Các cuộc Thập tự chinh (bài 5)
Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba Thời gian: năm 1189-> 1192 Địa điểm: vùng Cận Đông ( Anatolia, Levant, Palestine ) Kết quả: Hiệp ước Ramla Jerusalem vẫn còn nằm trong sự kiểm soát của Hồi giáo Thập tự quân chiến thắng trong tất cả các cuộc đụng độ ...
Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba
Thời gian: năm 1189-> 1192
Địa điểm: vùng Cận Đông ( Anatolia, Levant, Palestine )
Kết quả: Hiệp ước Ramla
- Jerusalem vẫn còn nằm trong sự kiểm soát của Hồi giáo
- Thập tự quân chiến thắng trong tất cả các cuộc đụng độ quân sự
- Ý củng cố kiểm soát các cảng của Syria
- Người Hồi giáo cho phép người Thiên chúa giáo không vũ trang được hành hương vào Đất Thánh
Lãnh thổ thay đổi: Cyprus, Acre, Jaffa và phần lớn bờ biển Palestine nằm trong sự kiểm soát của Thập tự quân
Lực lượng đôi bên
Quân Thập tự chinh
- Vương quốc JerusalemVương quốc Anh
- Hiệp sĩ Templar
- Hiệp sĩ Teutonic
- Hiệp sĩ Hospitaller
- Vương quốc của Pháp
- Blois
- Đế quốc La Mã Thần thánh
- Swabia
- Áo
- Montferrat
Vương quốc Hungary
Chỉ huy của quân Thập tự chinh
- Richard I của Anh
- Guy của Lusignan – Jerusalem
- Henry II của Champagne – Jerusalem
- Robert de Sable – Hiệp sĩ Templar
- Meister Sibrand – Hiệp sĩ Teutonic
- Garnier de Nablus – Hiệp sĩ Hospitaller
- Balian của Ibelin – Jerusalem
- Philip II của Pháp
- Theobald V của Blois
- Frederick I – Đế quốc La Mã Thần thánh
- Fredrick VI của Swabia
- Leopold V của Áo
- Conrad của Montferrat
Géza của Hungary
Lực lượng của quân Thập tự chinh
Anh: 8.000 người
Pháp: 2.000 người
Đức: 20.000 người ( có nguồn tin lên đến 100.000)
Người Saracens và đồng minh
- Ayyubids
- Zengids
- Đế quốc Seljuk
Đế quốc Byzantine
Vương quốc Sicilia
Chỉ huy của người Saracens và đồng minh
- Saladin – Ayyubid
- Kilij Arslan II – Đế quốc Seljuk
- Isaac II Angelus – Đế quốc Byzantine
- Isaac Komnenos – Đế quốc Byzantine
- Tancred của Sicily
Lực lượng người Saracens và đồng minh
Không có thông tin chi tiết
Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba ( năm 1189-1192), cũng được gọi là Thập tự chinh của các nhà vua, là một nỗ lực của các nhà lãnh đạo châu Âu để chiếm lại các Đất Thánh từ Saladin (Salah ad-Din Yusuf ibn Ayyub). Đó là phần lớn thành công, nhưng đã giảm ngắn-mục tiêu cuối cùng của mình trong cuộc tái chiếm Jerusalem.
Sau sự thất bại của cuộc Thập tự chinh thứ hai, triều đình Zengid kiểm soát một Syria thống nhất và tham gia vào các cuộc xung đột với triều Fatimid cai trị Ai Cập, kết quả cuối cùng của cuộc chiến dẫn đến việc thống nhất các lãnh thổ Ai Cập và Syria dưới sự chỉ huy của Saladin, người lãnh đạo phong trào Thánh chiến và quyết tâm đánh đổ các Thành bang Kitô giáo để chiếm lại Jerusalem vào năm 1187. Bị thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành tôn giáo, Henry II của Anh và Philip II của Pháp đã chấm dứt các cuộc xung đột của họ để bắt đầu lại một cuộc thập tự chinh mới (mặc dù Henry II đã chết vào năm 1189 và quân Thập tự chinh của Anh được Richard Lionheart chỉ huy thay thế). Hoàng đế La Mã Thánh Thần Frederick Barbarossa vốn đã cao tuổi đáp lại lời kêu gọi bằng cách huy động một đội quân lớn và dẫn đầu nó đến vùng Anatolia, nhưng ông đã bị chết đuối trước khi đến được vùng Đất Thánh. Rất nhiều người trong đội quân của ông đã không còn động lực và quyết định quay về nhà.
Sau khi đuổi người Hồi giáo ra khỏi Acre, lực lượng Thiên chúa giáo đã tranh chấp nhau về chiến lợi phẩm của cuộc chiến; vì thất vọng với Richard, Leopold V của Áo-người thừa kế của Frederick và Philip đã rời Đất Thánh vào tháng 8 năm 1191. Saladin đã thất bại trong mọi cuộc đụng độ quân sự trước Richard và Richard đã chiếm thêm được một số thành phố cứ điểm quan trọng ven biển. Tuy nhiên, vào ngày 02 tháng 9 năm 1192, Richard đã ký một hiệp ước với Saladin trong đó nói rằng Jerusalem sẽ vẫn thuộc người Hồi giáo kiểm soát, nhưng người Thiên chúa giáo hành hương không vũ trang được cho phép đến tham quan thành phố và Richard rời Đất Thánh vào ngày 9. Những thành công của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba cho phép quân Thập tự chinh duy trì một vương quốc lớn có trụ sở tại Cyprus và bờ biển Syria. Nhưng sự thất bại của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba trong việc tái chiếm Jerusalem đã dẫn đến việc kêu gọi một cuộc Thập tự chinh lần thứ tư sáu năm sau đó.
Tóm tắt bối cảnh
Người Hồi giáo thống nhất đất nước: Sau sự thất bại của cuộc Thập tự chinh lần thứ hai, Nur ad-Din Zangi đã kiểm soát Damascus và thống nhất Syria.
Cuộc chinh phục của Saladin: Saladin là người lãnh đạo cuộc thánh chiến chống lại quân Thập tự chinh và cũng là người trở thành vua của cả Ai Cập và Syria và sáng lập ra triều đại Ayyubid.
Sự sụp đổ của Vương quốc Jerusalem: Do Guy Lusignan-vua của Jerusalem đã không nghe lời khuyên của Raymond xứ Tripoli mà mang quân đi giải vây cho Tiberias dẫn đến quân Thập tự chinh bị thất bại và hoàn toàn tê liệt tại trận Hattin, hậu quả gần của nó là sự sụp đổ của vương quốc Jerusalem và hàng loạt các thành phố khác của quân Thập tự chinh trong năm 1087.
Đến cuối năm 1089, Saladin chiếm được Acre và Jerusalem. Giáo hoàng Urban III được cho là đã bị chết vì đau tim khi nghe tin về sự sụp đổ này. Tuy nhiên thì tại thời điểm xảy ra cái chết của ông, tin tức về việc Jerusalem thất thủ vẫn chưa thể đến được tai của ông ta, mặc dù ông đã biết về kết quả của trận chiến Hattin và sự sụp đổ của Acre.
Chuẩn bị
Đức Giáo Hoàng mới-Gregory VIII tuyên bố rằng việc chiếm Jerusalem là hình phạt cho tội lỗi của người Kitô hữu trên khắp châu Âu. Đây là một lời kêu gọi cho một cuộc thập tự chinh mới đến Đất Thánh. Henry II của Anh và Philip II của Pháp đã kết thúc cuộc chiến tranh giữa họ với nhau và thậm chí đã ra một sắc lệnh thuế mới ” thuế thập phân Saladin ” đánh vào các công dân của họ để tài trợ cho cuộc Thập tự chinh. Tại Anh, Baldwin của Exeter, Tổng-giám-mục Canterbury, đã thực hiện một chuyến đi tới xứ Wales để thuyết phục 3.000 binh lính mang chiếc chữ thập ( dụ dỗ họ tham gia cuộc Thập tự chinh), chuyến đi này được ghi lại trong quấn hành trình của Giraldus Cambrensis.
Chiến dịch của Barbarossa
Hoàng đế cao tuổi của Đế quốc La Mã Thánh Thần Frederick Barbarossa đáp lại lời kêu gọi này ngay lập tức. Ông đã nhận chiếc Thánh Giá tại tòa nhà thờ chính ở Mainz vào ngày 27 tháng 3 năm 1188 và là người đầu tiên khởi hành để đến về phía vùng Đất Thánh vào tháng 5 năm 1189 với một đội quân gồm khoảng 100.000 người, bao gồm 20.000 hiệp sĩ. Tuy nhiên, một số sử gia tin rằng đây là một con số cường điệu và rằng con số thực có thể chỉ lên đến hơn 15.000 người, bao gồm 3.000 hiệp sĩ. Một đội quân khoảng 2.000 người được dẫn đầu bởi Géza-hoàng tử Hungary, em trai của vua Béla III của Hungary cũng đi cùng với Barbarossa để đến Đất Thánh.
Hoàng đế Byzantine Isaac II Angelus đã thực hiện một liên minh bí mật với Saladin để cản trở bước tiến của Frederick để đổi lấy sự an toàn của Đế quốc của mình. Trong khi đó, quốc vương Hồi giáo Rum hứa cho Frederick hành quân an toàn qua vùng Anatolia, nhưng sau khi phải chịu nhiều cuộc tập kích Frederick đã mất kiên nhẫn và vào ngày 18 tháng 5, 1190, quân đội Đức đã công chiếm Iconium, thủ đô của Vương quốc Hồi giáo của Rum. Ngày 10 tháng 6 năm 1190 con ngựa nhỏ của Frederick đã trượt ngã trong khi qua sông Saleph và hất ông ta vào các tảng đá. Sau đó ông bị chết đuối trên con sông này. Sau đó, phần lớn quân đội của ông đã trở về Đức để tham dự đoán cuộc bầu chọn Hoàng đế sắp tới. Frederick xứ Swabia-con trai của ông ta tiếp tục dẫn đầu khoảng 5000 người còn lại 5.000 đến Antioch. Ở đó, cơ thể của vị hoàng đế đã được đun sôi để loại bỏ phần xác thịt-phần này được chôn tại nhà thờ Thánh Peter, bộ xương của ông đã được đặt trong một cái túi để tiếp tục cuộc thánh chiến. Tuy nhiên tại Antioch thì quân Đức tiếp tục bị hao hụt bởi dịch sốt. Frederick Trẻ tuổi ( vì bố ông ta cũng tên là Frederick ) đã phải yêu cầu sự hỗ trợ của người thân tộc ông là Conrad của Montferrat để đưa ông đến Acre một cách an toàn bằng cách vượt qua Tyre, nơi xương cốt của ông cha được chôn cất ở đó.
Cuộc khởi hành của Richard và Philip
Henry II của Anh quốc qua đời vào ngày 06 tháng 7 1189 sau khi phải chịu một thất bại trước con trai ông-Richard I (Lionheart) và Philip II. Richard thừa kế ngôi vua và ngay lập tức bắt đầu gây quỹ cho cuộc thập tự chinh này. Trong tháng bảy năm 1190, Richard và Philip đã cùng khởi hành từ Marseille, Pháp đến Sicily. Philip II đã thuê một đội tầu vận tải của người Genova để vận chuyển quân đội của mình trong đó bao gồm 650 hiệp sĩ, 1.300 ngựa chiến và 1.300 hộ sỹ đến Đất Thánh.
William II của Sicily đã chết vào năm trước đó và được kế nhiệm bởi Tancred, người đã tống Joan của Anh quốc- vợ của William và cũng là em gái của Richard vào tù. Richard ra tay can thiệp và chiếm được Messina-thủ đô của Sicily vào ngày 04 tháng 10 năm 1190 và Joan đã được phóng thích. Richard và Philip lại có vấn đề về cuộc hôn nhân của Richard, bởi vì ông này ( Richard ) đã quyết định kết hôn với Berengaria của Navarre và phá vỡ lời hứa hôn từ lâu của mình với Alys-em gái cùng bố khác mẹ của Philip. Philip rời Sicily và đi thẳng tới Trung Đông vào ngày 30 tháng Ba năm 1191 và đến Tyre vào giữa tháng. Ông tham gia vào cuộc bao vây Acre vào ngày 20 tháng 5. Richard đã không khởi hành từ Sicily cho đến ngày 10 tháng 4 năm đó.
Ngay sau khi khởi hành từ Sicily, Hạm đội gồm chiếc 100 tàu của Richard (chở 8.000 quân) đã bị tấn công bởi một cơn bão mạnh. Một số tàu bị mắc cạn, trong đó có một chiếc chở Joan và Berengaria-vị hôn thê mới của ông ta và một lượng lớn các kho báu được tích lũy để chi dùng cho cuộc thập tự chinh này. Họ đã ngay lập tức phát hiện ra rằng Isaac Dukas Comnenus của Síp đã thu giữ kho báu này. Những phụ nữ trẻ thì không bị hề hấn gì. Richard tiến vào Limassol vào ngày 6 và gặp Isaac,ông này đã ngay lập tức đồng ý trả lại đồ đạc cho Richard và cũng gửi ké 500 binh sĩ của ông đến vùng Đất Thánh. Sau khi trở lại pháo đài Famagusta của ông, Isaac đã phá vỡ lời tuyên thệ của ông về lòng hiếu và ra một mệnh lệnh bắt Richard phải rời khỏi hòn đảo này. Sự kiêu ngạo của Isaac khiến Richard nổi giận và tiến hành chinh phục hòn đảo này trong vài ngày sau đó ông tiếp tục hành trình đến Đất Thánh và tham gia vào cuộc bao vây Acre.
Cuộc bao vây Acre
Cuộc vây hãm Acre là một trong những cuộc đối đầu đầu tiên của cuộc thập tự chinh lần thứ 3, kéo dài từ 28 tháng tám năm 1189 cho đến ngày 12 tháng 7 1191, và lần đầu tiên trong lịch sử mà vị vua của Jerusalem bị ép buộc phải đích thân đứng nhìn công cuộc bảo vệ Đất Thánh. Nó cũng là một trong những sự kiện đẫm máu nhất toàn bộ của thời kỳ của các cuộc thập tự chinh của giai cấp thống trị người Kitô giáo ở phương đông.
Bối cảnh
Sau khi Saladin đánh bại quân Thập tự chinh ở trận Hattin vào ngày 04 tháng 7 năm 1187, ông ta đã chinh phục một phần lớn Vương quốc Jerusalem trong đó có cả thành phố Acre với một sự đề kháng nhỏ và ngày 2 tháng 10 ông chiếm nốt Jerusalem. Sau đó Thập tự quân chỉ kiểm soát Tyre, Tripoli và Antioch, những nơi này đã bị Saladin tấn công trong năm 1188 mặc dù ông này đã không thu được thành công. Tin tức về sự sụp đổ của Jerusalem và Palestine đã gây sốc cho châu Âu và ngay lập tức đã có những lời kêu gọi về một cuộc Thập tự chinh mới bởi Giáo hoàng Gregory VIII vào tháng 10 năm 1187 và được tiếp tục bởi người kế nhiệm Đức Giáo Hoàng Clement III.
Tyre
Trong Tyre, Conrad của Montferrat đã cố thủ thành công trước các đợt tấn công của Saladin vào cuối năm 1187. Sau đó nhà vua hướng sự chú ý của mình vào các mục tiêu khác, nhưng sau đó đã cố gắng thương lượng một hiệp ước để thành phố đầu hàng, nhưng trong giữa năm 1188 lực lượng tăng viện đầu tiên từ châu Âu đến Tyre bằng đường biển. Cũng với những cam kết khác theo các điều khoản của hiệp ước Saladin sẽ phải phóng thích vua Guy, người mà ông đã bắt tù binh tại Hattin ( để đổi lấy việc bàn giao thành phố, nhưng mặc dù quân Kitô giáo đã có tiếp viện và không giao thành phố nữa ông vẫn cho thả Guy). Việc này đã leo thang xung đột giữa Guy-người đã có lỗi trong thảm họa của Hattin và Conrad-người đã bảo vệ thành công Tyre khỏi cuộc xâm lược tiếp theo. Guy đã được phóng thích và xuất hiện trước Tyre, nhưng Conrad đã không để cho ông ta vào thành phố và tuyên bố rằng là ông sẽ quản lý nó cho đến khi các vị vua khác sẽ đến từ trên biển để nhận bàn giao.Đây là điều đúng theo quy định trong di chúc của Baldwin IV: ông (Conrad của Montferrat) là người bà con gần nhất về đằng nội của Baldwin V. Guy bỏ đi trước khi xuất hiện một lần nữa ở bên ngoài Tyre với vợ của mình là nữ hoàng Sibylla, người sở hữu vương quốc này trên phương diện luật pháp, nhưng ông lại bị từ chối bởi Conrad và ông đã phải hạ trại của mình ở bên ngoài cổng của thành phố.
Vào cuối mùa xuân năm 1188, William II của Sicily đã gửi tới một đội tàu với 200 hiệp sĩ, họ đến vào ngày 06 Tháng Tư năm 1189, Ubaldo Lanfranchi, Đức Tổng-giám-mục của Pisa cụng đến với 52 tàu. Guy đã thành công trong việc thuyết phục hai đội quân này về phe mình. Trong tháng Tám, Conrad lại từ chối không cho ông ta tiến vào thành phố, vì vậy ông này ( Guy ) đã cho dỡ trại và tiến về phía nam để tấn công Acre, ông và quân đội của mình hành quân dọc theo bờ biển, trong khi quân đến từ Pisans và Sicilia đi bằng đường biển. Guy rất cần một căn cứ vững chắc để từ đó ông có thể tổ chức một cuộc phản công vào Saladin và kể từ lúc ông không thể lấy lại Tyre, ông đã hướng sự quan tâm của mình vào Acre-50 km ( 31 dặm ) về phía nam ( của Tyre). Vì vậy, Guy và Conrad lại trở thành những đồng minh để chống lại Saladin.
Acre
Cảng Acre nằm trên một bán đảo ở Vịnh Haifa. Phía Đông của phần cũ của thành phố là cảng và nó được bảo vệ để phòng thủ từ biển, trong khi về phía tây và phía nam bờ biển được bảo vệ bởi một bức tường thành kiên cố. Bán đảo này được bảo vệ về phía đất liền bằng hai công sự được gia cố bằng các tháp canh. Đơn vị đồn trú người Hồi giáo của thành phố có thể đông gấp hai lần so với quân đội do Guy, người đến ngày 28 tháng 8, 1189. Ông này đã cố gắng để tấn công bất ngờ các đơn vị đồn trú bằng một cuộc xung phong vào các bức tường, nhưng chiến thuật này đã không thành công và do đó Guy cho lập doanh trại của ông ở bên ngoài thành phố để chờ quân tiếp viện, lực lượng này bắt đầu đến đó bằng đường biển một vài ngày sau đó. Một hạm đội Đan Mạch và Frisian sẽ thay thế cho người Sicilia, họ đã rút lui khi nghe tin tức về cái chết của William II. binh sĩ Pháp và Flemish cũng đã đến dưới sự chỉ huy của James của Avesnes, Henry I của Bar, Andrew của Brienne, Robert II của Dreux, và Philip của Dreux-anh trai của ông ( Guy ), Giám mục của Beauvais. Binh sỹ người Đức dưới sự chỉ huy của Margrave Louis III của Thuringia và Otto I của Guelders và người Ý dưới sự chỉ huy của Đức-Tổng-Giám mục Gerhard của Ravenna và Giám mục của Verona cũng đã đến. Louis của Thuringia đã có thể thuyết phục Conrad, anh em họ đằng mẹ của ông đưa quân từ Tyre đến. Khi Saladin được thông báo về việc hội binh này, ông đã tập hợp quân đội và hành quân đến Acre, nơi ông đã tấn công không thành công vào doanh trại của Guy vào ngày 15.
Trận Acre
Ngày 04 Tháng 10 năm 1189, Saladin di chuyển về phía đông của thành phố và đối mặt với doanh trại của Guy. Quân Thập tự chinh (trong đó bao gồm 7.000 bộ binh và 400 kỵ binh) không kể lực lượng của Guy đã dàn trận trước lực lượng của Saladin. Quân đội Thiên chúa giáo bao gồm các lãnh chúa phong kiến của vương quốc này, nhiều đội quân Thập tự chinh nhỏ đến từ châu Âu và các thành viên của các Tổ chức Hiệp sỹ thánh chiến, quân đội Hồi giáo bao gồm quân đội từ Ai Cập, Turkestan, Syria và Lưỡng Hà.
Người Hồi giáo dàn một đội hình bán nguyệt về phía đông của thành phố và quay mặt về phía Acre. Quân Thập tự chinh đóng ở giữa với xạ thủ bắn nỏ trang bị nhẹ ở dòng đầu tiên và kỵ binh nặng trong dòng thứ hai. Tại trận Arsuf sau đó các Kitô hữu đã chiến đấu một cách mạch lạc, ở đây các trận chiến bắt đầu với một chiến tách biệt giữa các Templar và cánh phải của Saladin. Các hiệp sỹ Templar đã đánh bại đối phương làm cho họ phải điều quân tiếp viện từ các phần khác trong đội hình của họ. Do đó cánh trung quân của Kitô giáo có thể tiến lên một cách ổn định để tấn công vào cánh quân trung tâm của Saladin, các xạ thủ bắn nỏ liên tục xạ kích để mở đường cho một cuộc tấn công bằng bộ binh và nó đã gặp không sức đề kháng quá lớn. Cánh quân trung tâm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Saladin và cánh phải đã phải bỏ chạy.
Tuy nhiên khi những kẻ thắng trận tản mát ra để cướp bóc chiến lợi phẩm. Saladinđã cho tập hợp người của mình và khi các Kitô hữu bắt đầu nghỉ ngơi với đống chiến lợi phẩm của họ, thì ông đã tung các kỵ binh nhẹ của mình ra để tấn công những kẻ đang thỏa mãn chiến thắng. Người Kitô giáo kháng cự một cách rời rạc và người Thổ Nhĩ Kỳ tàn sát những kẻ đào tẩu cho đến khi bị chặn lại bởi các đội quân mới xuất hiện từ sườn bên phải của người Kitô giáo. Vào lúc này của cuộc chiến, lực lượng dự bị dưới sự chỉ huy của Guy đang cầm cự với người Saracens ở Acre, cũng phải rút lui và do đó khoảng 5.000 người Hồi giáo phá vòng vây ra khỏi thành phố và tiến về phía Bắc, rồi họ gia nhập với cánh phải của Saladin và đánh ồ ạt vào nhóm Hiệp sỹ Templar, những người bị chặn mất đường rút lui của họ. Gerard de Ridefort-Đại thủ lĩnh của Templar đã bị giết. Andrew của Brienne cũng thiệt mạng và Conrad đã được giải cứu bởi Guy. Cuối cùng thì quân Thập tự chinh cũng đẩy lui được đội quân phá vây, Thương vong của phe Kitô giáo trong dao động khoảng từ 4.000 -> 5.000 trong tổng số 10.000 người. Saladin không thể đẩy họ trở lại vì không thể triển khai một cuộc tấn công dữ dội nữa và chiến thắng của ông là vẫn chưa hoàn toàn.
Cuộc bao vây kép
Trong mùa thu, nhiều quân Thập tự chinh châu Âu đã kéo đến, cho phép Guy phong tỏa Acre bằng đường bộ. Tin tức về sự xuất hiện sắp xảy ra của Frederick I, Hoàng đế La Mã Thần thánh đã đến tai Thập tự chinh, không chỉ làm tăng tinh thần chiến đấu của quân Thiên Chúa Giáo mà còn buộc Saladin phải mang đến nhiều binh sĩ hơn nữa để vây cả thành phố và doanh trại của quân Thập tự chinh trong hai cuộc vây hãm riêng biệt.
15 tháng trôi qua mà không có hành động lớn giữa hai bên. Ngày 31 tháng 10, 50 chiếc Galley của người Hồi giáo đã phá vỡ phong tỏa đường biển và vượt qua vòng vây của người Cơ Đốc giáo để cung cấp cho thành phố thực phẩm và vũ khí. Ngày 26, một hạm đội Ai Cập xuất hiện để thiết lập lại quyền kiểm soát khu cảng và đường vào nó. Trong tháng 3 năm 1190, khi thời tiết trở nên tốt hơn, Conrad đi tới Tyre trên tàu riêng của mình và sớm trở lại với các nguồn cung cấp cho quân Thập tự chinh, giúp họ chiến đấu chống lại hạm đội Ai Cập từ trên bờ. Các vật liệu xây dựng đưa tới bởi Conrad đã được dùng để chế tạo các máy móc và thiết bị bao vây, mặc dù những máy móc này đã bị mất khi quân Thập tự chinh cố gắng để tấn công thành phố vào tháng 5.
Ngày 19 tháng 5, Saladin đã tiếp tục tăng cường quân đội của mình trong những tháng trước đó, đã bắt đầu một cuộc tấn công vào doanh trại của quân Thiên chúa giáo, cuộc tấn công này kéo dài tám ngày trước khi nó bị đẩy lùi. Ngày 25 tháng 7, bất tuân mệnh lệnh chỉ huy của họ, binh lính người Thiên Chúa giáo đã đổ ra và tấn công vào bên sườn phải của Saladin và họ bị đánh bại. Có thêm quân tiếp viện từ Pháp tới doanh trại của Thập tự quân trong mùa hè do Henry II của Champagne, Theobald V của Blois, Stephen I của Sancerre, Ralph của Clermont, John của Fontigny, Alain của Saint-Valéry, Đức Tổng-Giám-Mục của Besançon, Giám mục của Blois và Giám mục của Toul. Frederick VI-Công tước của Swabia đến vào đầu tháng 10 với phần còn lại của quân đội của cha mình ( Frederick Barbarossa ) sau khi hoàng đế bị chết đuối tại sông Saleph vào ngày 10 tháng Sáu và ngay sau đó quân Thập tự chinh người Anh dưới sự chỉ huy của Baldwin Exeter, Tổng-giám mục-Canterbury. Trong tháng 10, Bá tước của Bar cũng đã đến và ngườiKitô hữu đã có một bước đột phá qua Haifa và cố gắng này đã cho phép họ mang được nhiều thực phẩm hơn để đến doanh trại của quân Thiên Chúa giáo tại Acre.
Sinh hoạt ở trong thành phố ( Hồi giáo) và doanh trại của quân Thiên Chúa giáo tại Acre nhanh chóng trở nên khó khăn sau khi họ bị phong tỏa bởi Saladin. Thực phẩm vẫn còn hạn chế, nguồn nước cung cấp cho người Thiên Chúa giáo đã trở nên bị ô nhiễm bởi xác chết động vật và con người ( quân Hồi giáo hạ độc các nguồn nước bằng xác chết của động vật và con người ) và các dịch bệnh lây lan nhanh chóng bắt đầu. Bị lây bệnh sốt rét nên Louis của Thuringia đã phải trở về nhà khi người Pháp đến và ông này đã chết ở Síp trên đường trở lại Acre vào ngày 16. Ở khoảng cuối tháng Bảy đến tháng Mười, vợ của Guy-Nữ hoàng Sibylla đã chết và một vài ngày sau đó thì cả hai cô con gái của họ-Alais và Marie đều chết hết. Vì cái chết của nữ hoàng, Guy đã bị mất quyền đòi ngai vàng của Jerusalem như là người thừa kế hợp pháp của Sibylla. người thừa kế chính của bà ta lúc này chính là cô em gái cùng cha khác mẹ-Isabella của Jerusalem. Tuy nhiên Guy đã từ chối ủng hộ Isabella.
Các nhà quý tộc của vương quốc này ( tàn dư phe đả.ng của Raymond ) đã sử dụng cơ hội này để truất ngôi của Guy và sắp xếp cuộc hôn nhân của Conrad với Isabella. Tuy nhiên, Isabella đã kết hôn với Humphrey IV của Toron và tình trạng hôn nhân của Conrad là không chắc chắn (ông này đã cưới một công chúa Byzantine vào năm 1187, vài tháng trước khi đến Tyre, cô ta đã bãi hôn khi ông ta vắng mặt) . Ngoài ra, người chồng đầu tiên của Sibylla lại là William Longsword-anh trai của Conrad, một cuộc hôn nhân giữa Isabella và Conrad có thể bị coi là “loạn luân”. Giáo trưởng Eraclius bị bệnh, và Baldwin- của Exeter, người đại diện được chỉ định của ông lại đột ngột qua đời vào ngày 19. Vì vậy đích thân Đức Tổng-Giám-Mục Ubaldo Lanfranchi của Pisa và cũng là người thừa kế của giáo hoàng, cùng với Philip-Đức Giám mục của Beauvais đã đồng ý để Isabella ly hôn với Humphrey vào ngày 24. Conrad rút về Tyre cùng với Isabella nhưng Guy vẫn khăng khăng cho rằng ông ta vẫn là vua của Jerusalem: tranh chấp này đã không được giải quyết triệt để cho đến khi có một cuộc bầu cử vào năm 1192.
Quân đội của Saladin lúc này đã quá đông nên quân Thập tự chinh không thể tiến hành bất kỳ cuộc tăng viện nào trên bộ đất và mùa đông có nghĩa là không có nguồn cung cấp hoặc tiếp viện bằng đường biển. Trong doanh trại Kitô giáo, các thủ lĩnh bắt đầu phải chống chọi với dịch bệnh. Theobald của Blois và Stephen của Sancerre đã chết và Frederick của Swabia cũng đã chết vào ngày 20 tháng 1 năm 1191. Henry của Champagne đã phải nằm dài vì bệnh tật trong nhiều tuần trước khi hồi phục. Giáo Trưởng Eraclius cũng đã chết trong cuộc bao vây nhưng rõ vào ngày tháng nào.
Ngày 31 tháng 12, một nỗ lực khác để tấn các bức tường thành đã không thành công và vào ngày 06 tháng 1 năm 1191 một phần bức tường sụp đổ dẫn đến việc người Kitô giáo đã tiến hành nhiều nỗ lực để đè bẹp đơn vị đồn trú Hồi giáo ở trong thành phố. Ngày 13 tháng 2, Saladin thành công trong việc phá vỡ đội hình của người Thiên chúa giáo và vào được thành phố để ông có thể thay thế những người lính phòng thủ đã kiệt sức bằng một đơn vị đồn trú mới nếu không thì có thể toàn bộ lực lượng đồn trú cũ đã chết vì bệnh dịch. Conrad của Montferrat cố gắng tiến hành một cuộc tấn công bằng đường biển vào chiếc tháp Flies nhưng gặp bất lợi về gió và vỉa đá ngầm bên dưới bề mặt nước đã ngăn cản không cho các con tàu của ông có thể tiến vào đủ gần để gây thiệt hại đáng kể. Tuy nhiên trong tháng ba khi thời tiết trở nên tốt hơn và các con tàu lại một lần nữa có thể cập bến và cho bốc dỡ vật tư lên bờ biển, người Kitô giáo lại một lần nữa tránh khỏi nguy cơ thất bại. Leopold V của Áo đến và nắm quyền kiểm soát lực lượng Thiên chúa giáo. Sự kiện các con tàu cập bờ cũng là những thông tin xấu cho Saladin. Ông đã bỏ lỡ cơ hội của mình để đè bẹp số Kitô hữu còn lại và bây giờ vua Richard của Anh quốc cùng với vua Philip của Pháp quốc đang trên đường đến Đất Thánh, mỗi người đi kèm với một đội quân của mình. Cơ hội để chiến thắng của Saladin là đã bị tuột mất.
Các vị vua ở Acre
Philip đến ngày 20 Tháng Tư và Richard ngày 08 tháng 6 năm 1191 sau khi ông tranh thủ cơ hội để chinh phục đảo Síp trên đường đi. Richard I đến với một hạm đội của Anh gồm 100 tàu ( chở 8.000 quân), trong khi Philip II đã đến với một hạm đội của Genova dưới sự chỉ huy của Simone Doria. Philip đã sử dụng thời gian chờ đợi Richard để chế tạo những chiếc tháp công thành và bây giờ những vị vua hùng mạnh nhất của châu Âu đã xuất hiện, và lúc này chỉ có thành phố chứ không phải là doanh trại của người Kitô giáo bị bao vây. Khi Richard đến, ông đã tìm cách đàn phán với Saladin và một cuộc ngừng bắn ba ngày đã được thoả thuận để cuộc đàn phán có thể được tiến hành. Tuy nhiên, cả Richard và Philip đều bị ốm và cuộc đàn phán đã không xảy ra.
Các máy công thành đã phá được những lỗ thủng ở bức tường của Acre, nhưng mỗi lần quân Thiên chúa giáo tổ chức một đợt công thành thì họ lại phải chống trả lại một cuộc tấn công dữ dội từ đội quân của Saladin và nó tạo cho đơn vị đồn trú của Acre có cơ hội để sửa chữa những thiệt hại trong khi các Kitô hữu phải phân tâm để đối phó với quân Hồi giáo ở phía ngoài. Ngày 01 tháng 7, Philip của Alsace đã chết trong doanh trại, đây là một cuộc khủng hoảng lớn cho vua Pháp, vì kể từ khi Philip-Bá tước của Flanders và Vermandois và cũng là một trong những người quan trọng nhất trong đoàn tùy tùng của nhà vua chết đi thì ông này đã không còn người thừa kế và việc giải quyết thừa kế của ông là một vấn đề khẩn cấp nhưng rất khó khăn vì nhà vua đang ở rất rất xa nước Pháp.
Vào ngày 03 tháng 7, một cuộc bắn phá đủ dữ dội để tạo ra lỗ thủng trong các bức tường, nhưng các cuộc tấn công của quân Thiên chúa giáo vẫn bị đẩy lùi. Ngày 04 tháng 7, thành phố đề nghị xin đầu hàng, nhưng Richard từ chối các điều kiện của họ. thời gian này Saladin không tiến hành được một cuộc tấn công quy mô lớn nào vào doanh trại của quân Thiên chúa giáo. Ngày 07 tháng bảy, thành phố đã gửi một sứ giả để yêu cầu Saladin trợ giúp và đe dọa sẽ đầu hàng nếu ông ta không giúp đỡ. Ngày 11 tháng 7, đã xảy trận chiến cuối cùng và vào ngày 12 thành phố lại một lần nữa đưa ra điều kiện xin đầu hàng cho quân Thập tự chinh và lần này họ đã được chấp nhận. Conrad của Montferrat đã trở về Tyre vì Richard đã ủng hộ cho Guy của Lusigna làm vua của Jerusalem, và chiến dịch được tạm dừng theo yêu cầu đàn phán của Saladin. Saladin đã không đích thân tham gia vào các cuộc đàm phán, nhưng đã chấp nhận cho thành phố được đầu hàng. Quân Kitô giáo tiến vào thành phố và đơn vị đồn trú Hồi giáo đã bị tống giam. Conrad giơ cao ngọn cờ của Vương quốc Jerusalem và sau đó là cờ của Pháp, Anh và Áo trong thành phố.
Leopold của Áo rời khỏi Acre ngay sau khi chiếm được thành phố sau khi có một cuộc cãi vã với Richard: là người lãnh đạo còn sống sót của Đế quốc Đức hoàng, ông yêu cầu phải được đối xử ngang bằng với vị thế Philip và Richard nhưng đã bị từ chối và cờ hiệu của ông bị xé rách và ném xuống từ các thành lũy của Acre. Ngày 31 Tháng Bảy, Philip cũng trở về nhà để giải quyết việc thừa kế Vermandois và Flanders và chỉ còn Richard ở lại để phụ trách các lực lượng viễn chinh Thiên chúa giáo.
Việc hành quyết các tù nhân
Lúc Richard và Saladin để hoàn tất việc đầu hàng của thành phố. Lực lượng Kitô giáo bắt đầu xây dựng lại tuyến phòng thủ của Acre và Saladin thu tiền để trả cho các khoản chuộc binh lính đồn trú lúc này đang bị bỏ tù. Ngày 11 tháng 8, Saladin giao số tiền đầu tiên của ba lần thanh toán đã được lên kế hoạch và tiến hành trao đổi tù nhân, nhưng Richard lại từ chối điều này bởi vì các quý tộc Christian đã không được bao gồm trong cuộc trao đổi này và nó đã bị đổ vỡ rồi các cuộc đàm phán thêm nữa cũng không thành công. Richard cũng đã nhấn mạnh về việc bàn giao này Philip cũng phải chia sẻ với các tù nhân qua người mà nhà vua Pháp đã ủy quyền, đó là Conrad của Montferrat người thân tộc của ông. Conrad miễn cưỡng đồng ý, dưới áp lực của Richard. Ngày 20 tháng tám, Richard nghĩ rằng Saladin đã bị trì hoãn quá lâu và mang 2700 tù nhân Hồi giáo từ đơn vị đồn trú của Acre ra chặt đầu. Saladin phản ứng bằng cách hành động tương tự, hành hình tất cả các tù nhân Kitô giáo mà ông đã bắt. Ngày 22 Tháng Tám, Richard và quân đội của ông rời thành phố và nó được bàn giao tạm thời cho các quân viễn chinh của Bertram de Verdun và Stephen de Lonchamp.
Hậu quả
Các đội quân Thập tự chinh đã hành quân về phía nam, với biển đến quyền và quân đội của Saladin sau họ lại của họ. Ngày 07 tháng chín, họ gặp nhau tại trận Arsuf, phía bắc của Jaffa, trong đó Saladin đã bị đánh bại. Richard bắt Jaffa vào ngày 10, nhưng vì lý do chiến lược quyết định không vây Jerusalem. Các tranh chấp về vương quyền của Jerusalem đã được giải quyết trong tháng 4 năm 1192, với cuộc bầu cử của Conrad của Montferrat, nhưng ông đã bị ám sát chỉ vài ngày sau chiến thắng của mình. Nữ hoàng Isabella mang thai đã được vội vã kết hôn và Philip cháu trai của Richard, Henry của Champagne.
Trận Arsuf
Ngày: 07 tháng 9 năm 1191
Địa điểm: Arsuf- Đất Thánh
Kết quả: Thập tự quân chiến thắngQuân Thập tự chinh: Quân Anh, Hiệp sĩ Templar, Hiệp sỹ Hospitaller. Chỉ huy Richard I của Anh quốc, Robert de sable – Templar, Garnier de Nablus – Hospitaller.Lực lượng: 20.000 người bao gồm: 14.000 bộ binh, 4.000 hiệp sĩ, 2.000 turcopoles ( cung kỵ và kỵ binh hạng nhẹ).Thiệt hại: 700 ngườiQuân Hồi giáo: Vương triều Ayyubids ( binh lính đến từ Thổ nhĩ kỳ, Syria, Ai Cập, Lưỡng Hà …).Chỉ huy: Saladin.Lực lượng: 20.000 kỵ binh, không rõ số lượng bộ binh.Thiệt hại: 7.000.
Trận Arsuf là một trận chiến của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, trong đó Richard I của Anh quốc đã đánh bại Saladin ở Arsuf. Sau một loạt các cuộc tấn công quấy rối bởi lực lượng của Saladin, trận chiến đã tham gia vào sáng ngày 07 Tháng 9 năm 1191. Lực lượng của Richard đã chống lại mọi nỗ lực để phá vỡ sự gắn kết trong đội hình của họ cho đến khi hàng ngũ của các Hiệp sỹ Hospitaller bị phá vỡ, ông tập hợp lại lực lượng của mình và dẫn họ tới chiến thắng.
Tiến về phía Nam từ Acre
Sau khi chiếm được Acre năm 1191, Richard đã phải chiến đấu theo kiểu hàng loạt các cuộc đụng độ với Saladin ( có khả năng là Saladin chiến đấu trên sân nhà và cóđông quân hơn nên dễ dàng hơn trong việc thay thế những người lính bị tử trận của mình hơn nên ông ta ưa cách đánh tiêu hao-và ông ta cũng chẳng muốn đối trận với quân địch có trang bị tốt hơn ), mà mục tiêu chính là để ngăn chặn sự tái chiếm Jerusalem. Biết rằng mình cần phải kiểm soát được hải cảng Jaffa trước khi thực hiện được một nỗ lực tấn công về Jerusalem, Richard bắt đầu hành quân dọc theo bờ biển từ Acre vào ngày tháng 8m 1191. Richard đã cố gắng chuẩn bị trước với sự chú ý tới mọi tiết. Ý thức được những bài học của thảm họa tại trận Hattin , ông biết rằng cái mà quân đội của ông cần nhất là nước và sự kiệt sức là nguy hiểm lớn nhất của họ. Mặc dù bị nhiều sức ép về thời gian, ông đã cho chỉ hành quân trong buổi sáng trước khi phải chịu cái nóng đỉnh cao trong ngày. Ông đã cho dừng lại nghỉ ngơi thường xuyên, luôn luôn ở bên cạnh các nguồn nước. Hạm đội khởi hành đi dọc theo bờ biển để cung cấp những hỗ trợ tức thì, đó là một nguồn cung cấp lương thực và nơi điều trị cho những người bị thương. Ý thức được sự nguy hiểm từ khả năng xuất hiện vào bất cứ lúc nào của đối phương cũng như kỹ năng tấn công đánh và rút ( hit-and-run) của họ, ông luôn tìm cách giữ đội hình các cột một cách chặt chẽ với một xương sống gồm mười hai đại đội kỵ binh, mỗi đại đội có khoảng một trăm hiệp sĩ. Lực lượng bộ binh hành quân tạo thành một cánh để hộ tống cho kỵ binh khỏi bị tấn công từ phía đất liền ( tức là 12 đại đội kỵ binh lần lượt nối đuôi nhau lập thành một cột sát mép bờ biển, lực lượng bộ binh lập thành một cột ở bên trái lực lượng kỵ binh để bảo vệ họ ). Bất chấp liên tục bị quấy rối bởi các cung thủ và tarantulas của Saladin vào ban đêm, chiến thuật của Richard vẫn đảm bảo tổ chức và kỷ luật của Thập tự quân vẫn được duy trì hoàn cảnh khó khăn nhất. Baha ad-Din ibn Shaddad, nhà sử gia Hồi giáo mô tả cuộc hành quân như sau:Người Hồi giáo bắn tên vào các bên sườn của họ, cố gắng để khuấy động họ phá vỡ hàng ngũ, nhưng họ vẫn kiểm soát được một cách kiên nhẫn đội hình của mình và tiếp tục hành quân, họ vẫn tiến binh một cách rất đều đặn cùng với các con tàu của họ lúc này di chuyển dọc theo bờ biển song song với họ ( vừa hỗ trợ vừa cung cấp bảo vệ từ phía biển cho lục quân ), cho đến khi họ kết thúc từng giai đoạn hành quân và hạ trại .
Phản ứng của Saladin
Khi quân Thập tự chinh đã hành quân đến phía bên kia của sông ở Caesarea, Saladin cũng tiến hành cách bố trí đội hình riêng của mình. Ông đã lên kế hoạch tung quân của mình qua các con đường La Mã cổ ở sâu bên trong vùng nội địa, cho phép ông ta có thể tấn công theo hướng nào có cơ hội thuận tiện nhất. Nhưng việc quân Thập tự chinh hành quân dọc theo ven biển đã bắt buộc ông phải theo tiến theo hướng song song với họ. Vào lúc bình minh lên, các cuộc tấn công quấy rối không có tác dụng như dự định; và chúng đã được đẩy mạnh cường độ và trở thành những trận chiến nhỏ trong quá trình hành quân. Khi quân đội của Richard tiến đến Caesarea vào ngày 30 tháng Tám, lực lượng bảo vệ phía sau ( hậu quân) được chỉ huy bởi Hugh III của Burgundy đã phải chịu các cuộc tấn công nghiêm trọng và nó bị cắt ra khỏi phần còn lại của quân đội trong một thời gian. Richard đã cố gắng để tập hợp toàn bộ đội quân trong khi các giáo sỹ đi cùng với họ hô to Sanctum Sepulchrum adjuva (“Thánh Sepulchre hãy trợ giúp chúng tôi!”).
Saladin, đánh giá sự tiến quân của đội hình của đối phương và ra quyết định tiến hành một cuộc tấn công ở Arsuf gần Jaffa, trong khi quân đội của ông phải đối mặt với quân Thập tự chinh ở phía tây và phía biển. Sườn phía bắc của ông được bảo vệ bởi các cánh rừng của Arsuf với con sông Rochetaillée và đầm lầy ở phía trước. Ở phía nam, sườn trái của ông đã được bảo vệ bằng một dải các ngọn đồi có cây cối rậm rạp, nó trải xuống chính những tàn tích của thành phố Arsuf. Kế hoạch là dử quân Thập tự chinh tiến vào sau một loạt những trận trá bại và tiêu diệt họ bằng một cuộc tổng tấn công khi mà thế trận của họ đã bị vỡ. Khoảng cách giữa những ngọn đồi của Arsuf và biển chỉ có hai dặm ( 3 km), làm cho Richard ít có khoảng không gian để cơ động, và hạn chế sức mạnh tổng lực của các hiệp sĩ được bọc thép dày. Saladin coi đây là cái bẫy hoàn hảo nhưng Richard đã nhanh chóng biến nó thành một cơ hội cho ông ta.
Trận đánh
Vào rạng sáng ngày 7 tháng 9 năm 1191, sứ giả của Richard đi đến các doanh trại và thông báo rằng trận chiến sẽ xảy gia ngày hôm đó. Các Hiệp sĩ Templar dưới sự chỉ huy của Robert de sable được lệnh phía trước, cùng với người Angevin và Bretons ( tiểu quốc thuộc Pháp), theo sau là Guy của Lusignan và Poitevins. Tiếp đến là những người Anglo-Norman và sau đó là những người Flemings dưới sự chỉ huy của James của Avesnes . Sau người Flemings là đến người Pháp và cuối cùng là Hiệp sĩ Cứu tế, đứng đầu là Fra Garnier de Nablus. Dưới sự lãnh đạo của Henry II của Champagne, một đội quân nhỏ đã được tách ra để trinh sát các ngọn đồi và một toán các hiệp sĩ dưới sự chỉ huy của Hugh của Burgundy được tách ra để đi chạy ngược chạy xuôi khắp các hàng quân để đảm bảo rằng họ giữ được tổ chức của thế trận.
Cuộc tấn công đầu tiên của người Saracen diễn ra vào lúc chín giờ sáng. Trong một nỗ lực để phá hủy sự gắn kết của đối phương và làm lung lay quyết tâm của họ, các cuộc tấn công dữ dội đã được kèm theo âm thanh khủng khiếp của tiếng chiêng trống và thanh la, tiếng kèn cùng với tiếng người la hét. QuấnItinerarium Regis Ricardi có ghi: “Vì vậy, người Thổ Nhĩ Kỳ đông một cách không kể xiết đổ vào quân đội của chúng ta từ mọi phía, từ hướng biển và từ đất liền. Lúc đó khoảng không gian xung quanh không rộng đến hai dặm (3 km), và dường như là không cái gì có thể tồn tại trước những đợt tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ “. Nhưng khi đợt tấn công này không có hiệu quả như mong muốn, nó được hướng sang bên cánh trái của quân Thập tự chinh và các Hiệp sỹ Hospitaller phải chịu áp lực lớn nhất. Từng bước từng bước một, các cuộc tấn công kéo sang phần còn lại của đội hình của Richard. Những cuộc tấn công diễn ra theo cùng một kiểu: người Bedouins và Nubians bắn tên và phóng lao vào đội hình của kẻ thù, trước khi cho phép các cung kỵ tiến lên và tấn công theo kiểu phi ngựa vòng quanh, một kỹ thuật được thực hành rất tốt của người châu Á. Các xạ thủ bắn nỏ của quân Thập tự chinh trả lời khi khả năng này là có thể, mặc dù nhiệm vụ chính của các quân Thập tự chinh chỉ đơn giản là để duy trì đội hình của họ khi đối mặt với các hành động khiêu khích. Tại một số vị trí dọc theo đội hình hình cột của Thập tự quân, hai đội quân đã tham gia cận chiến.
Các Hiệp sỹ Hospitaller phá vỡ hàng ngũ
Tất cả những nỗ lực tột bậc nhất của Saladin cũng không thể chia chia cắt đội hình hình cột của Thập tự quân hoặc ngăn chặn bước tiến của họ về hướng Arsuf. Richard được xác định là giữ vững các đội quân của mình lại với nhau, buộc đối phương phải lao vào như những con thiêu thân trong những cuộc tấn công lặp đi lặp lại, và rồi ông thấy rằng đây đúng là dịp để tung các hiệp sĩ của mình vào một cuộc tấn công tổng lực tập trung. Tuy nhiên lúc này vẫn tồn tại những rủi ro vì binh sỹ không chỉ hành quân dưới sự khiêu khích nghiêm trọng của đối phương mà họ còn bị nắng nóng và khát. Và tình hình cũng rất là nghiêm trọng vì người Saracens đã giết chết rất nhiều ngựa đến mức một số những hiệp sĩ riêng của Richard bắt đầu tự hỏi xem liệu có thể triển khai một cuộc tấn công vào lúc này.
Vào lúc mà lực lượng tiên phong tiến vào được vào Arsuf vào giữa buổi chiều, các xạ thủ bắn nỏ của Hospitaller ở phía hậu quân đã vừa nạp tên vừa bắn lại vừa đi giật lùi. Chắc chắn rằng chiến đấu theo kiểu này làm cho họ bị mất đội hình và đối phương đã nhanh chóng tận dụng cơ hội này và di chuyển vào khoảng trống đó. Đối với quân Thập tự chinh, trận Arsuf lúc này đã bước vào một giai đoạn quan trọng. Garnier de Nablus yêu cầu Richard cho phép tấn công. Nhưng ông này từ chối và vẫn ra lệnh duy trì vị trí chung. Mệnh lệnh này là quá với sức mà các Hiệp sỹ Hospitaller có thể chịu đựng. Ông ta (Garnier de Nablus ) rút kiếm tấn công vào người Saracen sau một tiếng hô Thánh George! và cuấn theo sau một cách nhanh chóng tất cả các phần còn lại của hiệp sĩ của mình rồi một số người Pháp cũng bị cuấn theo họ.
Phản ứng của Richard
Hành động nông nổi của các Hiệp sỹ Hospitaller có thể làm cho toàn bộ chiến thuật của Richard bị phá sản. Nhưng rất may là khi mà Garnier de Nablus bắt đầu cuộc tấn công của mình thì Saladin lại ra lệnh cho cung thủ của mình xuống ngựa để bắn tên được chính xác hơn và họ đã bị choáng bởi cuộc tấn công bất ngờ của các Hiệp sỹ Hospitaller.
Richard biết rằng nếu ông không hỗ trợ cho các Hiệp sỹ Hospitaller, họ sẽ ngay lập tức bị cô lập và tàn sát. Nhưng nếu ông quyết định gửi quá nhiều kỵ binh tăng viện cho họ, có thể ông sẽ làm suy yếu toàn bộ lực lượng còn lại của mình. Muzaffar al-Din Gökböri, một trong những chỉ huy của Saladin đang cố gắng để tập hợp người của mình với ý định là tấn công vào các cung thủ của đối phương. Trước khi ông ta vào được một vị trí để triển khai được cuộc tấn công này, Richard tập hợp lại quân đội của mình và tung ra một đợt tấn công thứ hai bao gồm các hiệp sĩ người Breton và Angevin hướng tới sườn trái của Saladin. Bản thân Richard dẫn đầu một cuộc tấn công thứ ba và cuối cùng bao gồm các hiệp sĩ người Norman và người Anh.
Trong một nỗ lực để khôi phục lại tình hình, Taqi al-Din, cháu trai của Saladin đã điều 700 người là vệ sĩ riêng của Sultan ( Saladin ) để vào sườn trái của Richard. Cảnh giác với sự nguy hiểm vì lúc này lực lượng của ông đã bị trải ra rải rác. Richard cho tập hợp lại lực lượng của mình một lần nữa rồi và rồi tung ra đợt tổng tấn công cuối. Nó đã gây ra nhiều áp lực hơn so với sức ép mà đối phương có thể chịu được; quân của Saladin đã bị vỡ trận và bị truy kích một cách gắt gao trên những ngọn đồi của Arsuf bởi các hiệp sĩ Thập tự chinh. Ngọn cờ của nhà vua ( Richard ) đã được cắm trên ngọn đồi của Saladin, trong khi doanh trại của quân Saracen bị cướp phá. Vào lúc này bóng tối đã buông xuống, Richard không cho phép đuổi theo nữa.
Thiệt hại và hậu quả
Như thường lệ với những trận đánh thời trung cổ, rất khó để đánh giá chính xác thiệt hại ở mức nào. Các nhà sử gia Kitô giáo tuyên bố người Hồi giáo bị giết khoảng 32 vị tiểu vương và 7.000 binh sỹ nhưng con số thực thì có thể là hơn hoặc ít hơn. Thiệt hại của Richard là không quá 700 người trong đó có James của Avesnes.
Arsuf là một chiến thắng quan trọng, nhưng không giống như chiến thắng của Saladin ở trận Horn of Hattin, trận này không phải là một trận thắng quyết định. Quân đội đối phương đã không bị phá hủy, nhưng tháo chạy được coi là một sự xấu hổ của người Hồi giáo và nó thúc đẩy nâng cao tinh thần chiến đấu cho quân Thập tự chinh. Sau khi tháo chạy Saladin đã có thể tập hợp lại và cố gắng để tiếp tục giao tranh nhưng chỉ làm cho quân Thập tự chinh giật mình quay lại và phản ứng chứ ông ta không còn khả năng tổ chức một cuộc tấn công với quy mô hoành tráng. Mùa đông đã bắt đầu có nghĩa là Saladin không thể tiếp tục theoi đuổi. Arsuf đã làm hoen ố danh tiếng của Saladin như là một chiến binh bất khả chiến bại và đã chứng tỏ lòng dũng cảm của Richard trong cương vị một người lính và kỹ năng của ông như là một chỉ huy. Richard đã có thể tấn công và giữ được Jaffa – một động thái quan trọng chiến lược để chiếm lại Jerusalem. Khi lấy đi Jaffa của Saladin, Richard đã đe doạ nghiêm trọng đến Jerusalem lúc này đang nằm trong tay Saladin bởi vì Jaffa là một hải cảng rất gần thành phố Thánh Địa.
Sau khi ông ngã bệnh nặng trong năm 1170, Henry II đưa ra kế hoạch để phân chia vương quốc của mình, còn ông sẽ điều hành một cách tổng thể qua các con trai của ông tới vùng lãnh thổ của họ. Năm 1171, Richard đến Aquitaine cùng với mẹ mình và vua Henry II phải phong cho ông danh hiệu công tước xứ Aquitaine theo yêu cầu của Eleanor. Richard và mẹ của ông đã bắt đầu các chuyến đi khắp vùng Aquitaine trong năm 1171 trong một nỗ lực nhằm xoa dịu những người dân địa phương. Họ cùng nhau đặt viên đá cho phần hạ tầng của tu viện St Augustine tại Limoges. Trong tháng 6 năm 1172, Richard được chính thức công nhận là Công tước Aquitaine khi ông được cấp cho ngọn thương và cờ xí tại một buổi lễ đã được tổ chức tại Poitiers và được tổ chức lại ở Limoges, nơi ông được đeo chiếc nhẫn của St Valerie-đây là biểu hiện của người đứng đầu vùng Aquitaine.
Trận Jaffa
Thời gian xảy ra trận đánh: năm 1192
Địa điểm: thành phố Jaffa
Kết quả: Quân thập tự chinh chiến thắngPhe quân Thập tự chinh: chỉ huy Richard I của Anh quốc,lực lượng 80 Hiệp sĩ + quân phòng thủ tòa lâu đài của Jaffa. Quân tiếp viện Richard và 54 Hiệp sĩ + 2000 lính bắn nỏ người GenovaPhe Hồi giáo: chỉ huy Saladin,lực lượng 7.000 kỵ binh
trận Jaffa là một trong một loạt các chiến dịch giữa quân đội của Saladin và lực lượng thập tự chinh của vua Richard Lionheart. Đó là trận chiến cuối cùng của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, sau đó Saladin vua Richard đã tiến hành thương lượng cho một thỏa thuận ngừng bắn. Mặc dù quân Thập tự chinh đã không giành lại được thành phố Đất Thánh Jerusalem, người hành hương Thiên chúa giáo được phép nhập cảnh vào thành phố và quân Thập tự chinh đã giữ lại quyền kiểm soát một dải đất khá lớn kéo dài từ Beirut tới Jaffa.Trận Jaffa là một trận chiến mang tính chất quyết định, nó thể hiện cả tinh thần quyết tâm của Saladin và sự dũng cảm đến mức thiếu thận trọng của Richard. Đây là trận chiến cuối cùng trước khi hiệp ước giữa Richard và Saladin được kết luận và nó giúp giữ lại sự hiện diện của quân Thập tự chinh ở phía nam và đảm bảo rằng ít nhất là tại thời điểm đó người Thiên chúa giáo đã hiện diện bên ngoài Đất Thánh.
Bối cảnh
Ngày 07 Tháng 9 Năm 1191, sau khi giành chiến thắng trong trận Arsuf, quân Thập tự chinh tiến từ Arsuf đến Jaffa, nơi mà họ đã tổ chức chiếm đóng và tăng cường phòng thủ., họ-người Thiên chúa giáo hy vọng rằng Jaffa sẽ là căn cứ để phát động những cuộc tấn công và chiếm lại thành phố Jerusalem. Khi mùa đông năm 1191->1192 đến gần, các chiến dịch