18/06/2018, 15:39

Chiến tranh Falkland giữa Argentina và Anh

Hà Khánh (tổng hợp) Chiến tranh Falkland (Malvinas) là một cuộc chiến diễn ra năm 1982 giữa Argentina và Vương quốc Anh nhằm tranh chấp quần đảo Falkland và quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich. Quần đảo Falkland bao gồm hai đảo lớn và rất nhiều đảo nhỏ nằm ở phía đông Argentina; ...

HMS-Conqueror-Falklands-War

Hà Khánh (tổng hợp)

Chiến tranh Falkland (Malvinas) là một cuộc chiến diễn ra năm 1982 giữa Argentina và Vương quốc Anh nhằm tranh chấp quần đảo Falkland và quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich. Quần đảo Falkland bao gồm hai đảo lớn và rất nhiều đảo nhỏ nằm ở phía đông Argentina; tên và chủ quyền hòn đảo từ lâu đã bị Argentina tranh chấp dù cư dân trên quần đảo Falkland đa số là người Anh.

Năm 1982, chính quyền độc tài quân sự Argentina gặp khủng hoảng trong việc giải quyết khó khăn kinh tế và làn sóng chống đối lan rộng. Vì thế, Đô đốc Jorge Ayana, một nhân vật cấp cao trong hội đồng quân sự cầm quyền, đề xuất đánh lạc hướng dư luận trong nước bằng chiến dịch chiếm lại Falkland.

Chiến tranh Falkland bắt đầu ngày thứ Sáu, 2 tháng 4 năm 1982, với việc Argentina xâm chiếm và chiếm đóng quần đảo Falkland và Nam Georgia. Anh Quốc đã điều một đội đặc nhiệm nhằm đấu lại với Hải quân và Không quân Argentina và dành lại quần đảo bằng một cuộc đổ bộ. Cuộc chiến chấm dứt khi Argentina đầu hàng vào 14 tháng 6 năm 1982 và quần đảo vẫn thuộc quyền kiểm soát của Anh.

Cuộc chiến kéo dài 74 ngày, đã dẫn đến cái chết của 257 chiến sĩ Anh và 649 chiến sĩ, thủy thủ, phi công Argentina cũng như 3 dân thường đảo Falkland. Trong khi Argentina chiến đấu rất gần với các căn cứ hậu cần ngay trên lãnh thổ của mình thì nước Anh rất bất lợi do phải vượt qua khoảng cách mười mấy ngàn km để tới tham chiến tai Falkland

Nguồn gốc tranh chấp và nguyên nhân chiến tranh

Malvinas-Falkland là quần đảo nằm ở Nam Đại Tây Dương, có diện tích 12 173 cây số vuông, cách bờ biển Argentina chỉ có 483 km nhưng cách nước Anh tới 12 734 km, dân số chỉ có 2841 người (2012). Ngoài những hoạt động truyền thống về khai thác than, đánh bắt cá, cảng biển, những giếng dầu phong phú trong vùng là tài nguyên to lớn không chỉ giúp phát triển kinh tế cho người dân trên đảo mà còn cho cả nước Anh. Ước đoán trữ lượng của khu vực lên tới 3,5 tỷ thùng dầu và trị giá khoảng 35 tỷ USD.

Nguyên thủy, đó là những hòn đảo hoang vắng, người Patagonian Indians đã đến đầu tiên bằng những chiếc xuồng (canoe). Vì nằm trên vị trí có nhiều tàu bè qua lại nên các hòn đảo này đã bị chiếm đóng bởi Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Argentina.

Năm 1501, nhà mạo hiểm Tây Ban Nha, Amerigo Vespucci khi du hành vòng quanh vùng Nam Đại Tây Dương, đã quan sát các hải đảo này, nhưng ông ta không đặt tên cho chúng. Năm 1520, các thủy thủ của đoàn thám hiểm Magallan gọi các đảo đó là “Islas de Sansón y de los Patos” (“Islands of Samson and the Ducks”).

Năm 1690, thuyền trưởng người Anh, John Strong đã đến 1 eo biển nằm giữa các hòn đảo chính và đặt tên là “Falkland Sound”.

Năm 1764, nhà thám hiểm Pháp, Đô đốc Louis Antoine de Bougainville đã chiếm làm thuộc địa đầu tiên, đặt tên là  Port St. Louis, ông là người Pháp đầu tiên đi vòng quanh thế giới trong thế kỷ 18.

Năm 1765, John Byron, người Anh, không biết sự hiện diện của Pháp nên đã khai thác phía tây của quần đảo, chiếm làm thuộc địa năm 1766 và đặt tên là  Port Egmont.

Năm 1767, Pháp đã bán các quần đảo thuộc địa choTây Ban Nha với giá 603000 livres. Bougainville dùng số tiền đó để sửa chữa tàu và mua đồ dự phòng cho chuyến du hành vòng quanh thế giới.

Năm 1770, Tây Ban Nha đã dùng vũ lực tấn công Port Egmont, trục xuất cư dân Anh ra khỏi đảo. Việc này đã  đưa 2 nước đến bên cạnh hố chiến tranh. Nhưng sau đó, Anh trở lại  nhờ 1 hiệp ước hòa  bình.

Năm 1774, vì  áp lực kinh tế do bởi Chiến tranh Độc lập của Mỹ (1775-1783),  Anh đơn phương quyết định rút khỏi các thuộc địa. Từ đó Tây Ban Nha bảo quản nhưng sau đó bỏ đi vào năm 1811.

Năm 1828, Argentina thành lập thuộc địa dùng làm nơi giam giữ tội nhân.Tháng 11 năm 1832 các tù nhân và hải tặc đã nổi loạn giết chết Thống đốc.

háng giêng năm 1833, lực lượng Anh trở lại, đưa dân của mình vào sinh sống và chiếm lấy làm căn cứ hải quân cho Hoàng gia Anh, sau đó biến thành 1 căn cứ chiến lược quan trong  của Anh trong suốt 2 cuộc Đệ nhất và Đệ nhị Thế chiến.

Khi Anh trở lại, tại quốc hội Argentina, trưởng đảng Federal, ông Manuel Moreno đã đứng ra phản đối việc tái chiếm đóng của Anh. Từ đó trở đi cho đến năm 1849 việc tranh giành chủ quyền trở thành đề tài gây tranh cãi hàng năm trong quốc hội Argentina giữa 2 phái ôn hòa và hiếu chiến. Chính phủ Anh đã từ chối kháng nghị đầu tiên và làm ngơ không trả lời gì về các kháng nghị sau đó của chính phủ Argentina.

Vào năm 1850,  một hiệp định thuộc địa, hay còn gọi là hiệp ước Arana-Southern, đồng ý khôi phục mối quan hệ hữu nghị giữa 2 nước, tuy không đề cập đến chủ quyền của các hải đảo nhưng trong bản đồ tài trợ (Sponsored map) chính thức có ghi nước Argentina bao gồm những hải đảo Mavinas/Falkland. Nhờ đó chính phủ Argentina đã không gởi thêm những kháng nghị nữa cho tới năm 1885.

Năm 1888, Argentina  đưa ra đề nghị về chủ đề “trọng tài phân xử “ nhưng chính quyền Anh từ chối ngay. Khác với cuộc phản kháng của năm 1885, chính phủ Anh đã không thụ nhận bất cứ kháng nghị nào của Argentina nữa trong suốt thập niên 1940. Mặc dù các chính phủ kế tiếp của Argentina đều chính thức trình kháng nghị đến Vương quốc Anh.  Chính phủ Argentina khai rằng đã gởi tất cà 27 kháng nghị cho chính phủ Anh và các cơ quan quốc tế nhưng không xác định rõ thời gian. Theo luật quốc tế , nếu giữa các kháng nghị có 1 khoảng gián đoạn 50 năm hoặc nhiều hơn thì những đòi hỏi lãnh thổ trở nên vô hiệu.

Sau Thế chiến thứ hai, đế quốc Anh suy yếu, các thuộc địa ở châu Á, châu Phi và vùng Caribbean giành lại được độc lập. Argentina nhận thấy đây là một cơ hội tốt để giành lại chủ quyền trên các quần đảo nên đã nêu rõ yêu sách của mình sau khi gia nhập Liên Hiệp Quốc vào năm 1945. Anh đề nghị đưa vụ tranh chấp ra Tòa án Công lý Quốc tế ở The Hague (vào năm 1947,  1948  và 1955 ) để tìm sự giàn xếp. Thế nhưng, trên mỗi cơ hội đó Argentina đều từ chối.

Năm 1964, Liên Hiệp Quốc đã thông qua một nghị quyết kêu gọi Anh và Argentina tiến hành các cuộc đàm phán hầu tìm kiếm một giải pháp hòa bình về vấn đề chủ quyền mà nó “mang ý nghĩa tinh thần “ (bearing in mind) cho các quy định và mục tiêu của nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc và lợi ích của người dân sống trên quần đảo Malvinas/Falkland.

Một loạt các cuộc đàm phán giữa hai nước đã diễn ra trong suốt 17 năm tiếp theo cho đến năm 1981, nhưng cũng không đạt được một thỏa thuận nào về chủ quyền. Mặc dù đã có một số thành công trong việc thiết lập các quan hệ kinh tế và vận chuyển giữa các đảo và Argentina.

Sau khi ký kết thỏa thuận truyền thông, ngày 03 / 7/ 1971 Không quân Argentina đã phá hũy sự cô lập các đảo bằng cách mở đường hàng không với một chuyến bay đổ bộ từ Comodoro Rivadavia. Năm 1972,  Anh đồng ý cho phép Argentina xây dựng một đường băng tạm thời gần thủ đô Stanley theo yêu cầu của phía Argentina. Ngày 15/ 11/ 1972 một đường băng tạm thời đã được khánh thành với sự xuất hiện đầu tiên của 1 máy bay chở hành khách Fokker F-27, có 2 chuyến bay trong 1 tuần. Các chuyến bay được nâng cấp vào năm 1978 bởi Fokker F-28 (máy bay phản lực) nhờ một sân bay cố định do chính phủ Anh tài trợ. Đường hàng không này là phương tiện duy nhất để liên lạc giữa các đảo với nhau. được duy trì cho đến khi xảy ra chiến tranh giữa 2 nước vào năm 1982. Công ty dầu khí YPF của Argentina thường xuyên chịu trách nhiệm cung cấp năng lượng cho các hòn đảo này.

Trong khi đó, tại quốc hội Anh, chính phủ Anh hạn chế những vận động hành lang về việc trao trả chủ quyền lại cho Argentina. Bất kỳ biện pháp nào của Bộ Ngoại giao đề xuất về vấn đề chủ quyền đều bị kịch liệt lên án bởi 1 số người dân trên đảo (những người muốn ở lại với nước Anh). Vì thế chính phủ Anh duy trì vị trí tùy theo quyền tự quyết của ngưởi dân trên đảo. Thế nhưng Argentina thì không công nhận quyền tự quyết đó. Vì thế những cuộc đàm phán về vấn đề chủ quyền lại đi đến bế tắc.

Năm 1976, Argentina đưa 1 đội thám hiểm tới Nam Thule, một hòn đảo trong quần đảo Nam Sandwich mà tại thời điểm đó là một phần phụ thuộc quần đảo Falkland. Việc đổ bộ này đã được báo cáo về Anh vào năm 1978 nhưng chính phủ Anh tuyên bố bác bỏ ý định gửi một lực lượng Hải quân Hoàng gia đến để tháo dỡ các cơ sở Corbeta Uruguay của Argentina.

Vào năm 1977 đã xảy ra 1 cuộc đối đầu nghiêm trọng hơn khi Hải quân Argentina ngưng cung cấp nhiên liệu cho Sân bay Port Stanley và tuyên bố từ chối yêu cầu treo cờ Red Ensign của Anh khi bay vào vùng biển Malvinas. (Red Ensign hay Red Duster là lá cờ của hải quân Hoàng gia Anh). Anh cho rằng theo truyền thống, những chiếc tàu của nước ngoài khi đi vào vùng biển của một quốc gia khác phải treo cờ hàng hải của nước đó theo đúng trách nhiệm của mình. Chính phủ Anh nghi ngờ Argentina sẽ gởi thêm 1 đội thám hiểm nữa tới miền Nam Thule, nên Thủ tướng Anh lúc bấy giờ, James Callaghan đã ra lệnh cho một tàu ngầm hạt nhân ( HMS Dreadnought) và 2 tàu khu trục (Alacrity và Phoebe ) tới Nam Đại Tây Dương, với vai trò chuẩn bị giao chiến nếu xảy ra một cuộc đụng độ với hải quân Argentina. Anh đã có dự định thiết lập một vùng ngăn chận xung quanh các đảo , Sự kiện này đã được giữ bí mật cho đến khi xảy ra những cuộc tranh luận ở quốc hội Anh trong lúc chiến tranh với Argentina bùng nổ vào năm 1982.

Năm 1982, Argentina rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng với những náo động trong dân chúng chống lại sự đàn áp của chính quyền quân sự độc tài. Ngày 19/3/1982, Argentina đưa 60 công nhân lên hòn đảo Nam Georgia (thuộc quần đảo Falkland). Họ tháo dỡ một trại săn cá voi bỏ hoang, sau đó dựng ngọn quốc kỳ của Argentina, chính thức thách thức chủ quyền với Anh. Chính phủ Anh công kích việc chiếm đóng phi pháp của Argentina và yêu cầu rút lui. Vào ngày 2 tháng 4 năm 1982, Tổng tư lệnh hải quân Argentina, Jorge Anaya đã kết hợp với lực lượng bộ binh, đưa 8000 quân lính và 20 chiến xa đổ bộ lên quần đảo Falkland, nắm quyền kiểm soát, lấy lý do là vì họ đã dành được độc lập, thoát khỏi nền cai trị của Tây Ban Nha từ năm 1816 và Tây Ban Nha đã để lại các quần đảo đó cho họ.

Chính phủ Anh lập tức cắt đứt quan hệ với Argentina và ra sắc lệnh trả đũa. Thủ tướng Anh đương thời là bà Margaret Thatcher (mệnh danh là Iron lady) đã ra lệnh cho 27 000 lính và 100 tầu chiến bao gồm tàu sân bay, tàu khu trục, tàu ngầm,… xuất trận.

Ngày 3 /4 /1982 Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết 502, yêu cầu quân đội Argentina rút ra khỏi quần đảo và 2 bên phải đi tìm 1 giải pháp ngoại giao. Nghị quyết 502 này được thông qua nhờ có 10 phiếu ủng hộ, 1 phiếu chống (Panama) và 4 nước không tham gia bỏ phiếu (Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan và Tây Ban Nha). Một nghị quyết khác kêu gọi ngưng chiến nhưng đã bị Mỹ và Anh từ chối. Cộng đồng Âu châu lên án sự xâm lược và dùng hình phạt kinh tế đối với Argentina. Mặc dù có 1 vài nước trong EC bảo lưu ý kiến về chính sách của Anh. Đan Mạch và Ái Nhĩ Lan là 2 nước không hợp tác. Pháp và Đức đình chỉ các hợp đồng quân sự với quân đội Argentina. Mỹ viện trợ rất nhiều cho Anh ngay từ đầu nhưng đã ủng hộ làm trung gian hòa giải. Thế nhưng, khi những cuộc đàm phán thất bại thì Mỹ công khai ủng hộ lập trường của Anh.

 Vào ngày 23/04/1982. quân đội Anh bắt đầu phản công, chiến tranh bắt đầu, các trận đánh diễn ra trên biển và cả trên không.

falklands war

khu vực chiến sự xung quanh quần đảo Falkland

Kế hoạch và hành động của Arghentina

Tình hình chính trị Argentina

Trong thời gian 1976-1983, Argentina nằm dưới sự kiểm soát của một chế độ độc tài quân sự, và ở giữa một cuộc khủng hoảng đã tàn phá nền kinh tế. Lực lượng Tổ chức lại Hành chính Quốc gia – National Reorganization Process được biết đến với các tên là Junta, đã giết hàng ngàn công dân Argentina thuộc phe đối lập chính trị với chính phủ của họ. Thời kỳ này được gọi là cuộc chiến bẩn thỉu – the Dirty War, và từ đó được mô tả như là “diệt chủng” bởi một tòa án Argentina. Rất nhiều nạn nhân đã bị chỉ đơn giản là “biến mất”, Không có toàn án pháp luật để chống lại tham nhũng làm cho đất nước trở thành con bệnh càng thêm trầm trọng.

Các cuộc đàn áp vào người dân Argentina vẫn tiếp tục dưới thời kỳ độc tài sau một cuộc đảo chính và lật đổ Tổng thống Isabel Perón và đưa Tướng Jorge Videla lên nắm quyền lực. Quyền lực được chuyển giao từ Tướng Videla cho Tướng Roberto Viola và sau đó là tướng Leopoldo Galtieri trong một thời gian ngắn. Trước khi ông bắt đầu cuộc Chiến tranh Falklands, Galtieri đã bị sự phản đối ngày càng tăng từ phía nhân dân. Chế độ độc tài của tướng Galtieri thực tế chỉ kéo dài mười tám tháng nhưng ông đã một người chủ chốt trong việc thủ tiêu và áp bức người dân của mình trong nhiều năm. Trong năm 1981, Argentina chứng kiến lạm phát phi mã lên đến hơn 600% và GDP giảm 11,4%, sản lượng sản xuất giảm 22,9% và tiền lương thực tế giảm 19,2%. Công đoàn ngày càng có được sự ủng hộ nhiều hơn từ các cuộc tổng bãi công mỗi ngày và quần chúng nhân dân ngày càng phản đối lực lượng Junta.

Tổng thống Galtieri, là người đứng đầu chính phủ quân sự, nhằm để đánh lạc hướng mối quan tâm của công luận về các vấn đề kinh tế và nhân quyền bằng một chiến thắng nhanh chóng ở Falklands và chiến thắng này sẽ tạo ra tình cảm dân tộc chủ nghĩa cho công chúng. Các sĩ quan tình báo Argentina đã làm việc vớiCơ quan Tình báo Trung ương (CIA) để giúp gây quỹ cho lực lượng Contras tại Nicaragua, và chính phủ Argentina tin rằng họ có thể được tưởng thưởng cho hoạt động này bằng cách Hoa kỳ sẽ không can thiệp vào nếu họ xâm chiếm Falkland.

Argentina gây áp lực ở Liên Hiệp Quốc bằng cách gợi ý một cách tinh tế về một cuộc xâm lược có thể xảy ra, nhưng người Anh, hoặc quên khuấy hoặc bỏ qua mối đe dọa này và không có phản ứng. Người Argentina cho rằng người Anh sẽ không sử dụng vũ lực nếu các đảo bị xâm lược.

Theo các nguồn của Anh, người Argentina giải thích phản ứng của người Anh như là một sự thiếu quan tâm vào Falklands do việc dự kiến thu hồi ( một phần của một kế hoạch tổng thể để làm giảm kích cỡ của Hải quân Hoàng gia năm 1981) các tầu Antarctic Supply cuối cùng, HMS Endurance, và bởi Luật quốc tịch Anh năm 1981, luật này thay quyền công dân Anh đầy đủ của người định cư trên Đảo Falkland bằng các điều khoản mới hạn chế hơn.

Chiến dịch Operation Sol được tiến hành vào năm 1976 với việc đổ bộ một lực lượng bí mật gồm 50 người thuộc quân đội Argentina dưới sự chỉ huy của Đại úy César Trombetta lên đảo South Thule không có người ở thuộc Quần đảo South Sandwich (được tuyên bố là) của Anh, nơi họ thành lập một tiền đồn quân sự – Corbeta Uruguay. Việc này dẫn đến một phản đối chính thức từ Vương quốc Anh và mọi nỗ lực để giải quyết vấn đề này là thông qua các biện pháp ngoại giao chứ không phải là quân sự. Chiến dịch Operation Journeyman, triển khai một lực lượng quân đội nhỏ đến Nam Đại Tây Dương bởi chính phủ theo ĐảngLao động của thủ tướng Callaghan, có thể đã giúp ngăn chặn những hành động xa hơn nữa và các báo cáo tiếp theo từ Ủy ban Liên Tình báo (JIC – Joint Intelligence Committee) vào năm 1977, 1979 và 1981 đã cho rằng “miễn là người Argentina còn cho rằng Chính phủ Anh chuẩn bị để đàm phán một cách nghiêm túc về chủ quyền (của quần đảo), thì họ sẽ không đến việc sử dụng vũ lực “Tuy nhiên., nếu … các cuộc đàm phán bị phá vỡ, hoặc nếu người Argentina kết luận rằng họ rằng không có triển vọng cho một tiến bộ thực sự hướng tới một thỏa thuận đẻ chuyển giao chủ quyền, có thể rất có nguy cơ rằng sau đó họ sẽ phải dùng đến nhiều biện pháp mạnh mẽ, bao gồm cả sử dụng hành động quân sự trực tiếp “

Lên kế hoạch

Tại một bữa ăn trưa giữa Đô đốc Jorge Isaac Anaya và Tướng Leopoldo Fortunato Galtieri ngày 9 tháng 12 năm 1981, trong doanh trại quân đội chính tại Campo de Mayo, cả hai đã thảo luận làm thế nào và khi nào để lật đổ Tổng thống Viola. Anaya gợi ý về sự hỗ trợ của hải quân và ngầm hiểu rằng hải quân sẽ được cho phép chiếm quần đảo Falkland, South Georgia. Galtieri dường như hy vọng rằng dư luận sẽ ủng hộ việc thu hồi các hòn đảo một cách thành công và ủng hộ cho quyền lực của ông trong vòng ít nhất mười năm. Họ tin rằng khi lá cờ của Argentina tung bay ở Port Stanley vào ngày kỷ niệm thứ 150 ” việc tiếm quyền bất hợp pháp của Anh vào quần đảo Las Malvinas” sẽ dẫn đến một thời đại chủ nghĩa Peron mới của niềm tự hào quốc gia.

Ngày thứ ba 15 tháng 12, Anaya đã bay từ Buenos Aires tới căn cứ hải quân chính của Argentina tại Puerto Belgrano. Ông đến đó để ủy quyền cho Phó Đô đốc Juan Lombardo chính thức Chỉ huy trưởng mới của Lực lượng Hải quân cho chiến dịch này. Sau buổi lễ, Anaya làm Lombardo ngạc nhiên bằng cách nói cho ông ta đang chuẩn bị một kế hoạch cho việc chiếm đóng quần đảo Falkland. Lombardo sau đó nói với nhà báo Martin Middlebrook trong một cuộc phỏng vấn rằng Anaya nói với ông để “chiếm chúng nhưng không nhất thiết phải giữ chúng”. Cuộc hội thoại giữa Anaya và Lombardo là ngắn ngủi và Anaya nhấn mạnh rằng cần phải giữ bí mật tuyệt đối.

Ngay sau mệnh lệnh ban đầu này, Lombardo đã bay tới Buenos Aires để yêu cầu Anaya làm rõ các lệnh của ông. Lombardo nhớ lại sau đó, “Tôi đưa ra các câu hỏi của mình trong một văn bản viết tay để đảm bảo rằng chúng đã được ghi lại, nhưng không có bản sao cho những câu hỏi này của tôi. Liệu chiến dịch này được tiến hành hoàn toàn bởi hải quân, hoặc kết hợp với các lực lượng khác? Liệu ông ta có ý định chiếm và giữ các hòn đảo, hoặc sau đó giao cho lực lượng khác giữ và nếu là như vậy thì đây có phải là một lực lượng của Argentina hay là một lực lượng quốc tế, liệu đó có phải là lực lượng Liên Hiệp Quốc. Liệu ông ta có thể đảm bảo cho tính bí mật của kế hoạch này sẽ được đảm bảo. Đây là những câu trả lời cho những câu hỏi mà tôi đã được đưa ra: Đó là phải là một hoạt động chung, nhưng chưa một ai khác đã được thông báo. Tôi không biết tại thời điểm này liệu Galtieri và Lami Dozo đã biết được mệnh lệnh mà Đô đốc Anaya đã giao cho tôi, nhưng điều này đã được khẳng định một vài ngày sau đó rằng họ đã biết. Tôi đã lên một kế hoạch một kế hoạch để chuyển giao chứ không phải là để chuẩn bị phòng thủ các đảo đảo sau đó. Về việc đảm bảo bí mật, ông nói rằng tôi sẽ chỉ làm việc với ba đô đốc khác – Allara và Busser của Thủy quân lục chiến và Garcia Bol của Không quân thuộc Hải quân, này đã được tất cả gần tôi tại Puerto Belgrano. Tôi bắt đầu đàm phán với ba người bọn họ và tất cả họ đều hỏi những câu hỏi giống nhau hoặc tương tự như nhau”

“Vì vậy, tôi đã đi trở lại Buenos Aires và nhấn mạnh rằng, nếu chiến dịch cần sự tham gia của nhiều lực lượng thì sự hợp tác của các lực lượng khác nhau là điều cần thiết” Lombardo kể tiếp. Anaya đồng ý rằng Tướng Garcia thuộc Lục quân cần được cho biết nhưng vẫn chưa được thông báo. Ông ta lặp đi lặp lại rằng đó là Hải quân có nhiệm vụ để chiếm Malvinas, những gì tiếp theo là do lực lượng junta quyết định. Họ không nghĩ rằng sẽ có bất kỳ phản ứng quân sự nào từ phía người Anh”

Chuẩn tướng Basilio Lami Dozo của Không quân đã không được thông báo về quyết định trước ngày 29 Tháng 12 và ngay cả Bộ trưởng Ngoại giao Costa Méndez không được biết về kế hoạch này trong khi ông chuẩn bị sẵn sàng chủ động về ngoại giao của mình trong tháng 1 năm 1982.

Kế hoạch chi tiết đã được bắt đầu vào đầu tháng 1 năm 1982. Dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Juan José Lombardo (Chỉ Huy Trưởng Hạm đội) và Tướng Osvald Garcia (chỉ huy của Quân đoàn số năm) và Chuẩn tướng Sigfrido Plessel (thành viên của the Air Force Staff). Chiến dịch sẽ cần một cuộc đổ bộ của 3.000 quân một cách ồ ạt để giảm thiểu đổ máu. Lực lượng Thủy quân lục chiến Hoàng gia, và lực lượng dân sự vũ trang Anh chống đối lại Argentina trong số những người Falkland sẽ bị trục xuất và số lượng lớn của các lực lượng đổ bộ sẽ trở về các căn cứ của họ trong vòng 48 giờ. Một thống đốc quân sự và một lực lượng hiến binh khoảng 500 người sẽ được gửi lại để quản lý những người dân Falkland trong hòn đảo. Dự thảo kế hoạch của Anaya là thay thế dân số toàn bộ hòn đảo bằng người định cư Argentina, nhưng Lombardo tin rằng đó là một bước sẽ gây sự tức giận của cộng đồng quốc tế. Thay vào đó người Falkland nên được trả những khoản bồi thường tài chính nếu họ muốn ra đi.

Được cho phép bởi người Anh, một công ty của Argentina đã xây dựng một đường băng tạm thời gần Stanley trước khi xây dựng một đường băng chính tại sân bay Stanley. Hãng hàng không Quân sự Líneas Aéreas del Estado bay thường xuyên đến quần đảo Falkland. LADE được đại diện bởi Phó Commodore Hector Gilobert ở Port Stanley và ông ta đã được giao nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo trong bốn năm. Chiếc tàu hàng ARA Isla de los Estados được thuê với mục đích thương mại theo lệnh của chính quyền hòn đảo và Thuyền trưởng Capaglio của nó đã có thông tin chi tiết về các bờ biển, bãi biển của Falkland và vùng nước bên trong.

Trong bầu không khí của những vụ mua bán vũ khí, Vương quốc Anh rất sốt sắng cho mời Tùy viên của hải quân Argentina tại London, Chuẩn Đô đốc Walter Allara. Ông này được mời lên chiếc tàu HMS Invincible và đã có các cuộc hội thoại với nhân viên hải quân Anh về các khiếm khuyết – shortcomings của Hải quân Hoàng gia.

Trong tháng 1 năm 1982, các cuộc đàm phán ngoại giao về vấn đề chủ quyền đã chấm dứt. Mặc dù người ta thường nghĩ rằng cuộc xâm lược Falklands là một hành động được lên kế hoạch lâu dài, mọi sự trở nên rõ ràng sau khi hệ thống phòng thủ sau đó của các đảo đã phần lớn chỉ được bố trí rất đơn giản, ví dụ: không có thủy lôi biển được triển khai tại các địa điểm đổ bộ chiến lược và một phần lớn lực lượng bộ binh được gửi đến Falklands gồm những lính nghĩa vụ mới nhập ngũ, những người mới chỉ bắt đầu các đợt đào tạo quân sự của họ trong tháng Giêng hoặc tháng Hai năm đó. Người ta cho rằng cuộc chiến được quyết định chỉ vào phút cuối được ủng hộ bởi thực tế là Hải quân Argentina đã chỉ có thể nhận được vào cuối năm trước các tên lửa chống hạm Pháp Exocet và máy bay Super Étendard (máy bay tiêm kích của Pháp có khả năng bắn tên lửa Exocet) và tàu chiến mới vẫn đang được chế tạo tại Tây Đức.

Hải quân Argentina sở hữu một vài tàu khu trục phòng không hiện đại Type 42 của Anh loại hình thành lên phần lớn chiếc ô chống phòng không của Lực lượng Đặc nhiệm Anh. Theo các kỹ năng tấn công đã được đào tạo thì có thể thấy hơn một nửa số máy bay của Argentina có thể sẽ bị bắn hạ mà chỉ phá hủy được một vài tàu chiến của Anh nếu họ tấn công ở độ trung và độ cao vì đây chính là tọa độ để Tên lửa Sea Dart được thiết kế để tiêu diệt, vì vậy Không quân Argentina phải tập bay ở tầng thấp để lấy cân bằng cho tên lửa Exocet trong các cuộc tấn công trên bề mặt nước biển rộng lớn.

Việc thiếu chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu tại Falklands có thể là do sự đổ bộ xâm lược là một quyết định vào phút cuối thực hiện như là một hậu quả của cuộc khủng hoảng ở South Georgia. Hơn nữa, trong nhiều năm Argentina đã đang ở trên bờ vực của cuộc chiến với Chile. Các nhà quân sự chiến lược của Argentina sợ rằng Chile sẽ tận dụng lợi thế của cuộc khủng hoảng Falklands và cố gắng để giữ một phần vùng Patagonia của Argentina. Do đó, một phần quan trọng của lực lượng và thiết bị quân sự có giới hạn của Argentina được lưu giữ trên đất liền và trong chiến tranh Chile thực sự triển khai lực lượng dọc theo khu vực biên giới và tạo nên những gì trông giống như sự vận động của một cuộc xâm lược có thể xảy ra (người ta vẫn chưa rõ ràng liệu đây là ý định thật sự của Chi lê hoặc chỉ đơn thuần được thúc đẩy bởi nước Anh đồng minh của họ).

Trong một cuộc phỏng vấn với Tạp chí argentine Perfil Basilio Lami Dozo nói rằng Argentina có mục tiêu để tấn công Chile sau khi chiến tranh Falklands:

[Basilio Lami Dozo] nhớ lại rằng chỉ huy trưởng của lực lượng junta Argentine, Leopoldo Galtieri đã ủng hộ [một cuộc tấn công chống lại Chile]: “[Chile] phải biết những gì chúng tôi đang làm bây giờ, bởi vì họ sẽ lần lượt là mục tiêu tiếp theo.

Ý định ban đầu của Argentina đổ bộ một cách nhanh chóng, chiếm đóng một cách tượng trưng, tiếp theo nhanh chóng thu hồi lực lượng, chỉ để lại một đơn vị đồn trú nhỏ để hỗ trợ viên thống đốc quân sự mới. Chiến lược này được Argentina dựa trên giả định rằng người Anh sẽ không bao giờ phản ứng quân sự. Các đơn vị tấn công của Argentina đã thực sự bị thu hồi về đất liền trong những ngày sau cuộc xâm lược, nhưng phản ứng mạnh mẽ và nhanh chóng của Anh buộc Junta phải thay đổi mục tiêu của họ và củng cố các đảo vì họ sẽ không thể chống đỡ nổi về mặt chính trị nếu để mất các hòn đảo một lần người Anh xuất quân chiến đấu. Lực lượng junta đã đánh giá sai lầm bầu không khí chính trị tại Anh, và tin rằng nền dân chủ là yếu ớt và thiếu quyết đoán và không thích rủi ro, và không dự đoán rằng người Anh sẽ di chuyển một nửa hạm đội của họ trên toàn cầu.

Đổ bộ vào South Georgia

Năm 1980, Đô đốc Edgardo Otero (trước đây là người chỉ huy khét tiếng của Trường Sĩ quan Cơ khí Hải quân Petty, nơi có hàng trăm người đã biến mất sau khi bị tra tấn và hành quyết) là người đứng đầu các hoạt động của hải quân Nam Cực và tìm cách lặp lại chiến dịch Operation Sol ở South Georgia bằng cách thiết lập một căn cứ quân sự (Chiến dịch Alpha). Đô đốc Lombardo sợ rằng hoạt động Alpha sẽ gây nguy hiểm cho sự bí mật của việc chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào Falkland, nhưng Đô đốc Otero có liên kết chặt chẽ đến Đô đốc Anaya, người đã phê duyệt hoạt động Alpha mặc dù đã hứa hẹn với Đô đốc Lombardo rằng ông ta sẽ cho hủy bỏ hoạt động này.

Điệp viên của Argentina Constantino Davidoff đã có một hợp đồng trong hai năm trước đó về việc tháo dỡ một trạm đánh bắt cá voi cũ trên đảo South Georgia. Trong tháng 12 1981, ông được chở bằng chiếc tầu phá băng ARA Almirante Irizar dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Trombetta đến South Georgia để tiến hành một cuộc khảo sát ban đầu của cuộc đổ bộ. Toán người này đã tiếp đất mà không làm thủ tục hải quan tại căn cứ BAS ở Grytviken, việc này dẫn đến những phản đối ngoại giao chính thức của Chính phủ Anh.

Cá nhân Davidoff đã gọi điện đến Đại sứ quán Anh tại Buenos Aires để xin lỗi và hứa rằng người của ông sẽ thực hiện theo các thủ tục khi vào hòn đảo trong tương lai. Ông nhận được sự cho phép để tiếp tục với chuyến thám hiểm của mình và ngày 11 tháng ba chiếc tầu vận tải của hải quân ARA Bahía Buen Suceso đến đó để đón Davidoff và những công nhân tháo dỡ phế liệu của ông ta. Tuy nhiên tuy nhiên nhóm này lại là lính thủy quân lục chiến của Argentina đóng giả các nhà nghiên cứu khoa học dân sự. Operation Alpha đã bắt đầu đi vào hoạt động. Đến ngày 19 tháng ba, nhóm này lại thất bại một lần nữa để thực hiện đúng theo các thủ tục và tiến tiếp đến Leith Harbour. Lực lượng BAS gửi người đến để điều tra và thấy rằng những công nhân thu dỡ phế liệu Argentina đã lập một chiếc trại, xóa các dấu hiệu của người Anh, chia nhau vào các túp lều của BAS và loại bỏ các khẩu phần cho tình trạng khẩn cấp và bắn các con tuần lộc trái với quy định của địa phương (đổ bộ với vũ khí mà không được phép chính là bất hợp pháp). Bên BAS cũng báo cáo một số người mặc quân phục và dựng cờ Argentina lên.

Một loạt các trao đổi ngoại giao sau đó đã diễn ra. Thống đốc đảo Falkland và sau đó là Bộ Ngoại giao đã gửi đi một tin nhắn trở lại tới đội BAS để chuyển cho thuyền trưởng của chiếc Bahia Buen Suceso. Tin nhắn này có hiệu ứng làm lá cờ Argentina bị hạ xuống và họ phải báo cáo cho viên quản trị người Anh (Stephen Martin, chỉ huy của cơ sở khảo sát Nam cực thuộc Anh – the British Antarctic Survey Base) tại Grytviken để đóng dấu hộ chiếu của họ (mà họ đã từ chối làm việc này vì như vậy sẽ là xác nhận chủ quyền của Anh trên hòn đảo nhỏ). Mặc dù lá cờ được hạ xuống và chiếc ARA Bahía Buen Suceso đã khởi hành, một nhóm người đã được bỏ lại phía sau. Ngày 21 tháng ba, chiếc HMS Endurance tiến đến với một nhóm gồm 22 Thủy quân lục chiến Hoàng gia để trục xuất những người ở lại Leith nhưng để tránh căng thẳng hơn nữa, Bộ Ngoại giao Anh đã ra lệnh Endurance tạm dừng. Lợi dụng việc người Anh tạm dừng, Junta Argentina sau đó đã ra lệnh cho chiếc ARA Bahía Paraíso đổ bộ một nhóm Buzos Tacticos (Lực lượng đặc biệt) do Trung úy Alfredo Astiz (” thiên thần tóc vàng của thần chết”). Thay vì trở thành một lực lượng đối đầu, Thủy quân lục chiến Hoàng gia nhận được mệnh lệnh thiết lập một đài quan sát để theo dõi tình hình tại Leith. Lực lượng đầy đủ của Thủy quân lục chiến Hoàng gia đã không đổ bộ cho đến ngày 31 tháng 3 khi nó trở nên rõ ràng rằng lực lượng Argentina dự định thu hồi Quần đảo Falkland. Căn cứ Base Grytviken đã thực sự bị tấn công một ngày sau vụ tấn công vào quần đảo Falkland, vì thời tiết xấu ngăn cản một cuộc tấn công trong cùng một ngày.

Thất bại của các nỗ lực ngoại giao

Trong cuộc chiến, không có quan hệ ngoại giao chính thức giữa Anh và Argentina, do đó, các cuộc đàm phán đã được tiến hành một cách gián tiếp và thông qua các bên thứ ba, bên sau đó sẽ nói chuyện với phía bên kia (“ngoại giao con thoi”). Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, Javier Pérez de Cuéllar người Peru, Thông báo rằng những nỗ lực của mình để vãn hồi hòa bình đã vô ích. Mặc dù Peru (là đại diện cho lợi ích ngoại giao của Argentina ở Anh) và Thụy Sĩ (là đại diện cho lợi ích ngoại giao của Anh tại Argentina) exerted lớn áp lực ngoại giao để tránh chiến tranh, họ đã không thể giải quyết cuộc xung đột và một kế hoạch hòa bình được đề xuất bởi Tổng thống Peru Fernand Belaúnde Terry mặc dù được chấp nhận bởi Anh đã bị từ chối bởi Argentina.

Cuộc xâm lược

Chính phủ Anh lập tức cảnh báo Masterman Rex Hunt, Thống đốc Quần đảo Falkland, về một cuộc xâm lược của người Argentina có thể xảy ra vào ngày 01 tháng Tư. Hunt sau đó đã tổ chức phòng thủ, và đã giao quyền chỉ huy quân sự cho thiếu tá Mike Norman RM, người chỉ huy một lực lượng nhỏ Thủy quân lục chiến Hoàng gia. Trung úy hải quân Argentina- Guillermo Sanchez-Sabarots – chịu trách nhiệm về cuộc xâm lược cho đổ bộ lực lượng đặc biệt của ông tại Mullet Creek. Ông ta tiếp tục cho tấn công các tòa nhà trong và xung quanh Stanley, bao gồm tòa nhà chính phủ và Trại lính Moody Brook cho đến khi chính phủ Quần đảo Falkland tại tòa nhà chính phủ đầu hàng vào ngày 02 tháng Tư. Một người Argentina đã bị giết trong cuộc tấn công chính, ba người Argentina nữa đã chết trong cuộc chiến để kiểm soát South Georgia.

Lực lượng Không quân Argentina trong chiến tranh Falklands

Khi Argentina bắt đầu cuộc chiến tranh có vẻ hợp lý khi nghĩ rằng họ đã chuẩn bị sẵn sàng, và đã có một kế hoạch làm thế nào để bảo vệ các đảo. Nhưng chế độ độc tài quân sự cai trị đất nước vào thời đó coi việc chiếm giữ Falklands như là một hành động chính trị để có được một vị trí thương lượng ngoại giao và không phải là một hành động chiến tranh. Do đó họ bị bất ngờ khi Anh Quốc phản ứng với một sự vận động quy mô lớn và một lực lượng đặc nhiệm để chiếm lại các đảo.

Không quân Argentina (Fuerza Aerea Argentina; FAA) không bao giờ được coi là có khả năng tiến hành một chiến dịch không quân tầm xa trên biển để chống lại một thành viên chính của NATO. Họ không được đào tạo hoặc trang bị cho sứ mệnh như vậy. FAA chỉ có hai máy bay tiếp dầu để phục vụ cho toàn bộ lực lượng không quân và hải quân, và các máy bay Mirage III và IAI Daggers ném bom- không chiến của nó đã không được trang bị thiết bị tiếp nhiên liệu trên không. Đào tạo, chiến thuật và trang thiết bị của FAA được tập trung vào một cuộc chiến tranh có thể xảy ra để chống lại Chile, kết quả từ tranh chấp trong cuộc xung đột Beagle.

Mối đe dọa từ Chile là một vấn đề lớn đối với quân đội Argentina trong chiến tranh. Các lực lượng quân đội Chile đã triển khai một lực lượng quan trọng trên biên giới chung của Chile với Argentina, và FAA đã buộc phải phục hồi các máy bay F-86 Sabre đã nghỉ hưu của họ để củng cố hệ thống phòng không của Argentina. Để ủng hộ Argentina, Peru ngay lập tức cung cấp hỗ trợ cho người Argentina bằng lực lượng Không quân Peru thậm chí cung cấp cả các phi vụ bay chiến đấu. Điều này đã bị từ chối một cách lịch sự bởi chính phủ Argentina. Khi chiến tranh tiếp diễn, Peru và Venezuela đã gửi các phụ tùng máy bay quan trọng và cấp thiết cho FAA và Không quân Brazil cho Hải quân Argentina thuê hai máy bay tuần tra trên biển EMB111 Bandeirantes. Cuối cùng ngày 04 tháng 6, mười máy bay Mirage 5 của Peru với tên lửa AS-30 đến được Tandil nhưng chiến tranh đã kết thúc trước khi chúng có thể được sử dụng. Các kỹ thuật viên của Israel Aircraft Industries vẫn ở trong nước này để tiếp tục công việc của họ theo hợp đồng IAI Daggers năm 1979 trong cuộc xung đột.

Theo dự đoán khả quan nhất, Argentina có tổng cộng khoảng 240 chiếc máy bay khi chiến tranh nổ ra. Khoảng một nửa trong số chúng được dải dọc theo biên giới với Chile.

Trên lý thuyết, 20 chiếc máy bay cận âm Sea Harrier của Anh có thể dễ dàng bị xóa sổ bởi hơn trăm máy bay chiến đấu của Argentina, bao gồm cả những máy bay phản lực siêu âm. Thực tế lại khác, khoảng cách xa từ căn cứ của họ ngăn cản họ sử dụng tốc độ tối đa hoặc ngược lại họ sẽ hết nhiên liệu. Mặc dù việc Argentina có máy bay nhiều hơn lực lượng đặc nhiệm của Anh, nhưng một số lớn trong số chúng là loại Pucara động cơ cánh quạt. Ngoài ra, các phi đội A-4 Skyhawk phải dựa vào hai máy bay tiếp dầu KC-130, dẫn đến việc hạn chế về số lượng máy bay có thể tấn công cùng một lúc.

Các phi đội máy bay tấn công A-4 Skyhawk của Argentina ở trong điều kiện rất nghèo nàn. Lệnh cấm vận vũ khí được ban bố bởi Hoa Kỳ năm 1976 do “cuộc chiến bẩn thỉu”, đã làm cho hầu hết các khung máy bay không còn sử dụng được. Có cáo buộc về sự tham gia của Israel trong việc giúp đỡ để đưa những chiếc A-4 này vào hoạt động đầy đủ, nhưng chưa bao giờ được xác nhận.

Lực lượng Không quân nhỏ bé của Hải quân Argentina (Armada República Argentina; ARA) đang ở giữa sự chuyển đổi từ loại máy bay A 4Q-Skyhawk mang loại máy bay mới Super Étendard. Chỉ có năm chiếc Étendard mang tên lửa chống hạm Exocet được giao hàng tại thời điểm cuộc xung đột, tại điểm đó do một lệnh cấm vận vũ khí đã ngăn cản việc phân phối các lô hàng tiếp theo. Các phi công, đặc biệt là những người ở Phi đội Không quân – Hải quân số 3 sử dụng máy bay A-4Qs là những người duy nhất được đào tạo kỹ thuật cụ thể của việc ném bom oanh kích vào tàu chiến. Phi công không quân được đào tạo trong tháng tư cùng với hai chiếc khu trục hạm Type 42 của Argentina, tương tự như loại của Hạm đội Anh và theo các sĩ quan hải quân tất cả các phi vụ đều bị bắn rơi gây ra mối quan tâm lớn cho các chỉ huy cao cấp cho đến khi thành công một chiến thuật tấn công mà họ đã chứng minh được rằng những chiếc máy bay có thể sống sót vào ngày 01 tháng 5.

Cuối cùng, Không quân Argentina sự chưa bao giờ được tham gia vào một cuộc xung đột quốc tế, thời gian mà quân đội Argentina đã thực sự tham gia vào một cuộc xung đột quốc tế là Chiến tranh của Liên minh Tay ba xảy ra vào hơn một thế kỷ trước. ( lúc này chưa có Không quân)

Mặc dù có những khó khăn, các đơn vị không quân của Argentina đã chịu đựng được gánh nặng của cuộc chiến trong sáu tuần của cuộc chiến và gây ra những thiệt hại và phá hủy nghiêm trọng cho lực lượng hải quân của Vương quốc Anh. Chiến thuật máy bay phản lực bay thấp tấn công vào tàu của Anh quốc đã cung cấp cho thế giới với một số các hình ảnh nhất sobering và kịch tính của cuộc chiến. Đến cuối cuộc chiến thì chính quân đội Anh đã trở nên ngưỡng mộ thực hiện tinh thần của FAA vì phi công Argentina phải đối mặt với một mạng lưới phòng không hiệu quả trong thời gian chiến sự, nhưng như mọi khi, chỉ chiếm được ưu thế trên không vẫn chưa đủ để giành chiến thắng cho một cuộc chiến. Đô đốc Sandy Woodward – chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm nói: ” Không quân Argentina đã chiến đấu rất tốt và chúng tôi cảm thấy một sự ngưỡng mộ tuyệt vời về những gì họ đã làm”

 Super Etendard

Biên đội các máy bay Super Etendard của Hải quânArgentina – nếu người Argentina nhẫn nại được cho đến khi nhận đủ 14 chiếc Super Etendard và 14 quả tên lửa Ecoxet thì người Anh đã bại trận rồi

Sự quan tâm của thế giới đối với cuộc chiến

Ý kiến công chúng ở nước Anh

Tâm trạng của công chúng ở Vương quốc Anh là ủng hộ cho một nỗ lực để đòi lại các hòn đảo. Ý kiến của quốc tế bị chia rẽ. Một số coi Anh là một cựu thực dân đầy quyền lực, đang tìm cách đòi lại một thuộc địa từ một quyền lực địa phương và đây là một thông điệp mà người Argentina lúc ban đầu đã được sử dụng để thu hút sự hỗ trợ. Anh được hỗ trợ từ những người cho rằng đây là một nền dân chủ ổn định bị xâm chiếm bởi một chế độ độc tài quân sự. Chỉ có vài quốc gia giữ ngoại giao trung lập còn lại hầu hết các nước châu Âu và Hoa Kỳ hỗ trợ Anh. Nhiều quốc gia Mỹ Latinh ủng hộ Argentina với một ngoại lệ đáng chú ý của Chile: vì có xung đột lãnh thổ với Argentina, kết hợp với một số bài phát biểu từ các thành viên của Junta rằng Argentina sẽ có hành động quân sự để giải quyết những vấn đề lãnh thổ (với Chi Lê) một khi quần đảo Falkland được kiểm soát ổn thỏa, đã dẫn đến những mối quan hệ ngoại giao căng thẳng.

Liên Hiệp Quốc

Các nhà Ngoại giao Anh tập trung vào lập luận rằng Quần đảo Falkland được quyền sử dụng các nguyên tắc tự quyết của Liên hợp quốc và thể hiện sự sẵn sàng thỏa hiệp. Tổng thư ký LHQ nói rằng ông ta rất ngạc nhiên trước những thỏa hiệp mà Vương quốc Anh đã đưa ra. Tuy nhiên, Argentina lại từ chối điều này, Junta đã bị giới hạn bởi sự ủng hộ lớn của nhân dân trong nước cho cuộc xâm lược và không thể quay lại, họ dựa trên lập luận của họ về các quyền lãnh thổ dựa trên các hành động trước năm 1945 và các đạo luật của LHQ lúc mới thành lập. Nhiều thành viên Liên Hợp Quốc nhận ra rằng nếu tuyên bố về lãnh thổ kiểu này có thể được làm sống lại, và cuộc xâm lược lãnh thổ được phép tiến hành thì sau đó biên giới của riêng mình sẽ khôngcòn an toàn. Ngày 03 tháng Tư, Hội đồng Bảo an LHQ thông qua Nghị quyết 502, kêu gọi rút quân đội Argentina từ các hòn đảo và sự chấm dứt của chiến sự. Ngày 10 Tháng tư, Cộng đồng Châu Âu phê duyệt một sự trừng phạt thương mại đối với Argentina. Tổng thống Ronald Reagan và Hoa Kỳ tránh đã không lên án về ngoại giao trực tiếp thay vào đó là cung cấp tin tình báo hỗ trợ cho quân đội Anh.

Ngoại giao con thoi và sự tham gia của Mỹ

Thoạt nhìn, người ta thấy rằng Mỹ có Hiệp ước về trách nhiệm quân sự đối với cả hai bên trong chiến tranh, nước này có ràng buộc tới Anh như là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Argentina do Hiệp ước hỗ trợ lẫn nhau trong nội bộ Châu Mỹ Inter-American Treaty of Reciprocal Assistance “Rio Pact”. Tuy nhiên, Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương chỉ buộc các bên ký kết hỗ trợ lẫn nhau nếu vụ việc xảy ra ở Châu Âu hoặc Bắc Mỹ phía bắc Nam chí tuyến ( the Tropic of Cancer ), và Hiệp ước Rio chỉ buộc Mỹ can thiệp nếu một trong các bên của hiệp ước bị tấn công – Anh không chủ động tấn công Argentina, chỉ có lực lượng Argentina trên lãnh thổ Anh. Trong tháng ba, Bộ trưởng Ngoại giao Alexander Haig chỉ đạo Đại sứ Hoa Kỳ đến Argentina để cảnh báo chính phủ Argentina về mọi sự xảy ra từ cuộc xâm lược. Tổng thống Reagan yêu cầu một sự bảo đảm để rút lại cuộc xâm lược từ Galtieri và cử Phó Tổng thống của ông ta , George H.W. Bush, làm đặc phái viên hòa giải nhưng đã bị từ chối.

Trong thực tế, chính quyền của Reagan đã bị chia rẽ về vấn đề này. Hop hội nghị trong ngày 05 tháng 4, Haig và Trợ lý của bộ trưởng Bộ Ngoại giao về chính trị Lawrence Eagleburger ủng hộ Anh và tỏ ra lo ngại rằng một sự lập lờ nước đôi sẽ làm suy yếu liên minh NATO. Tuy nhiên Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề Liên Mỹ Thomas Enders giao lại sợ rằng ủng hộ Anh sẽ làm suy yếu sự hỗ trợ những nỗ lực anti-communist cua Hoa kỳ ở Mỹ Latinh. Ông nhận được sự ủng hộ của Đại sứ Hoa kỳ tại U. N. Jeane Kirkpatrick, Với danh nghĩa là của cấp dưới và đối thủ chính trị Haig. Kirkpatrick là khách mời danh dự tại một bữa ăn tối được tổ chức bởi Đại sứ Argentina ở Hoa Kỳ vào ngày lực lượng vũ trang của Argentina đã đổ bộ lên các hòn đảo.

Nhà Trắng tiếp tục sự trung lập của nó ; Reagan nổi tiếng với một tuyên bố tại thời điểm này là ông ta không thể hiểu tại sao hai đồng minh lại tranh cãi về ” một ít nước đá lạnh của vùng đất đó”. Tuy nhiên, ông ta đã chuẩn y cho các sứ mệnh của Haig và Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger. Haig trong một thời gian ngắn (8 tháng tư – 30 tháng tư) dẫn đầu một sứ mệnh “ngoại giao con thoi” giữa London và Buenos Aires. Theo một tài liệu của BBC gần đây có tiêu đề “Cuộc chiến tranh Falklands và Nhà Trắng”, Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger đã bắt đầu một số hoạt động không được công khai để hỗ trợ và cung cấp cho quân đội Anh trong khi sứ mệnh ngoại giao con thoi của Haig vẫn còn đang được tiếp diễn. Thông điệp của Haig đến Argentina là người Anh sẽ thực sự chiến đấu, và rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ Anh, nhưng đồng thời ông ta cũng hoàn toàn không biết rằng Hoa Kỳ đã triển khai cung cấp hỗ trợ.

Vào cuối tháng, Reagan đổ lỗi cho Argentina về thất bại của việc hòa giải và tuyên bố ủng hộ Anh đồng thời cũng công bố áp dụng lệnh trừng phạt kinh tế đối với Argentina.

Vào khoảng thời gian tháng Sáu, Đại sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc Jeane Kirkpatrick bỏ phiếu quyền phủ quyết lần thứ hai một nghị quyết của Hội đồng Bảo an kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức, Sau đó công bố bản hướng dẫn mà bà ta đã nhận được rằng phải bỏ phiếu trắng. Tình hình này được đổ lỗi cho sự chậm trễ trong thông tin liên lạc, nhưng theo cảm nhận của nhiều người đây là một phần của một cuộc đấu tranh quyền lực đang diễn ra giữa Haig và Kirkpatrick.

Galtieri và với một nửa nội các chính phủ của ông ta nghĩ rằng Anh sẽ không phản ứng. Margaret Thatcher tuyên bố rằng các quyền dân chủ của Đảo Falkland đã bị tấn công và sẽ không đầu hàng và để các đảo cho “binh lính – jackboot” Argentina. Lập trường này được hỗ trợ của ít nhất là trong nước do chủ yếu là hỗ trợ của báo chí Anh.

Chế độ độc tài Argentina cảm thấy rằng Hoa Kỳ sẽ, ngay cả trong một trường hợp xấu nhất, vẫn hoàn toàn trung lập trong cuộc xung đột (dựa trên sự hỗ trợ mà Argentina làm cho chính quyền Reagan tại Trung Mỹ, như việc đào tạo lực lượng Contras). Giả định này đã rõ ràng được chứng minh là một sự mù với thực tế về mối quan hệ đặc biệt của Vương quốc Anh-Mỹ.

Ngoài ra, chế độ độc tài quân sự Argentina đã sai lầm bởi những ý kiến riêng của mình về nền dân chủ là những buổi họp hành không đâu và kém hiệu quả, sợ rủi ro. Thật vậy, ở Anh đã có nhiều cuộc tranh luận về sự đúng sai của cuộc chiến. Tuy nhiên, bất kể chính sách riêng và ý kiến của mình như thế nào, các đảng đối lập hậu thuẫn mạnh mẽ cho chính phủ trong cuộc khủng hoảng để tạo ra một mặt trận thống nhất duy nhất.

Một nỗi sợ hãi của Mỹ về mối đe dọa của Liên Xô và sự lây lan của Chủ nghĩa Cộng sản, cùng với sự chắc chắn rằng nước Anh có thể xử lý các vấn đề của riêng mình, có thể đã tạo ảnh hưởng vào Mỹ để nước này ở một vị trí không can thiệp. Trong thời gian Chiến tranh lạnh, với việc các lực lượng đôi bên (Anh và Argentina) đang bị theo dõi chặt chẽ bởi Liên Xô, có vẻ được cho là thích hợp hơn đối với Hoa kỳ là cứ để Vương quốc Anh tự xử lý mà không có sự hỗ trợ nào cho một cuộc xung đột trong khả năng của mình.

Sự việc Mỹ can thiệp hay không là rất quan trọng đối với mối quan hệ Mỹ – Anh. Đảo Ascension, một hòn đảo sở hữu của người Anh, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp lâu dài cho Lực lượng Đặc nhiệm phía Nam, tuy nhiên, các căn cứ không quân đóng trên đảo được điều hành và hoạt động bởi người Mỹ và chỉ huy Hoa kỳ tại căn cứ này đã nhận được mệnh lệnh phải trợ giúp người Anh trong bất kỳ cách nào và trong một thời gian ngắn Ascension Air Field là một trong những sân bay bận rộn nhất trên thế giới. Điều quan trọng nhất là đóng góp của NATO qua các thông tin tình báo và cung cấp loại tên lửa hồng ngoại Sidewinder Lima không-đối-không mới nhất, cho phép phần dự trữ loại tên lửa này ( của NATO ) tại Anh lúc đó được mang ra sử dụng. Margaret Thatcher nói rằng “không có máy bay phản lực Harrier và khả năng cơ động lớn của nó, cũng như chúng được trang bị với phiên bản mới nhất của tên lửa Sidewinder, được cung cấp cho chúng tôi bởi Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger của Hoa Kỳ, chúng tôi không bao giờ có thể lấy lại được Falkland ” Đây phải không chỉ là điều còn bị nghi vấn về mặt chính trị mà còn cả về mặt quân sự, tuy nhiên khi Hạm đội Không lực Anh sử dụng tên lửa Sidewinder trong cuộc đụng độ thì điều này đã được chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

Vào đầu tháng, Casper Weinberger đã chào mời việc s

0