24/05/2018, 10:32

Bí quyết giữ cho huyết áp bình thường?

(Ảnh minh họa) I. Cẩn thận trong ăn uống 1. Bốn vấn đề mấu chốt ảnh hưởng tới huyết áp Nhiều khi chúng ta "no lòng đói mắt", dù quá no nhưng vẫn muốn ăn thêm, cũng có lúc biết rằng ăn no sẽ có hại cho sức khỏe, nhưng không thể đừng được, vẫn muốn ăn thêm một chút. Thói ...

(Ảnh minh họa)

I. Cẩn thận trong ăn uống

1. Bốn vấn đề mấu chốt ảnh hưởng tới huyết áp

Nhiều khi chúng ta "no lòng đói mắt", dù  quá no nhưng vẫn muốn ăn thêm, cũng có lúc biết rằng ăn no sẽ có hại cho sức khỏe, nhưng không thể đừng được, vẫn muốn ăn thêm một chút.

Thói quen ăn uống là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới huyết áp, đặc biệt là người cao huyết áp do di truyền thì chế độ ăn uống càng ảnh hưởng rất lớn. Dưới đây là bốn điểm quan trọng liên quan tới thói quen ăn uống, cũng là bốn vấn đề giữ gìn sức khỏe lâu dài.

(1) Tránh ăn nhiều, ăn nhiều bữa, vì dinh dưỡng hấp thụ nhiều sẽ làm huyết áp tăng cao.

(2) Cần nhớ rằng ăn nhiều sẽ béo phì, làm huyết áp tăng lên, dẫn tới xơ cứng động mạch.

(3) Ăn nhiều mỡ động vật, prôtít, đường sẽ đẩy nhanh quá trình xơ cứng động mạch và tăng huyết áp.

(4) Cần ăn nhiều rau.

Chớ ăn quá nhiều, dinh dưỡng sẽ bị thừa nhưng cũng không ăn quá ít, không đủ lượng, gây ảnh hưởng xấu cho cơ thể. Cần ăn vừa đủ, cả lipít, prôtít, đường động vật và thực vật theo một tỷ lệ hợp lý.

2. Làm thế nào để tránh ăn quá nhiều muối

Một ngày chúng ta chỉ cần ăn 6g muối là đủ cho nhu cầu cơ thể, nhưng đa số thường ăn 15- 20g, đặc biệt là người phương Đông càng ăn muối nhiều hơn. Chính vì vậy mà những phân tử Na sẽ nhiều hơn trong cơ thể nhiều hơn mà dẫn tới cao huyết áp.

Vì vậy, khi nấu thức ăn phải tính toán sao cho dùng lượng muối thích hợp ít nhất, chớ dùng nhiều muối không tốt cho cơ thể.

3. Chế độ ăn uống của người cao huyết áp

Cao huyết áp không phải là bệnh mà là một hội chứng do nhiều nguyên nhân khác nhau như: tim mạch, nội tiết, thần kinh thực vật, thận...Đặc biệt còn có thể đơn thuần do nguyên nhân ăn uống như ở một số người quá thừa prôtêin, ăn quá nhiều mỡ động vật nhất là loại nhiều cholesterol. Hoặc những người ăn uống các chất nói chung quá dư thừa, cơ thể ít vận động, người béo phệ.

Nói chung, người bị cao huyết áp cần phải tìm chữa nguyên nhân là chính. Song, riêng ăn uống kiêng khem cũng là điều quan trọng. Cần chú ý mấy điểm sau đây:

- Chất đạm (protein)

Cần hạn chế không ăn nhiều. Có thể ăn với mức độ bình thường là 0,5 - 1g/kg trọng lượng cơ thể (người 50kg dùng khoảng nửa lạng thịt trong ngày) để duy trì tình trạng sức khỏe bình thường.

Về thịt, nên chọn loại thịt trắng (gà, vịt...), tốt hơn là các loại thịt đỏ (trâu, bò...). Không nên ăn các loại thịt tẩm ướp nhiều gia vị như lạp sườn, xúc xích, dăm bôm...

Không nên dùng thịt gia súc, gia cầm vì có nhiều Nuclêôprotein, khi tiêu hóa sinh ra các chất Puri, Axituric, có hại gan thận, tim mạch.

Phủ tạng gia cầm, gia súc như gan, óc, bồ dục... cũng không nên dùng vì có nhiều Nuclêôprotein.

Với trứng, nếu người bệnh nào cholesterol trong máu không tăng thì có thể dùng được. Có thể ăn đậu đổ để bổ sung nguồn protein thực vật cho cơ thể.

- Chất béo (lipit)

Cần phải giảm đi, nhất là ở những người béo phì. Không nên ăn quá 30g lipit/ngày. Trong đó nên ăn một nửa là dầu thực vật.

Những thức ăn giàu chất béo thường có nhiều cholesterol (lòng đỏ trứng, mỡ động vật, phủ tạng thì không nên ăn, nhất là với những người tăng huyết áp xơ vữa động mạch.

- Chất đường bột (gluxit)

Nói chung không có hại gì cho bệnh huyết áp. Nhưng nếu ăn nhiều cũng dễ sinh ra béo phì không tốt cho người huyết áp cao, vì vậy cũng cần giảm bớt.

Các gia vị không nên dùng nhiều vì dễ kích thích thần kinh. Muối ăn (Nacl), nếu người cao huyết áp ác tính do u tuyến thượng thận, hoặc căng thần kinh giao cảm và cao huyết áp ở những người trẻ mà không rõ nguyên nhân thì hạn chế muối.

Ngoài chế độ ăn uống nói trên, người bị cao huyết áp không nên dùng các chất kích thích thần kinh mạnh như: ruợu, cà phê, nước trà đặc, thuốc lá....

4. Vận động giảm béo nên kết hợp với việc ăn ít.

Béo phì sẽ sinh bệnh, thậm chí béo quá còn nguy hiểm tới tính mạng. Do vậy, nếu béo quá thì phải giảm béo bằng cách luyện tập và hàng ngày chú ý đừng ăn quá nhiều.

Nhiều người cho rằng chỉ vận động sẽ giảm được béo, nhưng thực tế không đơn thuần như vậy. Nếu vận động quá mạnh sẽ tăng gánh nặng cho tim, nên điều tiết cả ăn uống để tránh nhiệt lượng dư thừa cũng rất quan trọng.

Đương nhiên cùng vận động và điều tiết ăn uống là lý tưởng nhất, nhưng không nên tập quá độ, chỉ cần mỗi bữa ăn bớt một chút (chỉ ăn 80%), không ăn vặt, như vậy sẽ giảm được béo.

5. Tỷ lệ protein động vật và thực vật là 1:2

Protein động vật đương nhiên là rất cần cho cơ thể, nhưng nếu ăn quá nhiều cũng sẽ làm lượng cholesterol và mỡ tăng cao. Nếu lượng protit không đủ thì có thể ăn thêm protit thực vật để bổ xung.

Các loại thịt lợn, gà, các loại cá, trứng, sữa đều chứa lượng protein cao, còn các loại đậu lại chứa protit thực vật nhiều. Tỷ lệ ăn giữa protit động vật và thực vật nhiều. Tỷ lệ ăn giữa protit động vật và thực vật là 1:2 sẽ lý tưởng nhất, vì trong protit thực vật chứa ít cholesterol ăn sẽ có lợi cho cơ thể.

6. Hạn chế trẻ em ăn đồ ngọt

Nguyên nhân chính làm trẻ em béo phì là ăn nhiều đồ ngọt. Vì vậy, không nên cho trẻ ăn nhiều bánh kẹo, sôcôla, bánh sữa, váng sữa và các loại kem.

Mức sống ngày càng cao, trên đường phố nhan nhản các cửa hiệu bánh kẹo, trẻ em lại rất thích ăn bánh kẹo, do vậy cha mẹ phải kiềm chế trẻ, không chiều cho trẻ ăn nhiều đồ ngọt quá. Cũng không nên cho trẻ tiền tiêu vặt, dễ làm cho chúng có thói quen xấu ăn quà vặt.

7. Người có bệnh mạch máu não và huyết áp không được ăn thịt chó

Thịt chó là thức ăn bổ sung giàu dinh dưỡng và có hương vị đặc biệt. Nhưng không phải ai ăn cũng tốt, người có bệnh ở mạch máu não mà ăn thịt chó sẽ rất có hại.

Những người bệnh này thường kèm cả xơ cứng động mạch và cao huyết áp. Thịt chó tích nhiệt quá bổ, ăn vào sẽ làm huyết áp tăng cao, động mạch não bị vỡ gây xuất huyết, vì vậy những bệnh nhân này không được ăn thịt chó. Ngoài ra người bệnh tim, cao huyết áp, di chứng sau trúng phong cũng không được ăn thịt chó.

8. Người bệnh mạch máu não và huyết áp không nên ăn nhiều trứng chim cút

Theo các nhà dinh dưỡng cho biết, trong các loại thực phẩm thì trứng chim cút chứa coletxterol cao nhất. Cứ 100g trứng có tới 3640mg colexterol, còn chế phẩm đậu, lòng trắng trứng gà, hải sâm lại không chứa coletxterol. Các thực phẩm khác như: Sữa bò 13mg, thịt lợn nạc 90mg, lòng đỏ trứng gà 1163mg. Như vậy là lượng coletxterol trong trứng chim cút gấp 280 lần so với sữ bò, 61 lần so với thịt nạc, 3,1 lần so với lòng đỏ trứng gà.

Lượng coletxterol trong cơ thể người tăng cao là nguyên nhân chủ yếu gây xơ cứng động mạch. Do vậy, người già, nhất là người có bệnh máu não thì ăn ít trứng chim cút là tốt nhất.

9. Người bị huyết áp cao không nên ăn nhiều muối

Ăn nhiều muối có hại cho sức khỏe, nhất là với người bệnh cao huyết áp.

Gần đây, các nhà khoa học qua nghiên cứu chứng minh rằng, ăn nhiều muối là nguyên nhân quan trọng gây ra cao huyết áp. Thành phần chính của muối là Natri Clorua, Natri sẽ làm dịch thể, nhất là dung lượng máu tăng lên, gây cao huyết áp và tăng gánh nặng cho tim. Qua điều tra cho thấy, trong những người ăn nhiều muối, 10% mắc bệnh cao huyết áp, còn người ăn lượng muối trung bình chỉ có 7%, người ăn ít muối chỉ có 3%. Do đó, người bị cao huyết áp không được ăn nhiều muối, ngay cả người bình thường cũng không nên dùng quá nhiều muối, nói chung, mỗi người mỗi ngày chỉ ăn chừng 4-5g là đủ.

10. Ăn nhiều rau xanh rất tốt

Rau xanh tươi chứa nhiều vitamin, ăn nhiều rau có lợi cho cơ thể, vì nó ổn định huyết áp.

Rau xanh có chứa nhiều kali, có tác dụng thải loại natri ra ngoài. Natri có nhiều trong muối ăn, làm huyết áp tăng lên. Sau khi ăn, natri được phân giải, kali trong rau xanh có thể kết hợp với nó để thải loại ra ngoài cow thể, nên có thể làm hạ huyết áp xuống. Vì vậy, ăn nhiều rau xanh có tác dụng phòng huyết áp tăng cao.

Rau xanh và các loại quả chứa nhiều chất xơ có tác dụng thúc đẩy quá trình bài tiết ra ngoài nhanh hơn, rất tốt đối với cả người huyết áp cao lẫn huyết áp thấp. Bởi người mắc các bệnh về huyết áp rất dễ bị bí đại tiện, ăn nhiều rau phòng trừ bí tiện rất tốt.

II. Vận động vừa sức

1. Sáng dậy vận động có ba cái lợi

Vận động có ba cái lợi lớn: Có thể phòng bệnh béo phì, rèn luyện cơ thể làm tinh thần thoải mái và loại trừ được các áp lực.

Thời gian vận động tốt nhất là khoảng 30 phút bằng cách tập thể dục, đi bộ, đi xe đạp, nhảy dây. Tập luyện sẽ làm tinh thần sảng khoái, tăng cảm giác thèm ăn, tạo khí thế cho một ngày làm việc tốt hơn.

2. Có thể vận động nhiều hơn

Với người huyết áp cao, cách vận động lý tưởng nhất là không để dẫn tới bệnh tim và huyết áp thất thường. Nhất là người bị chứng cơ tim phì đại càng không được vận động quá mạnh.

Chơi gôn, bóng chày, bóng rổ, đi xe đạp... người huyết áp cao đều có thể chơi được, nhưng cứ sau 30 phút phải nghỉ ngơi một lát, đừng tập quá mệt và cũng chớ miễn cưỡng.

Sáng sớm nên tập các môn thể thao nhưng ở mức độ vừa phải, sao cho sức khỏe gân cốt là được.

3. Tránh vận động quá sức

Rèn luyện thân thể là điều rất tốt, nhưng nếu vận động quá sức rất có thể bị tác dụng ngược lại, thậm chí gây tử vong. Người huyết áp cao trước khi hoạt động mạnh cần phải kiểm tra tim thật cẩn thận. Sau khi biết rõ tình trạng sức khỏe của mình mới lựa chọn cách vận động cho thích hợp để tránh xảy ra sự cố.

Người cao huyết áp không được trượt băng, đua ngựa, thi chạy tốc độ cao cự ly ngắn, đá bóng, bóng chuyền...riêng bơi thì có thể được nhưng phải vừa sức.

III. Duy trì không khí gia đình vui vẻ

1. Cả nhà đoàn tụ là "liều thuốc ổn định huyết áp" tốt

Nhịp sống hiện đại luôn căng thẳng, bận rộn và nhiều áp lực. Đó là nguyên nhân chủ yếu gây huyết áp cao, nhưng muốn thay đổi những áp lực đó lại không dễ. Chỉ có gia đình mới có thể làm giảm và loại trừ những áp lực đó.

Rất nhiều trường hợp người bệnh uống thuốc theo đơn của bác sỹ mà vẫn không khỏi, nhưng bệnh lại thuyên giảm do có cuộc sống gia đình hòa hợp. Để luôn giữ cho huyết áp ở mức bình thường cần phải có môi trường gia đình vui vẻ, hòa hợp ấm áp. Nếu vợ chồng hay cãi cọ nhau hoặc giữa cha con, mẹ con tình cảm rạn nứt thì nhất định sẽ làm cho huyết áp tăng lên.

Dù công việc có bận rộn đến đâu thì cũng phải bố trí thời gian để ngày nghỉ cuối tuần gia đình được đoàn tụ với nhau. Không khí gia đình vui vẻ hòa nhã, sẽ gạt bỏ được những bận rộn để nghỉ ngơi thoải mái.

2. Con cái của những người bị cao huyết áp cũng có thể tránh được bệnh tật của cha mẹ.

Nếu cha mẹ bị huyết áp cao thì có tới 60% di truyền cho con cái. Nhưng bọn trẻ có bị bệnh hay không lại phụ thuộc rất lớn vào môi trường sống.

Nếu con cái có cách sống và thói quen ăn uống giống bố mẹ thì sẽ rất dễ bị cao huyết áp. Nhưng nếu cải thiện thói quen ăn uống nguy hiểm, và tạo ra môi trường sống tốt đẹp thì không phải quá lo lắng về bệnh huyết áp.

3. Sau khi về hưu, dễ bị xuất huyết não

Những người nghỉ hưu được hai, ba năm bị tử vong vì chảy máu não tương đối nhiều. Điều này ngoài yếu tố tuổi tác ra, còn có hai nguyên nhân sau: một là coi nhẹ vấn đề sức khỏe, hai là việc về hưu là một đòn đánh vào một số người vì họ bị mất đi địa vị xã hội, dễ sinh ra trầm cảm mà ảnh hưởng tới huyết áp.

Rất nhiều người sau khi về hưu huyết áp đột ngột tăng cao vì họ chưa thích nghi được với hoàn cảnh mới. Do không còn địa vị, quan hệ giao tiếp thay đổi nên tinh thần bị kích động mạnh làm cho huyết áp tăng lên. Mặt khác bản thân họ lại không muốn để người nhà biết lo lắng nên càng căng thẳng hơn. Những lúc ấy, người nhà phải thật thông cảm và quan tâm chu đáo tới họ hơn, tạo cho họ một chỗ dựa thật tin tưởng.

IV. Không được sống buông thả

1.Cuộc sống tình dục của người cao huyết áp

Người bị huyết áp cao trong độ tuổi hơn 40 tốt nhất là chớ có quan hệ tình dục nhiều, vì quan hệ tình dục tốn rất nhiều sức lực rất dễ gây hậu quả xấu, mỗi tuần một lần là vừa.

Thời gian tốt nhất là nên sinh hoạt vào ngày nghỉ cuối tuần, bởi ngày thường phải làm việc rất mệt mỏi, ngày nghỉ cuối tuần thường thư thái và có nhiều thời gian, sinh hoạt tình dục thoải mái hơn.

2. Tình hình người trẻ bị huyết áp cao

Những người hai, ba mươi tuổi có khuynh hướng bị huyết áp cao và xơ cứng động mạch thường không nghiêm trọng lắm, nên không phải lo lắng  cho cuộc sống tình dục của mình. Không quá câu nệ số lần tình dục, nhưng cần tránh sinh hoạt quá độ, vì như vậy sẽ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe.

3. Huyết áp bình thường nhưng quá căng thẳng

Có người huyết áp rất bình thường nhưng do quá căng thẳng mà bị liệt dương. Cũng do luôn lo lắng buồn phiền làm cho tinh thần bị kích thích gây trạng thái căng thẳng, làm huyết áp tăng lên.

Vì vậy, vì người mệt mỏi chớ miễn cưỡng sinh hoạt tình dục, để tránh xảy ra việc "lực bất tòng tâm" gây tâm lý không tốt.

V. Luôn cảnh giác, tránh lo lắng

1. Những điều chú ý trong độ tuổi trên dưới 10

Ngay từ nhỏ đã cần phải chú ý tới thói quen ăn uống, không cho trẻ ăn quá mặn và quá thừa dinh dưỡng, vì đó đều là nguyên nhân gây béo phì  và xơ cứng động mạch. Cũng không nên cho chúng ăn nhiều đường, mỡ và protin động vật.

Ngoài ra, khi ở lứa tuổi học sinh trung học phải cảnh giác ngăn không cho trẻ hút thuốc, uống rượu để rồi thành thói quen xấu rất nguy hiểm.

Ở độ tuổi này trẻ rất hoạt bát, đáng yêu, tràn đầy sức sống nên cần được vận động đầy đủ và tinh thần lành mạnh, luôn có thái độ tốt đối với cuộc sống. Chớ nên tạo ra áp lực quá lớn đối với con trẻ, phải luôn giữu tâm lý cân bằng cho trẻ. Điều quan trọng nhất là luôn dành tình cảm ấm áp và quan tâm đúng mức tới trẻ, giúp trẻ có thái độ sống đúng đắn.

2. Những điều chú ý trong độ tuổi 20 - 30

Thời kỳ này cần tạo thói quen ăn uống hợp lý, sao cho không bị béo phì.

Đây cũng là thời kỳ đẹp nhất của tuổi trẻ, nhưng cũng rất dễ vì mục đích phấn đấu vươn lên mà không quan tâm tới sức khỏe, chủ quan cho rằng mình có thể lực dồi dào, tuổi trẻ không dễ mắc bệnh, càng không thể bị huyết áp cao, nên dễ coi thường sức khỏe. Họ quá coi trọng công việc và vui chơi, làm huyết áp tăng lên, kết quả là rất dễ mắc bệnh huyết áp cao.

3. Những điều chú ý khi trên 40 tuổi

Ở độ tuổi này cần chú ý tới việc điều tiết ăn uống, vì lúc này lượng vận động đã giảm nhiều nếu ăn nhiều sẽ nhanh chóng phát phì. Đây cũng  là thời kỳ mà huyết áp dễ thay đổi nhất nên hết sức lưu ý, cần kiểm tra thường xuyên.

Thời kỳ đầu bị huyết áp cao dễ dẫm tới đau đầu, đau bả vai, huyết áp cũng lên xuống thất thường. Người trong độ tuổi 40-50 bị xuất huyết não cũng không phải là hiếm. Cho nên càng phải chú ý, chớ làm việc quá sức, không vận động quá nhiều làm người mệt mỏi, tất cả phải hài hòa đúng mực.

4. Những điều chú ý ở độ tuổi trên 50.

Ở độ tuổi này, do có địa vị xã hội và những trách nhiệm xã hội nên gánh nặng tâm lý cũng tăng lên, do vậy cần có những hoạt động nhẹ nhàng để làm giảm căng thẳng.

Ngoài ra, định kỳ đo huyết áp là rất cần thiết. Dù là người bình thường hay người bị cao huyết áp, đều phải biết tình trạng huyết áp của mình để phòng ngừa và chữa trị cho hiệu quả.

5. Những điều chú ý ở người trên 60 tuổi

Những người luôn phòng bệnh cao huyết áp và xơ cứng động mạch từ trước, thì khi 60 tuổi sức khỏe vẫn ổn định. Tuy vậy, vẫn cần cẩn thận vì người già do lão hóa, động mạch tự nhiên xơ cứng đi, nên cố gắng giảm bớt tốc độ xơ cứng đó.

Ngoài ra còn cần chú ý tới chất và lượng bữa ăn, không ăn nhiều, ăn quá no. Ngay cả với những người trên 70 tuổi, nếu trước đó không nạp chất dinh dưỡng quá nhiều thì vẫn có thể ăn những thứ mà mình thích, sống rất thoải mái.

Người cao tuổi vị giác cũng không nhạy cảm cảm giác với các chất mặn, ngọt cay, nóng giảm nên thường thấy thức ăn nhạt nhẽo, thích ăn thêm nhiều gia vị. Như vậy, lượng muối cũng ăn nhiều lên, gây ảnh hưởng xấu tới cơ thể. Vì vậy, người già cần hết sức lưu ý, chớ ăn nhiều muối, đường và cần ăn nhạt hơn.

Tuổi già rất dễ chỉ vì chuyện nhỏ cũng làm huyết áp tăng cao, không chú ý sẽ dẫn tới những bệnh khác. Vì vậy cần thoải mái, chớ để tâm mà gây phiền não lâu dài, giữ cho người thanh thản là rất quan trọng.

6. Phụ nữ khi có mang cần chú ý bệnh thận

Bệnh thận ở người có mang là thời kỳ có mang thận bị trục trặc, có lúc còn bị trúng độc thai nghén. Bệnh này dù không nặng và có thể chữa khỏi vẫn để lại di chứng sau này, tức là bệnh huyết áp cao do thận. Do đó, người có mang phải tích cực phòng bệnh, ăn ít muối, chỉ ăn vừa đủ nhu cầu của cơ thể. Ngoài ra, không ăn quá nhiều thức ăn chứa nhiều protit và những thực phẩm làm huyết áp tăng lên.

7. Tích cực kiểm tra sức khỏe

(1) Kiểm tra não

Tình trạng mạch máu não có thể nhận thấy qua đáy mắt, nếu đáy mắt xuất huyết là biểu hiện động mạch đáy mắt có khuynh hướng xơ cứng và huyết áp luôn duy trì ở mức cao.

(2) Kiểm tra tim

Cần làm điện tim và chụp X quang để phát hiện cơ tim có phì đại hay không.

(3) Kiểm tra thận

Kiểm tra nước tiểu để biết hàm lượng đường và protit trong nước tiểu.

(4) Kiểm tra lượng cholesterol trong máu

Lấy máu để xét nghiệm có thể biết lượng cholesterol trong máu. Sau xét nghiệm có thể sơ bộ biết được tình trạng não, tim và thận.

8. Tự xoa bóp chữa tăng huyết áp

- Tự xoa bóp: Người bệnh tự xoa bóp đầu tiên là gãi đầu, dùng hai bàn tay gãi từ phía trước ra phía sau trên 10 lần.

- Xoa mắt: Dùng ngón trỏ hoặc ngón cái xoa vòng quanh mắt từ đầu lông mày đến cuối lông mày từ 5-7 lần. Động tác này có tác dụng tăng thị lực của mắt.

- Xoa tai: Dùng 2 bàn tay áp vào tai, 2 kẽ ngón tay đưa từ dưới xát lên trên và từ trên xát xuống dưới 5-7 lần. Phương pháp này đã tác động trực tiếp đến các huyệt chữa bệnh điếc.

- Áp màng nhĩ: Hai bàn tay áp sát vào tai và bỏ ra, sau đó lại làm lại. Động tác này có tác dụng chống thoái hóa màng nhĩ, giúp người bệnh nghe được tốt hơn.

- Hai bàn tay áp vào tai, ngón tay bật sau gáy:

Động tác này làm cho cân bằng trạng thái cơ thể, giúp cho người bệnh dễ ngủ, khả năng nghe dễ dàng hơn.

- Xoa mũi: Dùng 2 bàn tay xát từ chân cánh mũi lên mũi, xát nóng 2 bàn tay rồi áp vào, xát lên, xuống từ 10- 20 lần. Động tác này chống được bệnh nghẹt mũi.

- Ấn cánh mũi: Ấn một bên, hít một bên để kiểm tra khả năng thở của 2 bên cánh mũi.

- Xoa miệng: Dùng tay áp vào vùng miệng, xát từ miệng đến mang tai, mỗi bên 5 -10 lần, có tác dụng làm cho thân khí khỏe.

- Động tác quay lưỡi và gõ răng: Đều có tác dụng kích thích ăn ngon.

- Xát cổ: Xát từ trên xuống dưới, chống cảm mạo. Xoa vùng thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu, kích thích phổi, tim, gan, lách, dạ dày, thận, ruột, bàng quang, có tác dụng kích thích tiêu hóa, ăn ngon miệng. Cách làm là đặt 2 bàn tay, tay trái đè tay phải xoay tròn. Những động tác này còn chữa chứng đi tiểu ít vào ban đêm, đái dầm ở trẻ em.

0