18/06/2018, 16:18

Các cuộc Thập tự chinh (bài 2)

Cuộc Thập tự chinh lần thứ ha i Tóm lược tình hình vùng Đất Thánh sau cuộc Thập tự chinh lần một Năm 1119. Quân đội của các thành bang thập tự chinh bị đánh bại tại trận Cánh đồng Đẫm máu Năm 1121. Al-afdal-tể tướng của Vương triều Fatimid Aicập bị ám sát Năm 1122. ...

Cuộc Thập tự chinh lần thứ hai

second_crusade_route_map

Tóm lược tình hình vùng Đất Thánh sau cuộc Thập tự chinh lần một

Năm 1119. Quân đội của các thành bang thập tự chinh bị đánh bại tại trận Cánh đồng Đẫm máu

Năm 1121. Al-afdal-tể tướng của Vương triều Fatimid Aicập bị ám sát
Năm 1122. Công tước Roceline của Edessa bị bắt bởi người Thổ nhĩ kỳ, cái chết của nhà cai trị người Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ Ghazi Ibn Artuq II, thừa kế bởi Temur Tash Husam al-Din như là người cai trị Artuqi
Năm 1123 Vua Baldwin II của Jerúalem bị bắt và giam giữ tại Harput ở miền Đông Anatolia, cái chết của Sultan Shah Ibn Ridwan-nhà cai trị người Saljuq ở Syria: atabeg Tughtakin trở thành nhà cai trị cuả Damacus.

Năm 1124. Vua Baldwin II của Jerusalem được thả khỏi Harput ( trong tháng 6), bến cảng của thành phố Tyre thuộc Triều Fatimid thất thủ về tay Thập tự quân của Vương quốc Jerusalem ( tháng 7).

Năm 1125. Quân đội Thổ nhĩ kỳ dưới sự chỉ huy của Aqsunqur al-Bursiqui bị đánh bại bởi vua Baldwin II của Gerusalem tại trận Azaz, Aqsunqur al-Bursiqui bị ám sát.

Năm 1126. Bohemond II trở thành người cai trị của Công quốc Antioch.

Năm 1127. Imad al-Din Zangi được chọn làm Thống đốc Mosul, ông ta đã chiếm được Nisibin, Sinjar và Harran tại vùng Jazira phía Bắc Mesopotamia.

Năm 1128. Sự xuất phát của hàng loạt cuộc Thập tựchinh, Tughtigin của Damacus chết và được thừa kế bởi Buri Ibn Tughtigin. Imad al-Din Zangi chiếm Allepo.
Năm 1129. Bá tước Fulk của Ạnjoụ cưới Melisande và được của hồi môn là thừa kế Jerusalem, quân Thập tự chinh tấn công Damacus không thành công.

Năm 1130. Bohemond chết khi chiếm đấu với người Danismandid Turk, Alice-bà vợ góa của ông ta từ chối quy thuận bố đẻ của mình-Baldwin II vua của Jerusalem và kêu gọi Imad al-Din Zangi trợ giúp, Imad al-Din Zangi đánh bại liên quân thành bang Thập tự chinh và người Artuqid Turk chiếm Mardin phía đông nam Anatolia và Artharib phía bắc Syria.

Năm 1131. Vua Baldwin II của Jerusalem, Fulk của Anjou trở thành vua cùng với Melisende là nữ Hoàng của ông ta, Bá tước Jocelin ( xứ Courtenay) của Edessa chết, Sultan Mahmud II chết, kết quả là nổ ra nội chiến trong Đế quốc Đại Saljuq ( Iraq và phía tây Iran ngày nay).

Năm 1132. Isma’il Buri trở thành Burid nhà cai trị của xứ Damacus, quốc vương Abbasid al-Mustarshid đánh bại Imad al-Din Zangi ở gần Samara.

Năm 1134. Konya trở thành thủ đô của Vương quốc Rum của người Saljuq Turk ( ở vùng Anatolia), Amir Ghazi-nhà cai trị của Danishmanđi ( vùng phía bắc Anatolia) chết, ông ta được thừa kế bởi Muhamad Ibn Amir Ghazi.

Năm 1135. Mahmud Buri trở thành nhà cai trị Burid của Da macus, Imad al-Din Zangi của Mosul chiếm Kafr Tab, Ma’arat al Nu’man và Atharib ở Syria nhưng thất bại trong việc chiếm Damacus, tranh cãi về quyền thừa kế và nội chiến nổ ra giữa Stephen và Matilda ở Anh Quốc..

Năm 1136. Raymond của Poitiers cưới Constance và trở thành nhà cai trị Antioch.

Năm 1137. Hoàng đế Byzantine John Comnenus đánh bại vua Leo Roupenian người Armenian tại Cilicia, và tiến, Imad al-Din Zangi chiếm Montferrand từ tay quân Thập tự chinh, Bá tước Pons chết-Raymond II trở thành Bá tước của thành bang Tripoli.

Năm 1138. Chiến dịch của Hoàng đế Byzantine John Comnenus để chống lại sự cai trị của người Hồi giáo ở Syria, Imad al-Din Zangi tránh đánh trận với quân đội Byzantine nhưng chiếm được quyền kiểm soát Him bằng hôn nhân.

Năm 1139. Mahmud Ibn Buri trở thành nhà cai trị Burid của Damacus, Hoàng đế John phát động chiến dịch chống lại người Danismandid Turk ở phía Đông Anatolia Imad al-Din Zangi chiếm vùng Ba’alka ở Lebannon nhưng đã thất bại trong việc chiếm Damacus.

Năm 1140.Vua Fulk đối trận với Imad al-Din Zangi ở gần Dara’a ở phía nam Syria, Abaq Ibn Muhamad trở thành Buri, nhà cai trị Damacus, vào thánh Sau một trận động đất nổ ra ở Damacus tạo ra những phá hủy nghiêm trọng.

Năm 1142. Imad al-Din Zangi tiếp tục chiến dịch chống lại người Kurd ở phía Tây nam Anatolia ( kể từ năm 1141), sự tan ra của vương quốc Danishmandid ở phía Đông của A natolia, sự tan rã của vương quốc Menguiekid Turk ở phía Bắc Anatolia, Hoàng đế Byzantine John Comnenus thất bại trong việc chiếm Antioch.

Năm 1143. Hoàng đế Byzantine John Comnenus chết khi đang tiến hành chiến dịch Cilicia, ông được thừa kế bởi Manuel-con trai mình , vua Fulk của Jerusalem bị giết tại Acre, được thừa kế bởi con trai ông ta-Baldwin III

Năm 1144. Imad al-Din Zangi chiếm thành phố Edessa ( Urfa) và một nửa phía tây của Công quốc Edessa, Qara Arslan Fakhr al-Din trở thành vua của triều Artuqid của vùng Hisn Kayfa phía Đông nam Anatolia.

Năm 1145. Quân nổi loạn người Armenia ở Cilicia bị đánh bại bởi người Byzantine, Bá tước Raymond của Antioch chấp nhận quyền bá chủ của Đế quốc Byzantine, Eugenius II trở thành Giáo hoàng La Mã và kêu gọi cho cuộc thập tự chinh thứ hai.

Năm 1146. St Bernard của Clairvaux cầu nguyện cho quân thập tự chinh, tàn sát dân Do thái ở Rhineland, Imad al-Din Zangi bị ám sát, ông này được thừa kế bởi Sayf-Din Zangi I Ibn Zanghi tại Mosul, Atabar của Damacus chiếm quyền kiểm soát Ba’albak và ký hiệp ước liên minh với Hím và Hama. Vua Kondrad III của Đức quốc đồng ý tham dự cuộc thập tự chinh lần thứ hai, cuộc xâm lược của Manuel-Hoàng Đế Byzantine vào vương quốc Rum của người Turk Saljuq đã thất bại.Nur al-Din Mahmud Ibn Zangi trở thành người cai trị của Alepo, ataberg Anur của Damacus và Nur al-Din của Alepo đã nhất trí để ký một hiệp ước liên minh, và Nur al-Din cưới con gái của Anur, Thống đốc của vùng Hawran đưa ra đề nghị chuyển giao vùng Busra và Salkhad cho Vương quốc Jerusalem ( vào khoảng tháng 5 và tháng 6) Vua Baldwin III xâm lược vùng lãnh thổ của Damacus, Anur yêu cầu Nur al-Din giúp đỡ, họ cùng nhau chiếm lại vùng Busra và Salkhad khi mà quân đội của quân thập tự chinh rút lui, Giáo hoàng mở rộng Cuộc thập tự chinh lần thứ 2 sang vùng vịnh Iberia ( Tây ban nha và Bồ đào nha), người Bồ đào nha chiếm được Santarem ( vùng đệm- March), Giáo hoàng ủy thác cho một cuộc thập tự chinh của người Đức để chống lại người Wend dị giáo ( người Slav ở phía Tây) vào ngày 13 tháng 4, một đạo thủy quân của quân thập tự chinh lần 2 xuất phát từ Dartmounth ( cuối tháng 5), đạo bộ quân đầu tiên của quân thập tự chinh lần 2 bắt đầu Hành quân về phía Trung Đông ( khoảng tháng 5 và tháng 6), Giáo Hoàng Eugenius và Bernard của Clairvaux tổ chức một buổi lễ hào nhoáng ở Abbey of Saint-Denis để kỷ niệm ngày xuất phát của Vua Louis Vii, các chiến dịch của người German và Scandinavia để triệt phá người Wend ( tháng 7 -> 9), Thập tự quân người Đức dưới sự chỉ huy của Konrad III tới Constantinople ( vào ngày 10 tháng 9), Thập tự quân người Pháp dưới sự chỉ huy của Louis VII tới Constantinople ( vào ngày 4-5 tháng 10), quân Đức được chia thành nhiều đạo binh, Konrad III thống lĩnh lực lượng trung quân tiến về phía lãnh thổ của người Saljuq ( giữa tháng 10 ), thập tự quân chiếm thành phố cảng Almeria ở Bán đảo Iberia ( ngày 17 tháng 10), người Bồ đào nha và Hạm đội thập tự chinh của các quốc gia Bắc Âu công chiếm được Lisbon ( vào ngày tháng 10), thập tự quân người Đức dưới sự thống lĩnh của Konrad III bị đánh bại bởi người Saljuq Turk ở phía nam của Dorylaeum ( ngày 25 tháng 10), Konrad và thập tự quân người Đức hội binh với quân đội của Vua Louis, quân thập tự chinh người Đức và Pháp hành quân dọc theo bờ biển và đón mừng lễ Noel ở Ephesus, người Norman ở phía nam Ytalia tấn công vào lãnh thổ của Đế quốc Byzantine ở Hylạp.

Năm 1148. Quân thập tự chinh người Pháp dưới sự chỉ huy của Louis VII đánh bại một cuộc phục kích của người Thổ ở gần con sông Meander ( ngày 1 tháng 1) nhưng đã bị thiệt hại nặng nề khi họ vượt qua các ngọn núi ở vùng Honaz Dagi

( vào khoảng ngày 8 tháng 1) trước khi đến được vùng Antalya ( ngày 20 tháng 1), hạm đội của quân Thập tự chinh căng buồm từ Lisbon đến Trung Đông ( ngày 1 tháng 2), Konrad III và quân thập tự chinh căng buồm từ Constantinople tới Acre ( đến nơi vào tháng 4), Louis và quân thập tự chinh người Pháp đi thuyền từ Antalya tới Antioch ( đến vào 19 tháng 3), hạm đội của miền Nam nước Pháp dưới sự chỉ huy của Bá tước Alphonse-Jordan của Toulouse đến được Arc ( vào mùa xuân). Alphonse-Jordan chết tại Caesarea, Vua Alphonso của xứ Leon và Castile thất bại khi tấn công Jaen ( vào tháng 4), ataberg Anur củaDa macus lại cầu xin Sayf al-Din của Mosul-người đã mang quân đội của mình để hội binh với quân của Nur al-Din tại Hims, quân thập tự chinh họp bàn ở Palmarea và quyết định tấn Damacus ( trong tháng 6), quân thập tự chinh đến được ngoại ô Damacus ( vào ngày 24 tháng 7), quân đội của Damacus đã cố gắng chặn không cho quân thập tự chinh vượt sông Barada nhưng họ đã bị đẩy lui, cuộc bao vây Damacus của quân thập tự chinh lần thứ 2 được bắt đầu vào ngày ( 24-> 28 tháng 7), thập tự quân từ bỏ cuộc bao vây Damacus và trở lại Vương quốc Jerusalem ( ngày 29 tháng 7), Vua Konrad III đi thuyền từ Acre ( 8 tháng 8) tới Thessalonika và lập một liên minh với Hoàng Đế Byzantine Manuel đển chống lại vua Roger của Sicily, người đã xâm lược lãnh thổ của Đế quốc Byzantine, phần lớn quân thập tự chinh người Pháp và Eleanor còn ở lại, người Genoese và Bá tước của Barcelona chiếm Tortosa ( 30 tháng 12), Vương quốc Aragon ( của người Kitô giáo) chiếm được vùng đồng bằng hạ Ebro ( 1149).

Năm 1149. Konrad trở về Đức ( vào mùa thu ) bằng thuyền, Hoàng tử Raymond của xứ Antioch bị giết trong trận chiến tại Ain Murad ( 29 tháng 6), Louis và Eleanor đến được Sicily ( vào cuối tháng 7), Mu’in al-Din Anur, atabeg của Damacus chết ( 28 tháng 8), Sayf al-Din của Mosul chết và ông được thừa kế bởi Mawdud Qutb al-Din Ibn Zangi, Louis và Eleanor quay trở lại Pháp ( tháng 11).

Năm 1151. Nur al-Din của Alepo công chiếm pháo đài cuối cùng của Quận quốc Edessa vốn lúc này đã không còn tồn tại.

Năm 1153. Quân thập tự chinh của Vương quốc Jerusalem công chiếm thành công Ascalon, cứ điểm cuối cùng của Triều đình Fatimid ở Palestine.

Năm 1154. Nur al-Din nắm quyền kiểm soát Damacus.Cuộc Thập tự chinh lần thứ hai (1145-1149) là cuộc thập tự chinh được bắt đầu từ châu Âu. Nó được bắt đầu trong năm 1145, để trả lời sự sụp đổ của Quận quốc Edessa vào tay lực lượng của Zengi trong năm trước. Quận quốc này được thành lập trong cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất (1095-1099) bởi Baldwin của Boulogne trong năm 1098. Nó là thành bang đầu tiên của quân Thập tự chinh được thành lập được thành lập và cũng là thành bang đầu tiên bị thất thủ.

Cuộc Thập tự chinh thứ hai

được tuyên bố bởi Đức Giáo Hoàng Eugene III và nó cũng là cuộc thánh chiến đầu tiên được dẫn dắt bởi các vị vua của châu Âu, cụ thể là Louis VII của Pháp và Conrad III của Đức, với sự giúp đỡ từ một số quý tộc quan trọng khác của châu Âu. Quân đội của hai vị vua đã hành quân một cách riêng rẽ trên khắp châu Âu. Sau khi vượt qua lãnh thổ của Đế quốc Byzantine để tiến vào vùng Anatolia, quân đội của cả hai nhà vua đã bị đánh bại một cách riêng rẽ bởi người Turk Seljuk. Theo nguồn tin chính của Thiên chúa giáo phương Tây-Odo của Deuil và Syriac Christian cho rằng Hoàng đế Byzantine Manuel I Comnenus bí mật cản trở sự tiến quân của quân viễn chinh, đặc biệt là ở Tiểu Á, nơi ông đã bị cáo buộc là đã cố ý cảnh báo cho người Thổ Nhĩ Kỳ để tấn công họ-quân Thập tự chinh ( đương nhiên đây là những lời chữa ngượng vì đến đợt thập tự chinh thứ 3 có cả ba vị vua lớn nhất của châu Âu: Vua Anh-Pháp-Đức thì quân thập tự chinh vẫn thua như thường). Louis và Conrad và tàn quân của họ đến được Jerusalem, và trong năm 1148, tham gia vào một cuộc tấn công theo một lời khuyên sai lầm vào Damascus. Cuộc thập tự chinh ở phía đông là một thất bại thảm hại cho quân viễn chinh và là một chiến thắng tuyệt vời đối với thế giới Hồi giáo. Cuối cùng nó có ảnh hưởng quan trọng đến sự sụp đổ của vương quốc Jerusalem và cuộc Thập tự chinh lần thứ ba vào cuối thế kỷ 12.

Sự thành công duy nhất của cuộc Thập tự chinh lần thứ hai đến từ một lực lượng liên quân gồm 13.000 người Flemish, Frisian, Norman, Anh, Scotland và quân viễn chinh Đức trong năm 1147. Xuất phát bằng đường thủy từ Anh đến Đất Thánh, đội quân này đã dừng lại và giúp đội quân nhỏ bé hơn 7000 người của Bồ Đào Nha chiếm Lisbon và trục xuất người Moor ra khỏi đó.

Cuộc vây hãm Edessa

Cuộc vây hãm Edessa đã diễn ra từ ngày 28 -> 24 tháng 12 năm 1144, kết quả là sự sụp đổ của quận quốc của Quận quốc Edessa của thập tự chinh để Zengi, atabeg của Mosul và Aleppo.

Bối cảnh

Quận quốc Edessa là thành bang đầu tiên của quân thập tự chinh được thành lập trong khi diễn ra cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Nó ở xa nhất về phía bắc và là thành bang yếu nhất với ít dân cư nhất; nhưng nó luôn phải chịu các cuộc tấn công thường xuyên từ các quốc gia Hồi giáo xung quanh được cai trị bởi các Triều đại Ortoqid, Danishmend và Seljuk Turk. Bá tước Baldwin II và Bá tước tương lai Joscelin của Courtenay đã bị kẻ thù bắt tù binh sau những thất bại của họ ở trận Harran năm 1104. Cả Baldwin và Joscelin đã bị bắt lại lần thứ hai trong năm 1122 và mặc dù Edessa đã hồi phục phần nào sau trận Azaz năm 1125, Joscelin đã bị giết chết trong trận chiến của năm 1131. Người kế nhiệm ông Joscelin II đã buộc phải tham gia một liên minh với Đế quốc Byzantine, nhưng trong năm 1143 cả hai vị hoàng đế Byzantine John II Comnenus và Fulk xứ Anjou-vua của Jerusale đều qua đời. John II được kế vị bởi con trai ông Manuel I Comnenus, người phải đối phó và củng cố quyền lực tại quê nhà để chống lại người anh lớn tuổi của mình, trong khi Fulk được kế tục bởi vợ ông-Melisende và con trai của ông-Baldwin III. Joscelin cũng đã có những tranh cãi với Raymond II xứ Tripoli và Raymond xứ Antioch làm cho Edessa không còn có một đồng minh mạnh mẽ nào cả.

Cuộc bao vây và tàn sát

Năm 1144, Joscelin đã liên minh với Kara Aslan, người cai trị Vương quốc Diyarbakır Triều Ortoqid để chống lại sức ép và ảnh hưởng ngày càng tăng của Zengi. Joscelin hành quân từ Edessa với gần như toàn bộ quân đội của mình để hỗ trợ Kara Aslan tấn công Aleppo. Zengi đã lợi dụng cái chết của Fulk trong năm 1143 và vội vã tiến về phía bắc đến bao vây Edessa và đến nơi vào ngày 28. Thành phố này đã được cảnh báo về việc ông ta kéo quân đến và đã được chuẩn bị cho cuộc bao vây, nhưng họ có quá ít quân để có thể phòng thủ trong khi Joscelin và quân đội chính của Quận quốc lại ở nơi khác.

Việc tổ chức phòng thủ thành phố được chỉ đạo bởi Hugh II-Đức Tổng-Giám-mục Latin, Giám-mục John người Armenia và Đức-Giám-mục Jacobite Basil. John và Basil đảm bảo rằng sẽ không có Kitô hữu bản địa nào đào ngũ sang phía Zengi. Khi Joscelin biết về cuộc bao vây, ông đã cho quân đội của mình dừng lại ở Turbessel, vì biết rằng ông không bao giờ có thể đánh bật được Zengi đi mà không có sự giúp đỡ từ các thành bang thập tự chinh khác. Tại Jerusalem Melisende đáp trả yêu cầu của Joscelin bằng cách gửi một đội quân được dẫn đầu bởi Manasses của Hierges, Philip của Milly và Elinand của Bures. Raymond của Antioch bỏ qua lời kêu gọi giúp đỡ, vì quân đội của ông này đang bận để chống lại đế quốc Byzantine ở Cilicia.

Zengi cho bao vây toàn bộ thành phố, và nhận thấy rằng không có quân đội bảo vệ nó. Ông cho chế tạo tháp công thành và bắt đầu phá hủy các bức tường thành ( bằng cách đào hầm ngầm để làm sập tường thành ), trong lúc lực lượng của ông ta được người Kurd và Turcoman tiếp viện. Cư dân của Edessa chống cự ở mức họ có thể, nhưng họ không có kinh nghiệm trong việc chiến đấu giữ thành, các tòa tháp của thành phố không được bố trí phòng thủ đủ mạnh. Họ cũng không có kinh nghiệm về cách chống lại chiến thuật đào hầm ngầm và một phần của bức tường ở gần chiếc cổng Giờ (the Gate of the Hours ) đã sụp đổ vào ngày 24. Quân của Zengi đã xông vào thành phố và giết chết tất cả những người không thể chạy trốn vào Thành lũy Maniaces. Hàng ngàn người khác bị chết ngạt hoặc giẫm đạp đến chết vì hoảng sợ, kể cả Đức-Tổng-Giám mục Hugh. Zengi đã ra lệnh ngừng các vụ thảm sát, mặc dù ông đã cho hành quyết tất cả các tù nhân người Latin; các Kitô hữu bản địa được tha chết và được phóng thích. Thành lũy được bàn giao vào ngày 26. Một trong những chỉ huy của Zengi, Zayn ad-Din Ali Kutchuk, được bổ nhiệm làm thống đốc, trong khi Đức-Giám-mục Basil, dường như sẵn sàng dâng sự trung thành của mình cho bất cứ ai cai quản thành phố và ông được công nhận là lãnh đạo tinh thần của dân Kitô giáo tại Edessa.

Hậu quả

Trong tháng giêng năm 1145 Zengi chiếm giữ Saruj và bao vây Birejik, nhưng quân đội của Vương quốc Jerusalem cuối cùng đã đến và hội binh với Joscelin. Zengi nghe nói về có biến xảy ra tại Mosul ( vương quốc của ông ta ) và vội vã trở lại để kiểm soát nó. Ở đó ông ta được ca ngợi bởi tất cả người Hồi giáo như là “người bảo vệ của đức tin” và nhận danh hiệu al-Malik al-Mansur- vị vua chiến thắng. Ông không tiếp tục tiến hành một cuộc tấn công nào nữa trên lãnh thổ còn lại của Edessa, hoặc vào Công quốc Antioch, như người ta lo sợ. Joscelin II tiếp tục trị vì phần còn lại ở phía tây của Công quốc ở bên kia sông Euphrates từ Turbessel, nhưng dần dần phần lãnh thổ nhỏ bé còn lại của ông tiếp tục bị chiếm bởi người Hồi giáo hoặc bị bán cho người Byzantine.

Zengi đã bị ám sát bởi một người nô lệ trong năm 1146, trong khi bao vây Qalat Jabar và Nur al-Din con trai ông trở thành quốc vương của Aleppo. Joscelin đã cố gắng để chiếm lại Edessa sau khi Zengi bị giết và ông đã lên kế hoạch để chiếm lại tất cả vào tháng 10 năm 1146. Tuy nhiên, ông không có được sự trợ giúp từ các thành bang thập tự chinh khác, và đoàn quân chinh phạt ít ỏi của ông bị đẩy ra khỏi Edessa bởi al Nur-Din trong tháng 11. Joscelin, lo sợ cho sự an toàn của Kitô giáo Armenia của thành phố và đã cố gắng đột phá, tạo một lỗ hổng trong vòng vây của Nur al-Din để người dân địa phương có thể chạy trốn đến an toàn. Tuy nhiên, nỗ lực của Joscelin đã thất bại và những nỗi lo sợ của ông đã thành sự thật khi quân của Nur al-Din đã tàn sát những người Armenia chạy trốn và bắt những người còn sống sót làm nô lệ.
Đến thời điểm này, tin tức về sự sụp đổ của Edessa đã vang đến châu Âu và Raymond của Antioch đã gửi một phái đoàn bao gồm Hugh-Giám mục của Jabala, để tìm kiếm viện trợ từ Đức Giáo Hoàng Eugene III. Ngày 1 tháng 12 năm 1145 Eugene đã ban hành Sắc lệnh Quantum praedecessores kêu gọi cho cuộc Thập tự chinh thứ hai. Cuộc thập tự chinh này đã được chỉ huy bởi Louis VII của Pháp và Conrad III của Đức, nhưng nó đã kết thúc trong thảm họa trong năm 1148 và Edessa đã không bao giờ được khôi phục.

Cuộc Thập tự chinh lần thứ 2 ở phương Đông

(Cuộc thập tự chinh lần thứ 2 thực chất bao gồm ba cuộc Thập tự chinh riêng biệt, cuộc thập tự chinh ở phương Đông do vua Pháp và vua Đức tiến hành, cuộc thập tự chinh vào người Weds-Tây Slav ở trung Âu và cuộc Thập tự chinh ở Bồ đào nha-công chiếm Thành phố Lisbon. Người sưu tầm xin ưu tiên nói đến các cuộc Thập tự chinh ở phương Đông còn ở nơi khác xin bổ sung sau)

Joscelin đã cố gắng để chiếm lại Edessa sau cái chết của Zengi, nhưng Nur ad-Din đã đánh bại ông ta trong tháng 11 năm 1146. Ngày 16 tháng 2 năm 1147 các thủ lĩnh của quân viễn chinh Pháp và Đức đã gặp nhau ở Étampes để thảo luận về lộ trình của họ. Người Đức đã quyết định đi đường bộ qua Hungary, vì tuyến đường biển là không thực tế bởi vì Roger II-vua của Sicily là một kẻ thù của Conrad. Nhiều người trong số các quý tộc Pháp không tin tưởng về con đường trên bộ, con đường sẽ đưa họ qua lãnh thổ của đế quốc Byzantine, sự khủng khiếp của nó vẫn còn được ghi trong tài liệu của quân Thập tự chinh lần đầu tiên. Tuy nhiên Conrad đã quyết định chọn con đường bộ và khởi hành vào ngày 15 tháng 6. Roger II bị xúc phạm ( ai thì không rõ- khả năng là Conrad) và từ chối không tiếp tục tham gia. Tại Pháp, cha tu viện trưởng Suger và Bá tước William II của Nevers được bầu làm nhiếp chính, trong khi nhà vua tham gia vào cuộc thập tự chinh. Tại Đức, những bài giảng mở rộng được thực hiện bởi Adam của Ebrach và Hồng y Otto của Freising cũng tham gia vào Thập tự chinh. Ngày 13 tháng 3 năm 1147, tại Frankfurt, Frederick -con trai của Conrad được bầu làm vua dưới sự nhiếp chính của Henry, Tổng–giám-mục của Mainz. 5 năm sau Conrad III được Frederick Barbarossa -cháu trai của ông (Frederick râu đỏ) làm người kế nhiệm. Người Đức có kế hoạch khởi hành vào Lễ Phục sinh nhưng đã không thể bắt đầu cho đến tháng 12 năm 1146.

Quá trình hành quân của người ĐứcQuân viễn chinh người Đức, đi kèm theo với người thừa kế của Giáo hoàng và hồng y Theodwin, dự định sẽ gặp người Pháp tại Constantinople. Ottokar III của Styria gia nhập với Conrad tại Vienna và Geza II vua của Hungary-đối thủ của Conrad cho phép họ đi qua lãnh thổ của mình mà không gây hề hấn gì. Khi quân Đức- khoảng 20.000 người đến được lãnh thổ Byzantine, Manuel đã lo sợ rằng họ sẽ tấn công ông ta và quân đội Byzantine đã được cảnh báo để đảm bảo rằng không có sự cố gì xảy ra. Có một cuộc giao tranh ngắn với một số trong những tay cứng đầu người Đức ở gần thành phố Philippopolis và Adrianople, nơi tướng Prosouch của Byzantine đã đánh nhau với Frederick-cháu trai của Conrad kiêm hoàng đế tương lai. Mọi thứ trở thành tồi tệ hơn khi một số binh sĩ Đức bị thiệt mạng trong một trận lụt vào đầu tháng Chín. Tuy nhiên vào ngày 10 tháng Chín, họ đã đến được Constantinople, nơi mà mối quan hệ ( giữa người Đức) với Manuel trở nên rất tệ và người Đức đã bị thuyết phục để vượt sang Tiểu Á càng nhanh càng tốt. Manuel muốn Conrad để lại một số quân của mình đằng sau, để hỗ trợ trong việc bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của Roger II ( vua Sicily nhưng thực chất là người Norman), người đã nắm lấy cơ hội này để cướp bóc các thành phố của Hy Lạp, nhưng Conrad đã không đồng ý, dù ông này cũng là một kẻ thù của Roger. Tại Tiểu Á, Conrad quyết định không chờ đợi người Pháp nữa và quyết định tiến đến Iconium-thủ đô của Vương quốc Hồi giáo Rum của người Seljuk. Conrad chia quân đội của mình thành hai bán đội. Nhà vua Đức đích thân chỉ huy một trong số này và nó đã gần như bị hủy diệt hoàn toàn bởi người Seljuks vào ngày 25 tháng 10 năm 1147 tại trận Dorylaeum lần thứ hai ( có nguồn nói rằng người Đức bị thương vong đến 9/10 phần quân số, tức là 18.000 người lính, nhưng nguồn này không có dẫn chứng).Trong trận chiến này, người Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng chiến thuật điển hình của họ là giả vờ rút lui và sau đó quay trở lại để tấn công lực lượng nhỏ kỵ binh của người Đức đã tách ra khỏi đội quân chính để truy đuổi họ. Conrad đã bắt đầu phải rút lui một cách chậm chạp về phía Constantinople và hàng ngày quân đội của ông liên tục bị quấy rối bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, họ đã tấn công và đánh bại những toán lính Đức bị lạc ra khỏi đội hình của hậu quân. Ngay cả Conrad cũng đã bị thương trong một cuộc giao tranh với họ. Một bộ phận khác được dẫn đầu bởi Đức-Giám-mục Otto của Freising-người anh em cùng cha khác mẹ với nhà vua, lúc này cũng đang hành quân về phía nam tới bờ biển Địa Trung Hải và cũng đã bị đánh bại bằng một chiến thuật tương tự vào đầu năm 1148.

Quá trình hành quân của người Pháp

Quân viễn chinh người Pháp đã khởi hành từ Metz vào tháng Sáu năm 1147, dẫn đầu là các đại Quý tộc Louis và Thierry của Alsace, Renaut I của Bar, Amadeus III của Savoy và William V của Montferrat-người anh cùng cha khác mẹ của ông ta, William VII của Auvergne và những người khác, cùng với quân đội từ Lorraine, Britainy, Burgundy và Aquitaine. Một lực lượng từ Provence, do Alphonse của Toulouse chỉ huy đã chọn cách chờ đến tháng Tám và đi đến vùng đất Thánh bằng đường biển. Tại Worms, Louis gia nhập với các đạo quân viễn chinh từ Normandy và Anh quốc. Họ đã theo con đường mà Conrad đã đi qua một cách khá bình yên, mặc dù Louis đã có một cuộc xung đột với Geza (vua) của Hungary khi Geza phát hiện Louis cho phép người cướp ngôi Hungary gia nhập vào quân đội của ông ta. Các quan hệ (của người Pháp với người Đức và cả với người bản địa ) tại lãnh thổ Byzantine là rất tồi tệ và người Lorrain, những người đã hành quân vượt trước phần còn lại của quân Pháp, cũng đã rơi vào một cuộc xung đột với người Đức- những người đi chậm hơn ( so với đoàn quân chính của người Đức) mà họ gặp trên đường.Kể từ các cuộc đàm phán ban đầu giữa Louis và Manuel, Manuel đã cho tạm dừng các chiến dịch quân sự chống lại Vương quốc Hồi giáo Rum, và ký kết một thỏa thuận ngừng bắn với Sultan Mesud I-đối phương của ông. Thỏa thuận ngừng bắn này được thực hiện để Manuel được rảnh tay tập trung vào việc bảo vệ vương quốc của mình từ quân Thập tự chinh, những người đã nổi tiếng về các hành vi trộm cướp và phản bội từ khi cuộc Thập tự chinh đầu tiên và được bị nghi ngờ là có chứa những dự định độc ác với thành phố Constantinople. Tuy nhiên, mối quan hệ của Manuel với quân Pháp có vẻ tốt hơn so với người Đức và Louis đã được đòn tiếp một cách xa xỉ ở Constantinople. Một số người Pháp đã bị xúc phạm bởi thỏa thuận ngừng bắn của Manuel với người Seljuk và kêu gọi một thành lập một liên minh với Roger II và tấn công vào thành phố Constantinople, nhưng họ đã bị ngăn cản bởi Louis.Khi các đội quân từ Savoy, Auvergne và Montferrat gia nhập với đội quân của Louis ở Constantinople, họ đã đi qua các tuyến đường xuyên qua nước Ý và qua Brindisi để đến được Durazzo, toàn bộ quân Pháp đã được vận chuyển qua eo biển Bosporus để Tiểu Á. Người Byzantine đã được khuyến khích bởi những tin đồn rằng quân Đức đã chiếm được Iconium, nhưng Manuel từ chối điều cho Louis bất cứ đội quân Byzantine nào. Người Byzantine đang bị xâm chiếm bởi Roger II của Sicily và tất cả quân đội của Manuel là rất cần thiết ở tại khu vực Balkan. Vì thế cả người Đức và người Pháp đã tiến vào phần đất châu Á mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào của Byzantine, không giống như các đội quân Tây Âu trong cuộc Thập tự chinh lần đầu tiên. Theo truyền thống của Alexios I-ông nội của ông để lại, Manuel cũng bắt người Pháp phải tuyên thệ là sẽ trả lại cho đế quốc ( Byzantine) bất cứ lãnh thổ mà họ chiếm được. Người Pháp đã gặp được tàn quân của Conrad tại Nicaea và Conrad gia nhập với lực lượng của Louis. Họ đã theo con đường của Otto của Freising ( anh em cùng cha khác mẹ với Conrad), di chuyển gần hơn tới bờ biển Địa Trung Hải, và họ đã đến được Ephesus trong tháng 12, tại đây họ biết được rằng người Thổ Nhĩ Kỳ đang chuẩn bị để tấn công chúng. Manuel cũng đã gửi sứ giả đến để phàn nàn về sự cướp bóc mà quân của Louis đã làm trên đường đi và không bảo đảm rằng người Byzantine sẽ giúp họ chống lại người Thổ. Trong khi đó, Conrad đã bị ốm và quay lại Constantinople, nơi Manuel đã đón tiếp cá nhân ông ta một cách long trọng và Louis, mà không có chú ý đến sự cảnh báo của ( người Byzantine) về những cuộc tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ, khi người Pháp và những người sống sót hành quân Đức ra khỏi Ephesus. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã chờ đợi để tấn công họ từ lâu nhưng trong một trận chiến nhỏ ở bên ngoài Ephesus người Pháp đã chiến thắng.

Họ đến được Laodicea vào đầu tháng 1 năm 1148, gần như cùng một lúc với thời gian quân đội của Otto Freising bị tiêu diệt tại cùng một vùng. Lại tiếp tục cuộc hành quân và đội tiên phong dưới sự chỉ huy của Amadeus xứ Savoy đã bị cắt với đội trung quân ở tại núi Cadmus và quân đội của Louis bị tổn thất nặng nề từ người Thổ Nhĩ Kỳ. Theo lời kể của Odo xứ Deuil thì bản thân Louis đã phải leo lên một tảng đá và người Thổ Nhĩ Kỳ đã không tấn công vì không nhận ra ông ta là ai. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã không tổ chức những đợt tấn công quyết liệt và người Pháp tiếp tục hành quân về phía Adalia trong khi liên tục bị quấy rối từ xa bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, họ ( người Thổ Nhĩ Kỳ ) đã cho đốt cháy mặt đất để ngăn chặn việc người Pháp kiếm thêm lương thực cho người và ngựa của họ. Louis không còn muốn tiếp tục đi bằng đường bộ và ông đã quyết định tập hợp một hạm đội tại Adalia và giương buồm đi Antioch. Sau khi bị trì hoãn trong một tháng do bão tố, hầu hết tất cả các tàu được cử đi đã không đến được đích. Louis và các tùy tùng thân tín đã lên tàu và đi bằng đường thủy, trong khi phần còn lại của đội quân này phải tiếp tục hành quân một chặng dài đến Antioch. Quân Pháp đã gần như hoàn toàn bị tan rã bởi người Thổ Nhĩ Kỳ hoặc vì thiếu ăn và bệnh tật.

Hành trình đến Jerusalem

Cuối cùng Louis đã đến Antioch vào ngày 19 tháng 3 sau khi bị trì hoãn do một cơn bão; Amadeus của Savoy đã qua đời vào ngày trên đường đi Síp. Louis đã được chào đón bởi Raymond của Poitiers-chú của Eleanor. Raymond muốn ông ta giúp để chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ và đi cùng với ông này (Raymond của Poitiers ) cho một chuyến viễn chinh chống lại Aleppo-một thành phố Hồi giáo vốn là cửa ngõ để đến Edessa, nhưng Louis đã từ chối, ông muốn kết thúc cuộc hành hương của mình ở Jerusalem thay vì tập trung vào các khía cạnh quân sự của cuộc thập tự chinh. Eleanor rất muốn đi theo Louis, nhưng chú của bà đã yêu cầu bà ta ở lại để mở rộng vùng đất của dòng họ và ly hôn Louis nếu nhà vua từ chối giúp đỡ những gì chắc chắn là mục tiêu về mặt quân sự của cuộc Thập tự chinh. Louis nhanh chóng rời Antioch đến Tripoli nhưng Eleanor đã bị giữ ở lại (Eleanor đã li dị Louis của Pháp và cưới Henry II-Công tước người Norman, người trở thành vua Henry II của Anh quốc. Sự kiện này cũng là một trong các nguyên nhân chính của chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp vì Eleanor là nữ Bá tước vùng Aquitaine ). Trong khi đó, Otto của Freising và phần còn lại trong tờ trình của quân đội của ông đến Jerusalem vào đầu tháng Tư và Conrad đến ngay sau đó. Fulk-Giáo trưởng Jerusalem, đã gửi lời mời Louis cùng tham gia với họ. Đội tàu đã dừng lại tại Lisbon và trong khoảng thời gian này thì người Provençal cũng rời châu Âu dưới sự chỉ huy của Alfonso Jordan-Bá tước của Toulouse. Bản thân Alphonso đã không đến được Jerusalem vì ông qua đời ở Caesarea. Ông được cho là đã bị đầu độc bởi Eleanor của Aquitaine hoặc Raymond II của Tripoli, họ là những người cháu rất e sợ tham vọng chính trị của ông. Sự tập trung ban đầu của cuộc thập tự chinh là Edessa, nhưng mục tiêu mà vua Baldwin III và các Hiệp sĩ Templar quan tâm lại là Damascus.

Hội đồng quân sự ở Acre

Các quý tộc ở Jerusalem hoan nghênh sự có mặt của quân đội đến từ Châu Âu và họ rằng nên tổ chức một hội đồng quân sự để quyết định đâu là mục tiêu tốt nhất cho quân viễn chinh. Sự kiện này diễn ra vào ngày 24 tháng 6 năm 1148, khi Cour Haute của Jerusalem ( đây tương tự như một nghị viện thời Trung cổ của Jerusalem ) gặp quân viễn chinh đến từ Châu Âu tại Palmarea-một thành phố lớn của ở Vương quốc Jerusalem của quân thập tự chinh ở gần Acre. Đây là cuộc họp ngoạn mục nhất trong sự tồn tại của nó (Cour Haute của Jerusalem) .

Cuối cùng, (Hội đồng quân sự ở Acre ) đã quyết định phải tấn công thành phố Damascus, một đồng minh cũ của Vương quốc Jerusalem lúc này đã chuyển sang liên minh với người Zengid và tấn công thành phố Bosra vốn đang liên minh với Vương quốc Jerusalem trong năm 1147. Trong tháng 7 quân đội của họ ( Thập tự quân) được tập hợp tại Tiberias và hành quân đến Damascus bằng cách qua biển Galilee và Banyas. Có lẽ họ có tổng cộng 50.000 quân.

Cuộc bao vây Damascus

Cuộc bao vây Damascus đã diễn ra trong bốn ngày vào tháng 7 năm 1148, trong cuộc Thập tự chinh thứ hai. Nó đã kết thúc với một thất bại mang tính quyết định thập tự chinh và dẫn tới sự tan vỡ của cuộc thập tự chinh này. Như đã nói ở phần trên hai lực lượng người Kitô giáo được lãnh đạo bởi Louis VII của Pháp và Conrad III của Đức hành quân đến thánh địa để hưởng ứng lời kêu gọi Giáo hoàng Eugenius III và Bernard của Clairvaux về cuộc Thập tự chinh lần thứ hai. Cả hai ( quân Pháp và quân Đức) đều phải đối mặt với thảm họa bị tiêu diệt khi hành quân qua vùng Anatolia trong những tháng tiếp theo và phần lớn quân đội của họ đã bị phá hủy. Mục tiêu tập trung ban đầu của cuộc thập tự chinh là Edessa, nhưng ở Jerusalem, nhưng vua Baldwin III của Jerusalem và các Hiệp sĩ Templar lại muốn tấn công Damascus. Tại Hội đồng Acre, các Đại quý tộc từ Pháp, Đức và Vương quốc Jerusalem đã quyết định chuyển hướng của cuộc thập tự chinh đến Damascus.

Thất bại thảm hại tại Damascus

Quân viễn chinh quyết định tấn công Damascus từ phía tây, nơi mà Jerusalem sẽ cung cấp cho họ một nguồn quân lương ổn định. Họ đến Daraiya vào ngày 23 tháng 7 với đội tiên phong là quân đội của Jerusalem, theo sau là quân của Louis và hậu đội là quân của Conrad. Người Hồi giáo đã được chuẩn bị tốt để giáng trả các cuộc tấn công và liên tục quấy rối các đạo quân tấn công khi họ tiến qua các vườn cây ăn quả ở bên ngoài Damascus vào ngày 24 tháng 7. Các vườn cây ăn quả được bảo vệ bởi các tháp và các bức tường và các thập tự quân đã liên tục bị tấn công bằng cung tên và các mũi lao dọc theo những con đường hẹp.

Nhờ một đợt tấn công đầy nỗ lực do Conrad chỉ huy, quân viễn chinh mới đẩy lực lượng trở lại phía sông Barada và thành Damascus. Khi đến bên ngoài các bức tường của thành phố, họ ngay lập tức bố trí bao vây và sử dụng gỗ từ vườn cây ăn quả để làm các phương tiện công thành. Bên trong thành phố người dân đã ngăn các đường phố chính và chuẩn bị cho những gì họ tin là một cuộc tấn công không thể tránh khỏi. Unur đã tìm sự giúp đỡ từ Saif ad-Din Ghazi I ( vua) của Mosul và Nur ad-Din Zangi ( vua) của Aleppo, và bản thân ông cũng dẫn đầu một tấn công vào doanh trại của quân thập tự chinh, họ ( thập tự quân) bị lui đẩy trở lại từ bên ngoài các bức tường thành vào trong vườn cây ăn trái, nơi họ dễ bị phục kích và tấn công theo kiểu du kích. Theo William của xứ Tyre, ngày 27 tháng 7 thập tự quân quyết định chuyển đến đóng quân ở đồng bằng phía đông của thành phố nơi có ít các công sự ( của người Hồi giáo) hơn nhưng cũng lại ít lương thực và nước hơn.

Có những xung đột nổ ra trong nội bộ của cả hai phe: Unur không tin tưởng Saif ad-Din hoặc Nur ad-Din vì sợ rằng họ sẽ thuận tay dắt bò ( ý nói là nhân cơ hội này sau khi đẩy lui Thập tự quân họ sẽ chiếm luôn Damacus) và quân viễn chinh không thể nhất trí về việc ai sẽ tiếp quản thành phố nếu họ chiếm được nó. Guy Brisebarre-lãnh chúa của Beirut đề nghị để quyền quản lý lại cho các nhà lãnh đạo địa phương, nhưng Thierry của Alsace- Bá tước của Flanders lại muốn có nó cho chính mình và ông này lại được hỗ trợ bởi Baldwin, Louis và Conrad. Một số tài liệu đã ghi lại là Unur đã tìm cách mua chuộc các thủ lĩnh Thập tự quân để họ di chuyển đến một vị trí ít được phòng thủ hơn và rằng Unur đã hứa sẽ cắt đứt liên minh của ông với Nur ad-Din nếu quân viễn chinh quay về nhà. Trong khi đó Nur ad-Din và Saif ad-Din lúc này đã kéo đến Homs và đàm phán với Unur về quyền sở hữu Damascus, đây là điều mà cả Unur lẫn quân viễn chinh đều không muốn (Unur sợ bị mất đất mà Thập tự quân sợ bị tấn công từ đằng sau ). Dường như Saif ad-Din đã viết một lá thư cho quân viễn chinh và kêu gọi họ trở về nhà. Với việc ad Nur-Din đã vào vị trí chiến đấu thì quân Thập tự chinh không thể quay trở về vị trí tốt hơn của họ ( ở phía Tây thành phố). Các thủ lĩnh địa phương của quân thập tự chinh từ chối tiếp tục với cuộc bao vây và ba vị vua đã không còn lựa chọn nào khác và phải bỏ thành phố. Đầu tiên là Conrad sau đó là phần còn lại của quân đội, họ quyết định rút về Jerusalem vào ngày 28 tháng 7, mặc dù đã rút lui toàn bộ, họ vẫn bị đeo bám và quấy rối bởi các cung kỵ Thổ Nhĩ Kỳ.

Hậu quả của cuộc Thập tự chinh lần 2

Mỗi lực lượng Kitô giáo lại cảm thấy bị phản bội bởi một lực lượng Kitô giáo khác. Một kế hoạch mới đã được thực hiện để tấn công Ascalon và Conrad cùng quân đội của ông đã đến đó, nhưng không có lực lượng Thiên chúa giáo nào nữa và đến tham gia cùng ông, do sự thiếu tin tưởng lẫn nhau nên kết quả là cuộc vây hãm đã không thành công. Sự mất lòng tin lẫn nhau kéo dài sự thất bại trong một thế hệ, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của các vương quốc Kitô giáo trong vùng Đất Thánh. Sau khi dỡ bỏ vây ở Ascalon, Conrad trở về Constantinople để tiếp tục liên minh với Manuel ( để chống lại Roger II của Sicily ) còn Louis của Pháp quốc thì tiếp tục ở lại Jerusalem cho đến năm 1149.

Quay trở về châu Âu, Bernard của Clairvaux ( người đại diện của Giáo Hoàng) coi thất bại là một sự nhục nhã. Bernard nhiệm vụ của mình là phải gửi một lời xin lỗi đến Giáo hoàng và nó được thêm vào phần thứ hai trong cuấn Book of Consideration của ông. Ông giải thích rằng chính những tội lỗi của quân viễn chinh là nguyên nhân của sự bất hạnh và thất bại của họ. Khi cố gắng của ông để kêu gọi một cuộc thập tự chinh mới không thành công, ông đã cố gắng tách mình ra khỏi sự thất bại của cuộc Thập tự chinh thứ hai. Ông chết vào năm 1153.

Cuộc Thập tự chinh vào người Wendish ( Tây Slav) đạt được kết quả khác nhau. Trong khi người Saxon ( ở lục đia châu Âu-không phải ở nước Anh) khẳng định quyền sở hữu của họ ở Wagria và Polabia, người ngoại đạo lại vẫn giữ được quyền kiểm soát vùng đất Obodrite-phía đông của Lübeck. Người Saxon cũng nhận được phần thưởng từ giáo trưởng Niklot, đó là vùng lãnh địa Giám mục Havelberg , và họ đã phóng thích một số tù nhân người Đan Mạch. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Kitô giáo đã tỏ ra nghi ngờ các đối tác của họ và thường cáo buộc lẫn nhau về các chiến dịch phá hoại. Tại bán đảo Iberia, các chiến dịch tại Tây Ban Nha, cùng với cuộc bao vây thành công Lisbon được xem là những thắng lợi duy nhất của người Kitô giáo trong cuộc Thập tự chinh lần thứ hai. Chúng ( các chiến thắng này) được xem là những trận đánh then chốt để mở rộng phong trào Reconquista ( tái chinh phục Tây ban nha và Bồ đào nha về tay người Kitô giáo) ra rộng hơn nữa và phong trào này sẽ hoàn thành vào năm 1492.

Ở phương Đông tình hình đã trở nên xấu hơn đối với các Kitô hữu. Tại Đất Thánh, cuộc Thập tự chinh lần thứ hai đã để lại hậu quả tai hại lâu dài cho Jerusalem. Damascus không còn tin vào các thành bang thập tự chinh nữa ( trước đây họ đã từng liên minh với người Kitô giáo để giữ cân bằng tại khu vực này ), và thành phố đã được bàn giao cho Nur ad-Din vào năm 1154. Baldwin III cuối cùng đã chiếm giữ Ascalon vào năm 1153, và đưa Ai Cập vào sâu hơn trong các cuộc xung đột. Vương quốc Jerusalem đã có thể đánh bại người Ai Cập và chiếm được Cairo trong một thời gian ngắn trong những năm 1160. Tuy nhiên, quan hệ với Đế quốc Byzantine thì lẫn lộn cả tốt lẫn xấu, và quân tiếp viện từ châu Âu lại rất thưa thớt sau thảm họa của cuộc Thập tự chinh lần thứ hai. Vua Amalric I của Jerusalem đã liên minh với người Byzantine và tham gia vào một cuộc xâm lược kết hợp vào Ai Cập trong năm 1169, nhưng cuộc viễn chinh cuối cùng đã không thành công. Năm 1171, Saladin-cháu trai của một trong những tướng lĩnh của Nur ad-Din, đã tuyên bố làm Sultan của Ai Cập và thống nhất Ai Cập với Syria và hoàn toàn bao quanh các vương quốc thập tự chinh. Trong khi đó liên minh với người Byzantine đã kết thúc với cái chết của hoàng đế Manuel I năm 1180 và năm 1187, Jerusalem đã phải đầu hàng trước Saladin. Sau đó lực lượng của ông này đã tràn lên phía bắc để chiếm tất cả các thành phố thủ phủ của các thành bang thập tự chinh còn lại và sự kiện này chính là nguyên nhân chính của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba.

0