là có nhiều văn hóa địa phương (local cultures), trong một nước Trung Hoa. Ở Việt Nam, có lẽ hợp lý nhất là nên nêu luận điểm: thống nhất trong đa dạng.
Và trong nhiều bài viết và nói trên Đài phát thanh và truyền hình, tôi đã nêu và được nhiều học giả đồng tình là quy luật bao quát nhất của văn hóa Thăng Long - Hà Nội là: HỘI TỤ - GIAO THOA - KẾT TINH - LAN TỎA[17].
1.7.1. Một thí dụ là truyện cổ tích, hay huyền tích.
Ở thế kỷ XIX, đứng trước lý thuyết của những người theo “trường phái vay mượn” (còn gọi là trường phái di chuyển cốt truyện), theo PGS.TS. Nguyễn Xuân Kính thì A.N. Vêxêlôpxki (1838-1906), một học giả Nga nổi tiếng, đã hoàn thiện lý thuyết này. Ông không chỉ khảo sát các hiện tượng văn hóa của dân tộc có cốt truyện đem “cho”, mà còn nghiên cứu những điều kiện bên trong của dân tộc tiếp nhận. Ông viết: “Sự tiếp nhận những tài liệu về truyện cổ tích sẽ không thể có được nếu không có những tính chất nhất định của môi trường tiếp nhận”[18]. Sẽ rất thú vị khi ta đối sánh truyện Tấm Cám với Cinderella với cuộc đời của Đức Ỷ Lan - thân mẫu Lý Nhân Tông ở Thăng Long thế kỷ XI (bà là Tấm hay là Cám?), khi ta đối sánh huyền tích về Tây Hồ ở Hàng Châu và Hồ Tây ở Thăng Long - Hà Nội (Hồ Xác Cáo - Cửu vĩ hồ tinh - Hồ Kim Ngưu - truyện Trâu Vàng ...).
1.7.2. Người ta thường nói rằng: ở vùng Đông Á - Viễn Đông thì Trung Hoa và văn hóa Hoa Hạ đóng vai trò trung tâm; các nước “đồng văn” với Trung Hoa như: Việt Nam, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản là các nước “vệ tinh”! Trên một ý nghĩa nào đó và trong những thời điểm nào đó (như thiên niên kỷ I) thì điều đó cũng đúng thôi. Thời buổi đó, như ở phương Tây thì văn minh - văn hóa - ngôn ngữ Hy La là trung tâm, còn Pháp, Đức, Bắc Âu, Đông Âu... là những “vệ tinh”.
Nhưng sự đời là biến đổi, là biện chứng. Ngày nay không ai nói Pháp - Đức là vệ tinh của Hy Lạp, Italy. Và thế kỷ XX, với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, với cách mạng tháng Tám (19-8-1945 ở Hà Nội), với Điện Biên Phủ (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong một lần nói chuyện với sinh viên năm 1955 ở Việt Nam học xá (nay là khu Đại học Bách khoa) đã nói đại ý: giải phóng Điện Biên là để giải phóng Thủ đô Hà Nội (10-10-1954), thực hiện lời thề cuối năm 1946 “Tạm biệt Thủ đô, rồi đây sẽ về!”). Việt Nam đi đầu (chứ đâu còn là vệ tinh) trong phong trào giải phóng chống ách thực dân ở cả Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á.
Lịch sử thế giới thế kỷ XX ghi công đầu tiên cho Việt Nam, cho Hồ Chí Minh là về chuyện đó, vì theo mấy trăm tác giả của cuốn Văn hóa thế kỷ XX, chỉ nam tiểu sử (1983 - London - New York) thì:
Thế kỷ XX có hai thành tựu văn hóa có giá trị nổi bật:
1. Sự đảo lộn về các lý thuyết khoa học và kỹ năng công nghệ (Việt Nam đóng góp rất khiêm tốn vào lĩnh vực này).
2. Sự giải tán chủ nghĩa thực dân (De-colonisation) (chứ chưa phải là giải tán chủ nghĩa tư bản (capitalism) để thay thế bằng chủ nghĩa xã hội (socialism)): Việt Nam - Hà Nội - Hồ Chí Minh đứng hàng đầu (prime leader of anticolonial movement) trong lĩnh vực này[19] với một Điện Biên Phủ dưới đất và một Điện Biên Phủ trên không ngay ở bầu trời Hà Nội.
GS. Sử học nổi tiếng Mỹ, Australia - David Marr - một nhà Việt Nam học tài danh trong công trình “Những văn hóa thể chế ở Việt Nam trong một năm giữa thế kỷ XX (cuối 1945 - cuối 1946)” (Institutional Culture(s) of Viet Nam in the Year 1945 - 1946) đã viết rằng: nếu năm 1945, Việt Nam có tới 6 văn hóa thể chế:
1. Thể chế thực dân Pháp.
2. Thế chế quân phiệt Nhật.
3. Thể chế quân chủ Nam triều (dù vua Bảo Đại là “bù nhìn” nhưng vẫn có thật)
4. Thể chế Tưởng Giới Thạch (ở bắc vĩ tuyến 16)
5. Thể chế Anh (ở nam vĩ tuyến 16)
6. Thể chế Dân chủ Cộng hòa của chính phủ của cụ Hồ Chí Minh.
Thì kỳ diệu thay chứ đâu chỉ là “vận may” (le moment favorable) như nhà báo - “nhà sử của hôm nay” - J. Lacouture nói, cuối cùng năm thể chế đầu đều biến mất và đến nửa cuối thế kỷ XX (1954, 1975) chỉ còn lại một thể chế Cộng hòa Dân chủ, một biểu hiện cao đẹp của sự giao thoa - giao hòa văn hóa Đông - Tây, Nam - Bắc.
Cố nhiên là có nhiều “trục trặc”, chiến tranh kéo dài, chộn rộn cả chiến tranh cách mạng - chiến tranh xâm lược, “can thiệp”, kể cả có lúc mang tính nội chiến (guere civile) nữa - có nhiều sai lầm nữa, (làm thì bao giờ chả có đúng có sai) như sai lầm trong cải cách ruộng đất (1956), sai lầm trong cải tạo công thương nghiệp (1959-60), sai lầm vì thể chế quan liêu bao cấp (trước thời kỳ Đổi mới bắt đầu từ 1986), cũng có lúc cả giáo điều rập khuôn Xtalinit - Maoit nữa, nhưng cuối cùng Việt Nam vẫn hòa nhập với Asean, hội nhập với quốc tế (“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”) (ý của Đảng Cộng sản Việt Nam do cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố đầu tiên), hòa nhập mà không hòa tan, vẫn cố gắng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, để bước vào thế kỷ mới (XXI), vào thiên niên kỷ mới (thứ III sau Công nguyên), càng nhanh càng tốt, nhưng là những bước tiến vững vàng để trở thành một nước tương đối công nghiệp hóa, tương đối hiện đại hóa vào khoảng năm 2020.
Tôi diễn giải có hơi dài dòng ý kiến của một nhà Việt Nam học nước ngoài để cho có vẻ khách quan. Ngược lại, nhiều học giả nước ngoài đã hoan nghênh nhiệt liệt khi tôi tuyên bố dõng dạc ở Mỹ trong “ngày dàn hòa” (Day of Reconciliation):
“Chính trị qua đi, văn hóa ở lại” (Les politiques passent, les cultures restent)[20].
Chính trị thực dân đế quốc… qua!
Chính trị “can thiệp vào nội bộ nước khác” rồi cũng qua!
Nhưng quần bò Jean áo T-shirt vẫn được giới trẻ Hà Nội và cả nước mặc, bộ Âu phục complet, cravate vẫn được từ vị nguyên thủ quốc gia đến người thường dân như tôi dùng, hàng ngày Hà Nội vẫn tiêu thụ nho Phan Rang gốc California, hoa Đà Lạt “tuy-lip” (tulipe) gốc Bắc Âu, táo Tầu, rượu Tây... Agino-moto Nhật với nào những Sony, Toyota, Daewoo, Samsung, Dream, Wave... Có xá kể gì!
1.7.3. Thời thuộc Pháp nửa đầu thế kỷ XX, ảnh hưởng của văn hóa Pháp đã tràn vượt khỏi mục đích thực dụng - thực dân. Tiếng Pháp và văn hóa Pháp đã tác động (tích cực) đến mặt cú pháp tiếng Việt, đến thơ, văn (“thơ mới”, truyện ngắn, tiểu thuyết..), đến báo chí (Đại Việt thời Lê sơ chỉ có một “Đình Quảng Văn” ở cửa Nam Hà Nội để dán các lệnh chỉ của triều đình cho dân biết, chứ trước thời Pháp thuộc, nước ta không có báo chí, kể từ nhật báo, đến tuần san, bán nguyệt san, nguyệt san, tạp chí, tập san 3 tháng, 6 tháng, 1 năm một kỳ... đều chỉ có ở Hà Nội từ đầu thế kỷ XX trở đi). Cuối XIX đầu XX mới có “nhà Tây”, khu phố Tây ở Hà Nội.
Những tác động vừa nêu là rất đáng kể, song nhìn chung văn hóa Pháp không gây ảnh hưởng lớn với xóm làng Việt Nam. Người nông dân, người “nhà quê” Việt Nam nhìn chung vẫn thờ ơ với văn hóa Pháp, vẫn giữ (dù nhà cầm quyền Pháp có ý định và đã thực thi “Cải lương hương chính” nhưng nhìn chung là thất bại ở cuối thập kỷ 20) cơ cấu tổ chức cổ truyền (nhà - làng - họ - vùng - miền), có chăng một vài nhà giàu, nhà quan trong làng mới có ngọn “đèn Hoa Kỳ”, hay là cái “nhà Tây” 2 tầng, lợp “ngói Tây”, xây “xi măng” (ciment)...
1.7.4. Một trăm năm giao thoa văn hóa Đông - Tây trên đất nước này chủ yếu là ở đô thị.
Hãy lấy Hà Nội nội thành và lấy một thành tố văn hóa - Mỹ thuật - thôi để làm ví dụ minh họa[21].
Người Pháp đã mang đến cho mỹ thuật Việt Nam (chủ yếu từ khi thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương (1925)) hai chiều kích (dimensions) mới:
- Kỹ thuật sơn dầu
- Luật viễn cận (và tính khoa học, duy lý, bổ sung cho chất trữ tình đượm màu tâm linh (spiritual) vốn có).
Điều đáng chú ý là mặc dầu không có bề dày truyền thống như điêu khắc, song kể từ khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, lại chính là hội họa chứ không phải điêu khắc trở thành ngành phát triển nhất và có những th