Bối cảnh Đông Nam Á thời tiền sử
Lâm Thị Mỹ Dung dzunglam.blogspot.com I. Bối cảnh Đông Nam Á I.1. Bối cảnh Đông Nam Á: Tự nhiên – Con người – Văn hoá Về địa lý, Đông Nam Á bao gồm hai khu vực: Đông Nam Á hải đảo có các nước Malaysia, Singapore, Indonesia, Đông Timor, Brunei, Philippines; và Đông ...
Lâm Thị Mỹ Dung
dzunglam.blogspot.com
I. Bối cảnh Đông Nam Á
I.1. Bối cảnh Đông Nam Á: Tự nhiên – Con người – Văn hoá
Về địa lý, Đông Nam Á bao gồm hai khu vực: Đông Nam Á hải đảo có các nước Malaysia, Singapore, Indonesia, Đông Timor, Brunei, Philippines; và Đông Nam Á lục địa: Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam. Từ góc độ sinh thái và văn hoá, Đông Nam Á còn bao gồm cả một phần khu vực tây nam Trung Hoa gồm các tỉnh Vân Nam và vùng Lưỡng Quảng (Quảng Tây, Quảng Đông).
Nhìn trên bản đồ thế giới, Đông Nam Á được thể hiện bằng một dải nếp gấp nhiều màu ở phần đông nam châu Á. Dải này bị thu hẹp bởi khối á lục địa Trung Quốc và Ấn Độ ở phía bắc, phía tây và châu Úc ở phía nam.
Đông Nam Á trải rộng trên một diện tích 3.9 triệu km2 với dân số trên 300 triệu dân và có 10 quốc gia. Tính từ tây sang đông trên phần lục địa là các nước Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, tính từ đông sang nam nằm trong khu vực Biển Đông là một tập hợp các quốc gia quần đảo là các nước Malaysia, Singapore, Brunei, Indonesia, Đông Timor và Philippnes.
Theo quan điểm hiện nay, Đông Nam Á là một bộ phận mang tính toàn thể riêng của châu Á, chứ không chỉ đơn thuần là phần Nam của châu Á hay phần Đông của châu Á. Như vậy, Đông Nam Á là một thực thể riêng biệt có những tương đồng về lịch sử và văn hoá được hình thành và phát triển trên cơ sở của Hệ sinh thái phổ tạp (General ecosystem) với những đặc trưng cơ bản: Chỉ số đa dạng về giống loài cao; Khả năng tái sinh nhanh; nhưng, Số lượng trên mỗi giống loài thường thấp. Ba đặc trưng đó được hình thành trên cơ sở điều kiện Nóng – Ẩm – Gió mùa đặc thù của Đông Nam Á, địa hình bị chia cắt thành những không gian sinh tồn tương đối nhỏ hẹp bởi nằm ở khu vực chân núi cao của lục địa châu Á và là những quốc gia cận biển, trên biển và có chỉ số duyên hải cao.
Kết quả nghiên cứu của nhiều ngành chuyên môn đặc biệt là khảo cổ học và nhân học cho thấy, ngay cả khi các quốc gia khu vực có sự tiếp nhận, chịu ảnh hưởng từ môi trường văn hoá bên ngoài, thì sớm muộn những nhân tố ngoại nhập đó cũng có những biến đổi thậm chí được tái cấu trúc để tương thích với môi trường văn hoá mới, với những quan niệm bản địa về vũ trụ, thân phận, quan hệ xã hội, quyền lực và tín ngưỡng.
Trong những thập kỷ gần đây, trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu vốn có, các học giả khu vực và quốc tế đa đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong nghiên cứu những đặc tính lịch sử, văn hoá khu vực. Những thành tựu đó không chỉ làm sáng tỏ nhiều vấn đề học thuật, thay đổi nhận thức truyền thống về Đông Nam Á mà còn có nhiều đóng góp cho việc xây dựng các mô hình lý thuyết xã hội, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sắc tộc và mối quan hệ thân tộc trong một sắc tộc, giữa các sắc tộc và với môi trường xã hội tương ứng, về sự hình thành dân tộc và năng lực ứng biến trước những nền văn hoá, văn minh lớn của chung văn hoá khu vực cũng như của mỗi quốc gia.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, phải đến thời kỳ diễn ra cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai thì khái niệm “Đông Nam Á” mới xuất hiện cùng với việc Bộ chỉ huy liên quân Anh – Mỹ thiết lập Bộ chỉ huy đồng minh (Southeast Asia Command) nhằm ngăn chặn sự bành trướng của quân đội Nhật Bản xuống khu vực Đông Nam của châu Á. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XIX hai nhà khoa học là Malte Brun (quốc tịch Pháp) và Leyden (Anh) đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Indo – Chine” với ý nghĩa như một khu vực địa – văn hoá nằm giữa hai trung tâm văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên, khái niệm đó chỉ bao gồm các nước Đông Nam Á lục địa còn các quốc đảo phía đông nam thì vẫn nằm ngoài quan niệm của các tác giả. Tuy cách hiểu về Đông Nam Á vẫn còn nhiều sai lệch nhưng cho đến đầu thế kỷ XX, nhận thức của thế giới về Đông Nam Á ngày càng trở nên hoàn chỉnh. Và, Đông Nam Á không chỉ là khu vực được giới nghiên cứu, chính quyền các quốc gia châu Âu quan tâm mà một số nước ở châu Á cũng rất chú ý đến những đặc trưng văn hoá tiêu biểu và diễn tiến của đời sống lịch sử, văn hoá khu vực. Vào thời cải cách Minh Trị (1868-1912), một bộ phận trí thức và chính giới Nhật Bản cũng rất quan tâm đến các quốc gia khu vực. Mặc dù vậy, cho đến giữa thế kỷ XX, dưới nhãn quan của không ít học giả quốc tế trong đó đặc biệt là giới nghiên cứu Âu – Mỹ thì Đông Nam Á chỉ được coi là vùng “Ngoại Ấn”, “Indo – China”, “Đông Dương”, “Đông Pháp”, hay khu vực “Biển Nam”, “Nan’ yo” (Nam Dương), “Tonan Ajia” (Đông Nam Á)… theo cách hiểu của người Trung Quốc và Nhật Bản.
Sau khi chiến tranh kết thúc, cùng với những thành tựu nghiên cứu mới và sự trưởng thành về nhận thức khoa học, Đông Nam Á mới được xem là một khu vực với những đặc điểm riêng biệt. Mặc dù trước đó, từ thế kỷ XIX một số nhà khoa học Pháp, Đức, Anh và Nhật Bản đã có những bài viết, công trình viết về địa lý, văn hoá và lịch sử khu vực. Những thành tựu nghiên cứu khoảng 4 thập kỷ trở lại đây cho phép chúng ta có thể kết luận rằng, Đông Nam Á phải được coi là Trung tâm quan trọng của văn minh gắn với những dấu ấn khởi nguồn của văn minh nhân loại và chí ít trong hai nghìn năm lại đây Đông Nam Á từng giữ vai trò tích cực trong lịch sử châu Á và lịch sử thế giới.
Nếu có cái nhìn phân lập thì trên thực tế Đông Nam Á sự hợp thành của hai “thế giới” về cả tự nhiên, lịch sử và văn hoá. Những nước ở Đông Nam Á lục địa nằm trên lãnh thổ được hình thành bởi phù sa của những dòng sông nhìn chung đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của lục địa châu Á chảy theo hướng tây bắc – đông nam rồi đổ ra biển. Các hệ thống sông lớn của châu Á lục địa như Hồng Hà, Mekong, Chao Phraya (Mê Nam) đều tuân thủ theo hướng chảy này. Là những quốc gia có nền tảng kinh tế nông nghiệp, cư dân Đông Nam Á lục địa sống chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa nước đoàn tụ trong cơ cấu xóm làng, buôn, phum. sóc… Trong khi đó, cư dân ở Đông Nam Á hải đảo sống chủ yếu dựa vào khai thác biển qua những hoạt động phi nông nghiệp như đánh cá và buôn bán. Dù vậy, theo các nhà nghiên cứu, bất kể những khác biệt do sự thích ứng với môi trường tự nhiên và mối quan hệ với bên ngoài thì những đặc điểm văn hoá và kinh tế cơ bản đã làm cho những nền văn hoá Đông Nam Á có những nét tương đồng, gần gũi nhau và làm cho chúng khác với những văn minh láng giềng Trung Hoa và Ấn Độ.
Một trong những nét chung của Đông Nam Á là mật độ dân số tương đối thấp, năng suất lúa khá cao, kỹ thuật nông nghiệp phù hợp với sản xuất hộ gia đình có quy mô nhỏ. Trong lịch sử, cư dân Đông Nam Á đã tiến hành nền kinh tế nông nghiệp đa canh kết hợp với săn bắt, hái lượm. Hoạt động kinh tế đó đảm bảo cho cư dân trong khu vực một cuộc sống bình dị, hoà hợp với tự nhiên trong một xã hội có tính liên kết cộng đồng chặt chẽ.
Với quan niệm coi văn hoá là sự phản ứng và cách ứng xử có tính chất chung của một cộng đồng người trước những đặc tính của tự nhiên, xã hội và là mẫu số chung của tâm trí cộng đồng bao gồm cả những cảm thụ bên trong và tri thức biểu hiện ra bên ngoài, các nhà nghiên cứu đã xác định một số đặc điểm của văn hoá Đông Nam Á bản địa trước khi bị ảnh hưởng của Trung Hoa và Ấn Độ như sau:
Về đời sống tinh thần: Người Đông Nam Á coi trọng truyền thuyết nhị nguyên về vũ trụ (yếu tố cái – liên quan đến sinh nở, chiếm ưu thế), thuyết vạn vật hữu linh, thờ cúng tổ tiên, thần đất…
Về văn hoá vật thể: Cư dân khu vực chủ yếu là trồng lúa nước với quy mô sản xuất nhỏ (tổ chức xã hội tương ứng), thuần dưỡng trâu bò, sản xuất và sử dụng thành thạo kim loại, kỹ thuật khai thác và vận chuyển sông, biển phát triển…
I.2. Điều kiện tự nhiên – sinh thái và không gian địa – văn hoá
Trước khi đề cập đến một số khía cạnh cụ thể về điều kiện sinh cảnh và môi trường văn hoá Đông Nam Á, ta cần lưu ý rằng, ngay từ thế Cánh Tân (Pleistocene), điều kiện tự nhiên ở Đông Nam Á không thay đổi nhiều so với hiện nay. Môi trường tự nhiên này rất thuận lợi cho sự phát sinh và phát triển con người và đã làm hình thành những đặc điểm riêng của văn hoá khu vực.
– Không gian địa – văn hoá, “Thống nhất trong đa dạng”: Đông Nam Á (bao gồm cả miền nam Trung Hoa từ phía nam Trường Giang) là một trong ba vùng văn hoá chính của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hai vùng còn lại là vùng Đông Bắc và vùng Trung tâm, những vùng này lại bao gồm những tổ hợp lớn và phức tạp của nhiều tiểu vùng văn hoá. Ngoài ra, liên quan gián tiếp tới vùng châu Á – Thái Bình Dương còn có nhiều những khu vực xa hơn khác như Hải đảo Thái Bình Dương gồm Australia, New Zealand, Melanesia, Polynesia và Micronessia. Bốn nơi này đặc biệt gắn liền với Đông Nam Á hải đảo do bản chất tự nhiên của quá trình “thuộc địa hoá” sớm và những đợt chuyển di dân cư từ cách đây 5 đến 4 nghìn năm. Thêm vào đó, miền Nam châu Á (Pakistan, India, Bangladesh, Nepal) cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn tiền sử muộn và lịch sử Đông Nam Á.
Đông Nam Á là một khu vực riêng biệt giữa vùng châu Á gió mùa rộng lớn. Tính riêng biệt này xuất phát trước hết từ vị thế địa lý và sau đó là từ tính chất vật lý của Đông Nam Á. Các nghiên cứu liên ngành về lịch sử – văn hoá khu vực đã xác định ba đặc trưng sinh thái nhân văn sau (xem cỏc nghiờn cứu của dự án vùng khô ở ĐNA):
1. Đông Nam Á trải dài theo xích đạo và nằm gọn trong vùng nhiệt đới ẩm với một số tiểu khu vực thuộc chế độ Á nhiệt đới. Đông Nam Á nóng hơn Trung Hoa và ẩm hơn Ấn Độ.
2. Đông Nam Á từng được xem là vùng nằm xa các trung tâm của quá trình phát tán của nhân loại giai đoạn khởi đầu (những trung tâm này được xem là nằm sâu trong lục địa) hơn là Trung Hoa và Ấn Độ. Nguyên nhân chính là do những dãy núi lớn – rào chắn dọc theo điểm phía bắc và biên giới nước ở phía nam. Đối với Đông Nam Á, giao lưu bằng đường biển mạnh hơn so với Trung Hoa và Ấn Độ.
3. Vụng, vịnh biển thâm nhập sâu vào Đông Nam Á, đối ngược với những dải đất lớn bao quanh của Trung Hoa và Ấn Độ do vậy giao lưu tiếp xúc qua đường biển rất nhộn nhịp ngay từ thời cổ đại.
Trên thực tế, ta thấy bức tranh toàn cảnh rất đa dạng và thật khó xác định tính thống nhất của khu vực này. Xét về khí hậu, có thể đồng ý rằng trong khi cùng là vùng á nhiệt đới gió mùa ở một mức chung nào đó, những ảnh hưởng của gió mùa lại được điều tiết bởi vô vàn những yếu tố địa phương như khoảng cách đối với biển, toạ độ và quan hệ với cao nguyên, lượng mưa, thời hạn của mùa khô… Mặt khác, về chính trị và văn hóa, khu vực này cũng chưa bao giờ là thể thống nhất. Tình trạng đa dạng này đặc biệt thể hiện rõ nét trong các ngữ hệ ở Đông Nam Á.
Sự đa dạng này đóng vai rất quan trọng trong diễn trình văn hoá, song giá trị của Đông Nam Á như một khu vực riêng biệt trên đại thể đã được các nhà nghiên cứu nhận biết ở một số khía cạnh:
Các hệ sinh thái nhiệt đới Đông Nam Á đều có tính chất phổ tạp với chỉ số đa dạng cao, đặc biệt là chỉ số đa dạng về thực vật so với những rừng mưa nhiệt đới ở châu Mỹ, châu Phi.
Tuy đều chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu nóng ẩm và gió mùa, xong tác động của chế độ gió, nhiệt độ, độ ẩm… lại biến thiên ở biên độ rộng tại hai khu vực riêng biệt là Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Ngay cả ở mỗi khu vực hay tiểu vùng Đông Nam Á riêng này cũng có sự biến đổi tuỳ theo mỗi miền và những khác biệt giữa các tiểu hệ sinh thái ví dụ như hệ sinh thái rừng mưa tức rừng thường xanh ẩm không phân mùa và rừng gió mùa hay rừng nửa rụng lá phân mùa… Tất cả đều tạo ra sự thích ứng riêng biệt của mỗi nhóm cư dân.
Sự biến chuyển môi trường trong thời tiền sử từ Pleistocene (Cánh tân) đến Holocene (Toàn tân) ở Đông Nam Á diễn ra một cách không đồng đều ở các vùng khác nhau. Do vậy, chúng dẫn đến sự biến chuyển văn hoá không đồng đều ngay từ thời đại đá và hệ quả là đã tạo ra một bức khảm đa sắc, đa diện về lối sống của cư dân, về kỹ thuật chế tác công cụ, về trình đô và cách thức tổ chức xã hội…
Tuy vậy, văn hoá Đông Nam Á ngay từ thời tiền sử đã thể hiện những xu thế chung trong việc thích nghi với môi trường tự nhiên.
Trong giai đoạn tiền sử chúng ta nhận thấy tính chặt chẽ trong sự thích ứng của con người với bốn hệ thống sông lớn và những vùng đất cao ở giữa. Cách đây khoảng 6.000 năm những nhóm cư dân hái lượm thường tập trung ở những vùng đất cao của các cánh rừng mưa nhiệt đới mà lối sống của họ trái ngược với những cộng đồng xã hội có mật độ cư dân đông đúc ở vùng ven biển. Từ sau thời kỳ này, ta có thể nhận thấy sự đồng dạng trong quá trình mở rộng những làng cư trú ở các châu thổ sông trong đất liền. Đây cũng là nền tảng cho sự phát triển những nhà nước sơ khai còn được gọi là các “Tù trưởng quốc” trung tâm hay “Lónh chủ địa phương” (Chiefdoms). Các nhà nước sơ khai đó thường dựa vào các thung lũng, phát triển dọc theo hệ thống sông. Các dòng sông không chỉ nuôi dưỡng văn hoá mà còn đóng vai trò truyền dẫn lan toả văn hoá rất quan trọng. Một trong những biểu hiện rõ ràng nhất là kỹ thuật luyện kim đồng ở châu thổ sông Hồng và sông Mekong… Không gian văn hoá và vòng lan toả văn hoá của người xưa có nhiều khác biệt so với những đường biên chính trị cứng nhắc và các ý tưởng mới, kỹ thuật canh tác, luyện kim mới đã trôi chảy theo mạng lưới liên kết giữa các cộng đồng cư dân mà ở đó được điều hành chủ yếu bởi một thiết chế tự trị.
– Các nhóm ngôn ngữ và tộc người: Thế cài răng lược và tính chất mosaic (khảm) của các nhóm tộc người: Mặc dù còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về phân kỳ khảo cổ ở Đông Nam Á, xong có thể khái quát rằng vào thời điểm biến chuyển từ Pleistocene sang Holocene (cách đây khoảng trên một vạn năm), Đông Nam Á lục địa là không gian phân bố của văn hoá Hoà Bình (nền văn hoá thuộc sơ kỳ thời đại đá mới). Vào hậu kỳ đá mới, các nền văn hoá mang tính địa phương đã khu biệt lại tại một số địa bàn hẹp. Sang đến thời đại kim khí các nền văn hoá có xu hướng mở rộng không gian phân bố nhưng vẫn đậm tính địa phương. Cũng vào thời kỳ này, sự phân bố của các nhóm hay nền văn hoá được xem là có liên quan đến nhóm ngôn ngữ và tộc người.
Cho tới thời điểm này, theo đa số các nhà nghiên cứu có ba ngữ hệ hay ba ngữ tộc lớn trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Đó là các ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic); Nam Đảo (Austonesian) và Tày – Thái (Tai). Nền tảng của ngữ hệ Nam Á và Nam Đảo là ngôn ngữ Austric (phương Nam). Nghiên cứu sự hình thành và quê hương của các ngữ hệ này, GS. Hà Văn Tấn đi tới kết luận rằng Ngữ hệ Nam Đảo gắn với bôn có nấc và quê hương của ngữ hệ này là vùng ven biển Đông Nam Á và đông nam Trung Quốc. Khu vực hình thành ngữ hệ Nam Á, là vùng phân bố cơ bản của rìu có vai trên bán đảo Đông Dương. Nơi hình thành ngữ hệ Thái là vùng nam Trung Hoa và có thể một phần bắc Đông Dương. Nó có thể lan sang phía đông và tiếp xúc với các nhóm Nam Đảo. Điều này cắt nghĩa sự gần gũi giữa ngôn ngữ Nam Đảo và ngôn ngữ Thái[1].
Sự hình thành các cộng đồng tộc người, cộng đồng ngôn ngữ ở Đông Nam Á diễn ra vào giai đoạn hậu kỳ đá mới (khoảng thiên niên kỷ III trước Công nguyên). Các nhà nghiên cứu đã phân chia bốn khu vực cộng đồng tộc người – ngôn ngữ ở Đông Nam Á là: 1. Nam Trung Quốc, Đài Loan, Đông Bắc Việt Nam, Philippines gắn với khối Nam Đảo; 2. Lục địa Đông Nam Á (trừ bán đảo Mã Lai) gắn với khối Nam Á; 3. Bán đảo Mã Lai, Tây Indonesia và 4. Đông Indonesia[2]. Điểm cần lưu ý là ngay từ thời tiền, sơ sử, xu hướng di chuyển và sống xen cài của các nhóm ngôn ngữ tộc người ở Đông Nam Á đã rất rõ nét.
– Vai trò của các dòng sông, biển và giao lưu đường biển thời cổ trung đại và tính đa dạng của khí hậu, địa mạo:
– Biển và giao lưu đường biển: Về mặt địa – sinh thái, Đông Nam Á nổi lên 4 nhân tố chính 3.
– Hải đảo Nhiệt đới (Tropical Islands):
Đường xích đạo cắt ngang qua ba vùng trên thế giới: Lưu vực Amazzon, lưu vực Congo và Đông Nam Á. Trong khi hai vùng đầu là lục địa thì vùng thứ ba là hải đảo. Số đảo ở Đông Nam Á là rất lớn, có những quốc gia có hàng nghìn đảo lớn nhỏ khác nhau. Một số trong các đảo đó có diện tích rất lớn như đảo Borneo có diện tích tới 750.000 km2, lớn thứ 3 trên thế giới; Sumatra 520.000 km2, lớn thứ 6… Tỉ lệ giữa đất liền và bờ biển ở Đông Nam Á là 5, tức 1km đường bờ biển trên 5 km2 đất liền. Tỉ lệ này ở Trung Hoa là 500 và ở Nhật Bản là 20. Đường bờ biển dài trên một đơn vị đất liền đã gây ra độ ẩm cao. Hệ quả là, Đông Nam Á là nơi có độ ẩm cao nhất thế giới. Nhiệt độ và độ ẩm cao đã tạo ra thiên đường cho cây cỏ để rồi tạo nên một hệ thực vật đặc thù với các cây hương liệu nổi tiếng thế giới. Bên cạnh đó, bờ biển dài tạo ra một không gian văn hoá mở và môi trường rộng lớn, năng động cho sự thâm nhập thế giới bên ngoài qua trao đổi. Như thế, Đông Nam Á trở thành trung tâm của những sản phẩm nhiệt đới đối với thế giới bên ngoài.
– Biển của các thế giới (The sea of the worlds): Nhìn trên bản đồ thế giới chúng ta thấy dường như ba đại dương có xu thế chia cắt thế giới, hay ngăn cách giữa các khu vực văn minh. Trước thế kỷ XVI, không có bất cứ đường hàng hải nào giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, cũng như giữa Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Chỉ có đường hàng hải giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, một số tuyến hàng hải này đi ngang qua Đông Nam Á như Malacca, Sunda và Lombok. Do vậy, biển Đông Nam Á đã giữ vai trò truyền tải, tiếp giao các dòng chảy văn hoá, văn minh trong suốt thời kỳ cổ trung đại.
– Biển hướng ngoại (Outward-looking seas): Đông Nam Á dân số thưa, tỷ lệ dân số trên 1km đường bờ biển là 40, trong khi ở Trung Hoa là 570 người. Các nước ở Đông Nam Á (trừ Việt Nam và Java) nhìn chung theo Hla Myint là loại “hướng ngoại” với đặc điểm tuy lãnh thổ nhỏ, dân số ít, song lượng hàng xuất khẩu dồi dào. Những nước này phát triển thị trường bên ngoài, trong khi thị trường và vốn nội địa hạn chế.
– Sự cân bằng giữa mạng lưới trao đổi đường biển và nội địa: Nhìn tổng thể, khu vực núi và Savan ở Đông Nam Á là những vùng tự cung tự cấp dựa trên văn hoá bản địa và nguồn tài nguyên khá dồi dào. Do vậy, họ có thể không cần đến hàng hoá của thế giới bên ngoài cho đời sống của họ. Tuy vậy, vì buôn bán đường biển rất thuận lợi nên việc trao đổi giữa các vùng đặc biệt phát triển. Dù theo cách thức nào thì những nhân tố của thế giới văn minh bên ngoài đã thâm nhập vào những khu vực văn hoá nội địa và chúng được tích luỹ và hoà trộn với những văn hoá địa phương tạo nên những văn hoá khu vực mới.
– Sông và châu thổ chính ở Đông Nam Á lục địa: Từ trung tâm của phía đông Himalaya, hàng loạt những sông lớn toả ra phủ khắp Đông Nam Á lục địa. Những con sông này luôn được cung cấp nước từ các nguồn tuyết và băng tan vào mùa mưa gió mùa tháng 5, chúng chảy cắt theo thung lũng của những rặng núi và tạo nên các châu thổ và đồng bằng ngập nước mà hiện nay nuôi sống 1/6 dân số thế giới. Nằm giữa sông Brahmaputra ở phía tây đến Trường Giang chúng ta thấy có những sông như Chindwin, Irrawaddy, Salween, Chao Phraya, Mekong, sông Hồng và nhiều sông nữa tưới cho vùng Lĩnh Nam và hợp vào để tạo ra Zhungjiang (Trường Giang). Trong khu vực mà những cơn mưa gió mùa kích thích sự tăng trưởng của rừng bao phủ rậm rạp, bao gồm cả loại rừng phủ ba tầng thì những dòng sông này trong lịch sử là những dòng chủ lưu chuyên chở con người, hàng hoá và cả những ý tưởng.
Đông Nam Á lục địa là chủ thể của gió mùa và tác động của gió mùa dao động tuỳ theo địa hình địa phương. Điều này gây ra sự khác biệt lớn giữa mùa mưa và mùa khô, mặc dù nhiệt độ (ngoại trừ ở những vùng cao) hầu như rất ít khi xuống dưới 100C. Ngành kinh tế chính ở vùng thấp, nơi tập trung phần lớn các địa điểm thời đại đồng thau là trồng lúa, đánh cá và chăn nuôi. Vào thời kỳ cuối của thiên niên kỷ I trước Công nguyên, ảnh hưởng của Trung Hoa bắt đầu vươn tới Đông Nam Á, và ban đầu tập trung ở những khu vực như Vân Nam, Lĩnh Nam và Bắc Bộ.
Theo quan điểm của nhiều học giả, Đông Nam Á lục địa là nơi cư dân nói tiếng Nam Á sống trong bối cảnh cư trú nóng, gió mùa với nền kinh tế dựa trên cơ sở trồng lúa. Những rừng rậm tự nhiên bao phủ đã làm tăng tầm quan trọng của những đợt chuyển dịch cư dân theo đường sông và theo bờ biển. Chiếm lĩnh những lãnh thổ dọc chiều dài của những đường truyền thông này, cư dân thời tiền sử ở Đông Nam Á lục địa đã khu trú và phát triển bốn khu vực văn hoá- kinh tế chủ đạo và trong thời sơ sử, bốn khu vực này phát triển thành bốn trung tâm văn minh tiêu biểu- Những nền văn minh theo các dòng sông, đó là: Châu thổ sông Chao Phraya và Mekong, Lĩnh Nam, Bắc Bộ và Vân Nam – Trường Giang, sông Hồng.
– Đông Nam Á hải đảo (Quần đảo Indo-Malaysia): Khu vực này hiện nay gồm tất cả các đảo của Indonesia và Malaysia (kể cả bán đảo Malaya phía nam Thái Lan). Phần trung tâm của quần đảo này trải rộng từ 7 độ vĩ Bắc (Bắc Malaya và Borneo) đến 11 độ vĩ Nam (Sumba và Timor), và từ đỉnh phía đông của Sumatra đến Moluccas. Toàn bộ khu vực này dài khoảng 4.200km trên 2.000km từ bắc đến nam, phần đất liền có diện tích rộng khoảng 1,8 triệu km2, trong đó 80% diện tích nằm ở Indonesia; phần còn lại thuộc về Malaysia (Malaya cộng thêm cả bang Sarawak và Sabah hay Borneo) và Brunei.
Những hòn đảo ở đây có kích thước rất khác nhau; Borneo 736000 km2, Sumatra 435000 km2. Sulawesi 172000 km2. Có thể khái quát là những đảo ở miền tây Indonesia nhìn chung lớn hơn những đảo ở miền đông (trừ Sulawesi). Lý do chính theo các nhà địa chất nằm ở cấu trúc của quần đảo.
Về địa hình, có thể xác định ba cấu trúc rất cơ bản ở Đông Nam Á hải đảo. 1. Ở phía tây, là thềm lục địa Sunda; 2. Vòng cung núi lửa Sunda – Banda và hệ thống dải tiếp cận bờ Ấn Độ dương và trải dài về phía đông tới phía New Guinea; 3. Ở đông bắc là Sulawesi – Philippines và vòng cung núi lửa Halmahera hướng về châu Á từ Thái Bình Dương. Cả khu vực nằm trong vùng nhiệt đới và cần nhấn mạnh rằng nhiệt độ nóng không đổi và chỉ dao động rất ít trong ngày hay theo mùa.
Đặc điểm khí hậu nổi bật nhất là mưa. Có hai vùng mưa chính: 1. Vùng xích đạo, nơi mưa quanh năm, gồm Malaya, Sumatra, Đông Java, Borneo, trung tâm Sulawesi, nam và đông Philippines và một phần Moluccas. 2. Đới có hai mùa khô và mưa rõ rệt, bao gồm vùng đất liền phía bắc của bán đảo Malay, miền tây và miền bắc Philippines, miền nam Sulawesi và những đảo Lessa Sunda từ miền trung Java đổ về phía đông.
– Đa dạng sinh học: Hệ sinh thái Đông Nam Á trên đại thể được phân vào hệ sinh thái phổ tạp với chỉ số đa dạng về loài rất lớn, song số lượng mỗi loài tương đối ít, nói cách khác tức “chỉ số đa dạng cao”. Những nguồn tài nguyên môi trường gồm nhiều cây và con nhất là động vật có vú ở bán đảo Malay, số động vật có vú giảm xuống đáng kể nếu dịch chuyển tới Đông Nam Á hải đảo tới phía đông. Phía đông của đường Wallace (của Huxley) ở miền đông Indonesia số lượng loài giảm xuống đáng kể. Wallacea, nơi bao gồm cả Sulawesi, Moluccas và Lessa Sundas có quần thể động vật hỗn hợp giữa châu Á và châu Úc. Khối đất gọi là Sahulland cấu tạo từ đất Cựu Australia – New Guinea có quần thể động vật riêng biệt trong đó thú có túi nhiều hơn động vật có vú. Chỉ riêng ở New Guinea đã có tới 47 loài thú có túi.
Thực vật cực kỳ phong phú so với những vùng khô cằn và ôn hoà và thể hiện trong rừng nhiệt đới / đa dạng đồng cỏ và gió mùa / thường xanh / khô hạn. Sự thay đổi theo mùa trong khu vực mưa đối nghịch với những giai đoạn rất khô ở phần lớn những vùng của Đông Nam Á.
I.2. Đông Nam Á thời tiền, sơ sử: Cơ tầng văn hoá bản địa
I.2.1. Phân kỳ thời tiền, sơ sử ở Đông Nam Á lục địa: Hiện nay trong giới nghiên cứu khảo cổ học Đông Nam Á tồn tại nhiều cách nhìn khác nhau về phân kỳ thời tiền sơ sử. Có hai quan điểm cơ bản song hành trong nghiên cứu khu vực hiện nay. i. Thứ nhất là cách phân kỳ cổ điển theo ba thời đại (mà điển hình là phân kỳ khảo cổ học Việt Nam; phân kỳ khảo cổ học Thái Lan trong một số chuyên khảo của Ch. Higham…); ii. Thứ hai là phân kỳ dựa vào phương thức kiếm sống.
Đối với Đông Nam Á lục địa, giữa các nhà nghiên cứu hiện nay xu hướng khá phổ biến là chấp nhận (với một số chỉnh sửa và bổ sung) phân kỳ do học giả Higham đưa ra4, mà theo đó Đông Nam Á trải qua những giai đoạn phát triển văn hoá như sau:
a. Giai đoạn D (từ năm 200 sau Công nguyên đến năm 1500): Sự hình thành và lớn mạnh của những nhà nước hay mandala ở vùng hạ lưu sông Mekong, bờ biển Việt Nam, khu vực đông bắc Thái Lan và lưu vực sông Chao Phraya. Tăng cường sự tập trung hoá ở những trung tâm chính trị mang tính vương quyền, tôn giáo tinh thần Ấn Độ, thủ công nghiệp chuyên nghiệp và tiếng Sanskrit. Mandala Angkor thành lập năm 802 thể hiện sự gắn kết chặt chẽ với Ấn Độ. Trung Hoa – Hán cai trị ở Bắc Bộ (Việt Nam).
b. Giai đoạn C (năm 500 năm trước Công nguyên): Luyện kim đen, sự tập trung hoá và hình thành các tù trưởng quốc. Những mối quan hệ đầu tiên với thương nhân Ấn Độ và chiến binh Hán. Tăng cường mạng lưới trao đổi, phân hoá xã hội và nông nghiệp.
Những người thợ luyện kim màu – đồng thau sản xuất những đồ đựng, đồ để dùng uống, những tấm che thân trang trí, bát… (tìm thấy trong những mộ thuyền). Quá trình tập trung hoá và những tổ hợp tù trưởng quốc; luyện kim đen và luyện kim màu tinh xảo.
c. Giai đoạn B (2.000 trước Công nguyên năm đến 500 trước Công nguyên): Luyện kim đồng thau xuất hiện trong những cộng đồng tự trị vùng đất thấp. Quặng được khai thác ở vùng cao, những thỏi nguyên liệu được trao đổi và đúc những công cụ ở vùng đất thấp. Tăng cường sự phân tầng trong những cộng đồng nhỏ. Một số nhóm gia đình có vị trí cao (qua sự có mặt của đồ trang sức và hiện vật đồng thau). Nguồn thức ăn đa dạng và có thể đã trồng lúa. Những làng tự trị tụ cư ở nhiều khu vực sinh thái khác nhau; luyện kim đồng thau và sản xuất lương thực tổng hợp.
d. Giai đoạn A (3.000 năm trước Công nguyên): Những vùng cư trú tỏa rộng theo các nhánh sông của cao nguyên Khorat, trung du Bắc Bộ, đồng bằng Tonlesap, rìa châu thổ sông Mekong và lưu vực sông Chao Phraya. Những làng cư trú nhỏ và tổ chức xã hội có mức độ phân hoá không cao. Công cụ đá và vỏ sò được trao đổi giữa các cộng đồng, có thể đã trồng lúa ở những rìa nước ngập. Những làng cư trú nhỏ của cư dân sản xuất lương thực sớm; giai đoạn quan trọng của sự lan tỏa của cư dân trồng trọt tới những môi trường mới.
đ. Cư trú ven biển (5.000 – 1.500 trước Công nguyên): Mực nước biển tăng đáng kể trong khoảng từ 7.000 đến 4.000 năm trước Công nguyên có thể đã làm ngập những nơi cư trú ven biển. Vào khoảng 4.000 năm trước Công nguyên, mực nước biển ổn định ở mức cao hơn so với ngày nay. Những chứng cứ về những làng cư trú giàu có ven biển gây ra sự phân hoá xã hội, trao đổi và táng tục phức tạp ta đã thấy ở Khok Phanom Di. Chứng cứ bào tử phấn hoa cho nơi cư trú này vào khoảng 4.700 năm trước Công nguyên. Những nguồn tài nguyên biển rất quan trọng trong đời sống cư dân, gạo đó được tiêu thụ. Gạo có thể được gặt từ lúa hoang mọc ở những đầm lầy nước ngọt. Những thay đổi nơi cư trú ven biển phản ánh sự thay đổi đường bờ biển và sự gia tăng mức độ sản xuất thức ăn; những cộng đồng cư dân sống tập trung với mật độ cao ở ven biển, ven sông và những cư dân săn bắt – hái lượm.
e. Những người săn bắt – hái lượm sơ khai (10.000 năm trước Công nguyên): Mực nước biển bắt đầu thấp hơn ngày nay rất nhiều rồi dâng cao hơn 3m so với mực nước biển hiện nay. Những làng ven biển trước đó bây giờ bị ngập dưới biển. Những địa điểm cư trú sơ tán chính là những hang động trong đất liền. Công cụ đá ít chủng loại, công cụ gỗ để săn bắt và hái lượm có thể đã có vai trò quan trọng. Những nhóm cư dân nhỏ, di động hái lượm những cây cỏ hoang dại và nhuyễn thể. Chứng cứ về săn bắt, đánh cá và bẫy thú. Những nơi cư trú cổ hơn vùng ven biển này bị ngập do sự dâng lên của mực nước biển; cư trú hang động trong nội địa; những nhóm săn bắt – hái lượm nhỏ, di động.
I.2.2. Đông Nam Á hải đảo – Những giai đoạn văn hoá tiền sử: Theo quan điểm của học giả Bellwood5 thì có sự biến đổi quan trọng trong các xã hội Austronesian (Nam đảo) tiền sử giai đoạn trong khoảng thời gian từ 4.000 năm trước Công nguyên đến thế kỷ I sau Công nguyên.
a. 4000-3500 trước Công nguyên: Là thời kỳ lan tỏa, khởi đầu của cư dân Nam Đảo tới Đài Loan. Họ trồng củ và trồng hạt, đi biển chưa phát triển.
b. 3000 năm trước Công nguyên: Sự lan tỏa của cư dân Sơ – Nam Đảo đến phía bắc Philippines. Bộ phận cư dân này đã cải tiến kỹ nghệ đi biển, sự thay đổi phong cách từ gốm văn thừng sang gốm để trơn hay gốm áo đỏ.
c. Cuối Thiên niên kỷ III và TNK II trước Công nguyên: Sự phân tán của cư dân Malayo-Polynesian sớm từ phía nam Philippines đến Borneo, Sulawesi và Moluccas, sự dồi dào cây quả ở xích đạo và trồng củ đã đối trọng lại với việc trồng hạt (ngăn trở việc trồng nhũ cốc), ngoại trừ những khu vực ở xa hơn về phía nam và ở những hòn đảo phân mùa như Java, nơi tiêu thụ gạo được coi trọng. Như vậy, đã có thể xuất hiện ở thời điểm này sự khởi đầu của việc thích ứng của người hái lượm với rừng mưa ở Borneo và Sumatra.
d. TNK II-I trước Công nguyên?: Sự khởi đầu của những người du mục biển sơ khai ? thích ứng di động quanh vùng biển Sulu và Sulawesi, và có thể cả ở những khu vực khác nữa. Điều này, lần lượt có thể là cơ sở đi biển cho cư dân khu vực.
đ. Từ giữa và cuối TNK II trước Công nguyên: Diễn ra quá trình chinh phục của cư dân Lapita ở vùng đại dương xa xôi xa nhất như Tonga và Samoa. Kỹ năng đi biển phát triển hơn cho phép triển vọng vươn tới những đảo chưa có người ở, nhưng với ít khả năng hơn để cư trú ở những đảo Tây Melanesia (đặc biệt là New Guinea) đã có cư dân nói tiếng Papua cư trú.
Bản đồ phân bố trống Đông Sơn ở Đông Nam Á
e. TNK II- I trước Công nguyên: Cư trú của cư dân Nam Đảo ở Việt Nam và Malaya, ở cả hai khu vực trên đều đã diễn ra sự cạnh tranh của những nhóm cư dân mới đến với những cư dân tiền – nông nghiệp bản địa.
f. 500 năm trước Công nguyên và sau đó: Sự xâm nhập của luyện kim màu và đen vào Đông Nam Á hải đảo. Những trống đồng Đông Sơn từ miền Bắc Việt Nam cũng đã được đưa (trao đổi, mua bán?) tới những đảo Sunda, trải rộng từ Sumatra đến nam Moluccas.
Từ bối cảnh đồng văn này của Đông Nam Á hải đảo, Bellwood đã xác định ba giai đoạn phát triển trong sản xuất lương thực của khu vực Nam Đảo:
a. Giai đoạn 1: Giai đoạn đầu của ưu thế trồng hạt (ngũ cốc) Nam Trung Hoa.
b. Giai đoạn 2: Sau năm 2.000 trước Công nguyên, sự di chuyển về phía xích đạo và tăng cường trồng củ và các loại cây thích ứng tốt hơn với điều kiện sinh thái nhiệt đới ẩm.
c. Giai đoạn 3: Sau năm 1.500 trước Công nguyên, sự chuyển dịch hệ thống sản xuất lương thực tới những vùng chưa có người ở ở đại dương vào trong Thái Bình Dương (giai đoạn đá mới muộn Lapita). Có thể thấy rằng sau năm 3.000 trước Công nguyên đa phần Đông Nam Á đều chuyển sang trồng lúa nước, kể cả việc sử dụng ruộng đắp bờ. Vào giai đoạn cuối đã sử dụng trâu và nông cụ kim khí.
Dựa trên những phân kỳ nói trên và tư liệu khảo cổ mới phát hiện gần đây ở Đông Nam Á, có thể thấy rằng từ những con người đầu tiên đến khi hình thành những nhà nước sớm, các nhóm cư dân ở Đông Nam Á đã trải qua những giai đoạn phát triển từ các nhóm cư dân săn bắt/hái lượm hậu kỳ đá cũ, sơ kỳ đá mới đến những cộng đồng cư dân nông nghiệp sớm hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí, cộng đồng cư dân nông nghiệp phát triển trong thời đại kim khí phát triển…
I.3. Quá trình, thực trạng và xu hướng nghiên cứu tiền, sơ sử Đông Nam Á
I.3.1. Giai đoạn thế kỷ XVIII đến Chiến tranh thế giới lần thứ I
Một số di vật tiền sử ở Đông Nam Á đã được thu thập và miêu tả từ đầu thế kỷ XVIII, nhưng những tìm tòi thì phải từ cuối thế kỷ XIX. Từ đầu thế kỷ XX mới có những cuộc khai quật đầu tiên. Việc nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á chỉ đựơc đẩy mạnh từ những năm 20 của thế kỷ XX. Mặc dù còn nhiều sai sót trong khai quật nhưng đã cung cấp một khối lượng tư liệu khổng lồ để dựng nên một bức tranh đầu tiên của tiền sử Đông Nam Á. Hội nghị các nhà tiền sử Viễn Đông Hà Nội năm 1932 đánh dấu bước phát triển đó. Vào thời gian này đã xuất hiện những công trình nghiên cứu tổng hợp như “Tiền sử Đông Dương” của Mansuy xuất bản năm, “Đông Dương tiền sử” (1936 – Patte) hay “Philippines tiền sử” (1936 – Otley Beyer)… đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là công trình nghiên cứu của Heine-Geldern về sự thiên di sớm nhất của người Nam Đảo, trong đó mô hình biến đổi văn hoá tiền sử Đông Nam Á theo truyền bá luận, học thuyết này của ông ảnh hưởng sâu sắc tới những nghiên cứu của các học giả nước ngoài về tiền sử Đông Nam Á. Điều đáng chú ý là, đến cuối thập kỷ 30, đầu thập kỷ 40, có những phát hiện quan trọng trong nghiên cứu thời đại đá, nhất là các phát hiện di tích sơ kỳ đá cũ như Pacitan (Indonesia), Kota Tampan (Malaysia), Anyatha (Miến Điện)… và những phát hiện dấu vết người vượn cùng các hominid hoá thạch ở Java. Các phát hiện đó đã thu được kết quả to lớn. Trong thời gian đó các viện, trung tâm nghiên cứu cũng đã tổ chức một số nghiên cứu liên vùng, liên khu vực. Giai đoạn này kết thúc bằng Hội nghị các nhà tiền sử học Viễn Đông ở Singapore năm 1938.
I.3.2. Sau Chiến tranh thế giới thứ II đến cuối thập kỷ 60 – Sự thắng thế của thuyết truyền bá luận:
Đây là thời kỳ xây dựng các cơ quan nghiên cứu khảo cổ học ở mỗi nước. Các học giả phương Tây đã tập trung tổng kết những tài liệu đã thu được trước chiến tranh và xuất bản một số công trình tiêu biểu như: “Thời đại đá ở Mã Lai” của M.Tweedie; “Khảo cổ học Philippines và Đông Á và mối liên hệ với nguồn gốc cư dân các đảo Thái Bình Dương” của Otley Beyer; “Thời đại đá ở Indonesia và Thời đại đồng thau – sắt ở Indonesia” của Van Heekeren. Giai đoạn này cũng cần nhắc đến một công trình tổng hợp trên phạm vi rộng hơn gồm Đông Nam Á, một phần Ấn Độ và Trung Quốc, đó là công trình “Các văn hoá sơ kỳ đá cũ ở Nam và Đông Á” của H.L.Movius.
Các tác phẩm của giai đoạn này mang tính khái quát và tổng hợp dựa trên nguồn tư liệu phong phú, tích luỹ qua thời gian dài. Tuy vậy, giai đoạn này lại không có những cuộc khai quật lớn, phương pháp khai quật không có gì đổi khác, khung niên đại vẫn là khung niên đại phỏng đoán như thời gian trước đây.
Nét nổi bật trong các nghiên cứu giai đoạn này là khi so sánh ở bối cảnh rộng hơn, các nhà tiền sử học đã nhận ra nét riêng của khu vực Đông Nam Á trong thời tiền, sơ sử. Đặc biệt trong tác phẩm của Movious về kỹ nghệ chế tác đá khu vực. Ông là coi khu vực này là trì trệ trong sự phát triển văn hoá và giải thích hiện tượng đó bằng sự bảo lưu lâu dài các loại hình con người không tiến hoá.
Trong quyển “Thời đại đá ở Indonesia” Van Heekeren cũng đã nêu lên một số đặc điểm của con đường phát triển thời đại đá ở đây. Ông đã trình bày về mối liên hệ giữa con người tiền sử với thiên nhiên và khí hậu hậu nhiệt đới. Ông cũng đã nhấn mạnh vai trò của các vật liệu hữu cơ như tre, gỗ… trong đời sống người tiền sử Đông Nam Á.
Trong giai đoạn này về quan điểm, ảnh hưởng của truyền bá luận lấy châu Âu làm trung tâm còn rất nặng nề. Nhìn chung, các học giả phương Tây vẫn giữ thiên kiến đánh giá thấp truyền thống lịch sử và văn hoá khu vực.
I.3.3. Giai đoạn thứ ba từ cuối những năm 60 và trong thập kỷ 70 – Solheim và khuynh hướng phản truyền bá luận
Nghiên cứu về tiền sử Đông Nam Á đã bắt đầu vào giai đoạn thứ ba. Đông Nam Á bắt đầu chứng kiến những cuộc khai quật theo kiểu mới, với kỹ thuật tiến bộ. Các nhà khoa học và trung tâm học thuật đã áp dụng nhiều phương pháp khoa học – kỹ thuật trong việc xác định niên đại tuyệt đối.
Từ giữa thập kỷ 60 cho đến nay, Đông Nam Á luôn luôn có những phát hiện khảo cổ học làm chấn động giới tiền sử học. Ví dụ như cuộc khai quật Hang Thẩm Phi (Hang Ma) ở bắc Thái Lan với vết tích trồng trọt có niên đại rất sớm. Phát hiện đồ đồng sớm ở đông bắc Thái Lan như Non Nok Tha, Ban Chiang… một mặt cho thấy Đông Nam Á là một trong những nơi hình thành nghề luyện kim đồng rất sớm với những đặc điểm riêng biệt. Tuy vậy, những niên đại quá sớm này cũng đã và đang gây ra nhiều tranh luận, xu hướng chung hiện nay là không chấp nhận khung niên đại ban đầu cho rằng đồng thau đã xuất hiện từ 3.600 năm trước Công nguyên và đồ sắt đã xuất hiện từ 1.600 năm trước Công nguyên. Đặc điểm chung của nghiên cứu thời đại kim khí ở Thái Lan là phần lớn các cuộc khai quật đều do các học giả phương Tây tiến hành và niên đại chỉ dựa trên hệ niên đại tuyệt đối xác định bằng các phương pháp khoa học tự nhiên như C14, nhiệt huỳnh quang, AMS… Trong nhiều trường hợp, những niên đại này lại rất mâu thuẫn với nhau.
Thành tựu nữa của giai đoạn này chính là những phát hiện và nghiên cứu về thời đại đá đặc biệt là ở Đông Nam Á hải đảo như cuộc khai quật của Tom Harisson ở hang Niah trên đảo Kalimantan (Malaysia), của Fox ở hang Tabon trên đảo Palawan (Philippines) và các cuộc khai quật của Ian Glover trong các hang phía nam đảo Sulawesi (Indonesia)… đều cung cấp cho chúng ta những trật tự phát triển văn hoá tiền sử từ hậu kỳ đá cũ đến thời đại đá mới.
Một số vấn đề về lý thuyết của tiền sử Đông Nam Á cũng được đưa ra như học thuyết về trung tâm nông nghiệp sớm văn hoá Hoà Bình của Solheim và mô hình của ông về 5 giai đoạn trong phát triển tiền sử Đông Nam Á nối tiếp nhau: Đá (Lithic); Gỗ (Lignic); Kết tinh (Crystallitic); Mở rộng (Extensionistic); Xung đột đế quốc (Conflicting Empires). Solheim nhấn mạnh: “Sự khác biệt rõ ràng nhất giữa sự phục dựng của tôi và sự phục dựng truyền thống, dựa vào Heine-Geldern, là trong phục dựng của tôi, cư dân Đông Nam Á là những người cách tân, đóng góp nhiều cho văn hoá bắc Trung Quốc và sự phát triển về sau của văn hoá đó, đối lập với việc coi Đông Nam Á là một ngõ cụt mà những đổi mới và tiến bộ đều là từ bên ngoài đưa tới”.
Theo GS. Hà Văn Tấn, mô hình của Solheim một mặt đầy mâu thuẫn và không có cơ sở vững chắc, dễ dàng nhận thấy là ông khá cực đoan theo một thứ bản địa luận. Mặt khác, ông cũng làm được một việc có ý nghĩa là nhấn mạnh sự phát triển rực rỡ và sáng tạo của văn hoá tiền sử Đông Nam Á, chống lại sự miệt thị các văn hoá khu vực này.
Giai đoạn này xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á với những phương pháp tiếp cận truyền thống của khảo cổ học. Theo quan điểm của GS. Hà Văn Tấn thì có ba phương hướng tiếp cận như sau6:
Tiếp cận kinh tế học: Các chiến lược kiếm sống hay các mô thức sống của cư dân tiền sử Đông Nam Á đã được phân tích. Sự chuyển biến từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất được đặc biệt chú ý. Một số mô hình kinh tế tiền sử đã được đưa ra (của Gorman, của Higham). Vấn đề “Cách mạng đá mới” hay “Cách mạng nông nghiệp” bắt đầu được thảo luận (Solheim).
Tiếp cận sinh thái học: Người ta đã thử giải thích các đặc điểm văn hoá tiền sử Đông Nam Á bằng mối liên hệ giữa con người và môi trường. Ảnh hưởng của các hệ sinh thái khác nhau đến mô thức cũng đã được phân tích. Điển hỡnh cho cỏch tiếp cận này là Higham, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng…
Tiếp cận xã hội học: Vấn đề dân số học tiền sử lần đầu tiên được đề cập (Pietrusewsky). Tài liệu mộ táng được sử dụng cho việc phân tích xã hội học (Higham). Sự phân tầng xã hội, thành luỹ và đô thị hoá là những hiện tượng được chú ý trong nhiều công trình (Higham, Wheatly).
I.3.4. Giai đoạn thứ tư những năm cuối của thập kỷ 20
Đây là giai đoạn có thể được gọi là phê phán, xem xét lại những luận điểm của giai đoạn ba. Đặc biệt là về niên đại. Xu hướng chung là không chấp nhận những niên đại quá sớm cho sự xuất hiện của luyện kim và trồng lúa nưóc. Trong giai đoạn này xuất hiện rất nhiều những chuyên khảo về khảo cổ học của từng quốc gia trong khu vực, đặc biệt là của những tác giả người Đông Nam Á. Một số công trình mang tính tổng hợp về khảo cổ học tiền, sơ sử Đông Nam Á của những nhà nghiên cứu nước ngoài đã giúp cho việc khẳng định những nét đặc trưng riêng của Đông Nam Á và vai trò của Đông Nam Á trong lịch sử nhân loại.
I.4. Đặc điểm lịch sử – văn hoá Đông Nam Á thời tiền sử
I.4.1. Vị trí của Đông Nam Á trong lịch sử hình thành con người, một số phát hiện cổ nhân, cổ sinh quan trọng
Những nghiên cứu cổ địa chất, cổ sinh học cho thấy trong suốt thế Cánh tân, điều kiện tự nhiên ở Đông Nam Á không thay đổi nhiều so với hiện nay. Môi trường tự nhiên này rất thuận lợi cho sự phát sinh và phát triển con người đầu tiên và hình thành những đặc điểm văn hoá riêng biệt.
Những phát hiện cổ nhân đầu tiên trong khu vực là những phát hiện về dấu vết vượn người Miocene ở Lộc Phong, Vân Nam, Trung Quốc. Đây là những dấu tích sọ và mặt của Ramapithecus, được đặt tên là Lufengpithecus (vượn Lộc Phong). Tuy rằng hiện nay Ramapithecus không được coi là nằm trong dòng tiến hoá trực tiếp lên người, nhưng những phát hiện này cũng đã giúp cho các nhà nghiên cứu có được nhận thức rõ ràng hơn con đường và cách thức tiến hoá nhân loại.
Tại khu vực Đông Nam Á cũng đã phát hiện nhiều vết tích của vượn Homo Erectus, những vết tích này tập trung chủ yếu ở Indonesia mà niên đại tuyệt đối lên tới 1,81 +/- 0,04 triệu năm (niên đại K40 của sọ Modjokerto). Niên đại này còn sớm hơn niên đại Homo Erectus ở châu Phi và làm nảy sinh vấn đề về nguồn gốc của Homo Erectus châu Á7. Những phát hiện mảnh tước đá và bola ở Sambungmachan, Ngebung (Indonesia) cũng bước đầu khẳng định người Homo Erectus Đông Nam Á đã biết chế tạo và sử dụng công cụ bằng đá.
I.4.2. Thời đại đá cũ Đông Nam Á – Phát hiện và tranh luận
Dựa vào những nghiên cứu cổ sinh học, có thể thấy rằng khí hậu giai đoạn này biến đổi từ nóng hơi khô sang nóng ẩm với quần động vật là những loài động vật có vú phong phú, tiêu biểu cho quần động vật khu vực nam Trung Hoa và bắc Việt Nam, một số loài nay đã bị tuyệt diệt như vượn khổng lồ, đười ươi, voi răng kiếm, voi cổ, lợn vòi, gấu tre…
Phức hệ thực vật đều được đặc trưng bởi những giống loài của thực vật cận nhiệt đới đa dạng với nhiều loại tre nứa, có thể sử dụng làm công cụ lao động, dụng cụ sinh hoạt, dụng cụ săn bắt hoặc tạo lửa. Nhiều loại thảo mộc có thể cung cấp chất bột, đường và đạm nuôi sống con người và dược liệu chữa bệnh cho con người.
Những phát hiện về sơ kỳ đá cũ ở Đông Nam Á: Trong nhiều công trình khoa học về thời đại đá cũ trên thế giới nói chung và Đông Nam Á nói riêng, người ta thường nhắc đến luận điểm của học giả Mỹ H. Movius đưa ra vào những năm 40 của thế kỷ XX về hai nền văn hoá sơ kỳ đá cũ phân bố ở hai khu vực:
1. Nền văn hoá rìu tay phân bố ở phương Tây (gồm châu Phi, châu Âu, Tây Nam Á và vùng Nam Ấn Độ).
2. Nền văn hoá Eroppo – Tropping phổ biến ở phương Đông gồm Trung Quốc, tây bắc Ấn Độ và các nước Đông Nam Á. Luận điểm này của ông đã có ảnh hưởng lớn trong giới khảo cổ học tiền sử và đôi khi được sử dụng để minh chứng cho sự phát triển chậm chạp và tính lạc hậu, trì trệ về văn hoá, kỹ thuật của phương Đông và đặc biệt là của khu vực Đông Nam Á. Tuy vậy, đã có không ít sự nghi ngờ và phê phán luận điểm này từ phía các nhà nghiên cứu. Quan điểm phổ biến hiện nay giải thích sự bảo lưu vững chắc của các kỹ thuật truyền thống ở Đông Nam Á bằng điều kiện sinh thái, tính đặc thù trong phương thức thích nghi với môi trường tự nhiên. Nghiên cứu quần động vật và thực vật, người ta thấy những biến động về khí hậu và môi trường tự nhiên trong suốt thế Cánh tân ở Đông Nam Á không quá lớn và đột ngột để buộc con người phải thay đổi hẳn phương thức sinh hoạt. Đứng trước đối tượng săn bắt và hái lượm khá ổn định, con người không có yêu cầu thay đổi những kỹ thuật cũ, do đó tập hợp công cụ lao động không có những biến đổi lớn 8.
Ở Đông Nam Á, đã có nhiều phát hiện khảo cổ mà trước đây thường được xác định thuộc sơ kỳ thời đại đá cũ như văn hoá Anyathian (Myanmar), văn hoá Tampanian (Malaysia), văn hoá Patjitan (Indonesia), Núi Đọ (Việt Nam)… Tuy nhiên, do những công cụ được xác định niên đại sơ kỳ đá cũ này không nằm trong địa tầng nguyên vẹn và trong tổ hợp di vật để giúp định niên đại một cách chắc chắn nên hầu như đều bị xem xét lại. Theo GS. Hà Văn Tấn, hiện nay chỉ có hai địa điểm ở Thái Lan là Ban Mae Tha và Ban Don Mun có các công cụ cuội nằm dưới lớp basalte. Các lớp basalte này có niên đại khoảng 730.000 năm cách ngày nay, như vậy công cụ đá ở hai địa điểm này thuộc sơ kỳ thời đại đá cũ sớm nhất hiện nay được biết đến ở Đông Nam Á. Như vậy dấu vết sinh sống của con người thời sơ kỳ đá cũ ở Đông Nam Á chưa rõ ràng và chắc chắn.
– Hậu kỳ đá cũ Đông Nam Á: Hiện nay, thời kỳ này được biết nhiều hơn và nghiên cứu kỹ hơn, dù rằng ở Đông Nam Á mọi ranh giới trong thời đại đá cũ không được rõ nét lắm. Trước đây người ta cho rằng trong giai đoạn này có hai truyền thống chế tác công cụ đá khác nhau: Truyền thống công cụ cuội ở lục địa Đông Nam Á và truyền thống công cụ mảnh ở Hải đảo Đông Nam Á. Trong các nền kỹ nghệ có niên đại hậu kỳ đá cũ ở Đông Nam Á hải đảo, nổi bật là những kỹ nghệ Niah (đảo Kalimantan), kỹ nghệ Tabon (Đảo Palawan), kỹ nghệ Leang Burung II (đảo Célèbes)… đây là những kỹ nghệ thiên về kỹ thuật chế tác công cụ mảnh tước. Ở Đông Nam Á Lục địa thì phổ biến là những nền văn hoá với những công cụ chặt thô cổ truyền mà điển hình là các văn hoá Anyath hậu kỳ, văn hoá Sơn Vi…
Cần phải lưu ý rằng, những phát hiện khảo cổ học gần đây đã cho thấy sự phân định không rành mạch đến thế, trong mỗi một truyền thống đều chứa yếu tố của truyền thống kia. Ở cả hai khu vực đều có sự đan xen của cả hai loại hình kỹ nghệ cuội và mảnh. Trong kỹ nghệ Leang Burung II của Đông Nam Á hải đảo đã xuất hiện kỹ thuật Levallois chân chính với những hạch đá hình lăng trụ, còn ở Đông Nam Á lục địa những Ngườm (Việt Nam), Lang Rongrieng (Thái Lan) và Bạch Liên Động (Trung Quốc) lại cho thấy một kỹ nghệ mảnh tước từng tồn tại trong hậu kỳ đá cũ ở đây. Sự hiện diện của của các kỹ nghệ này mang tính giai đoạn và ph