Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại
Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Một nhà doanh nghiệp kinh doanh thương mại có những đức tính cần thiết và những am hiểu về kĩ năng quản trị kinh doanh vẫn chưa thể đưa doanh nghiệp của mình dến với ...
Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại
Một nhà doanh nghiệp kinh doanh thương mại có những đức tính cần thiết và những am hiểu về kĩ năng quản trị kinh doanh vẫn chưa thể đưa doanh nghiệp của mình dến với thành công nếu chưa đề ra được chiến lược kinh doanh đúng đắn. Chiến lược kinh doanh thể hiện nội dung hoạt động, mục tiêu và các giải pháp ứng xử của doanh nghiệp trên thị trường. Chiến lược kinh doanh bao gồm một số nội dung chủ yếu sau:
+)Chiến lược quy mô kinh doanh và tích lũy tài sản vô hình.
Quy mô kinh doanh của doanh nghiệp phải được xác định hợp lí trên cơ sở tính toán đúng dung lượng thị trường, tiềm lực kinh doanh. Doanh nghiệp phải xác định được điểm hòa vốn để tối ưu hóa quy mô kinh doanh.
Mỗi doanh nghiệp đề có hai loại tài sản là: tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
Tài sản vô hình: tài sản vô hình đó là lòng tin của khách hàng với doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp, là hình ảnh quen thuộc và nổi tiếng của nhãn hiệu, là các hiểu biết về thông tin khoa học kĩ thuật, là bầu không khí làm việc trong nội bộ doanh nghiệp, là kĩ năng quản lí của ban lãnh đạo doanh nghiệp.
Tài sản hữu hình: Tài sản hữu hình đó là những yếu tố vật chất có tính định lượng như: nhà xưởng, vật tư, máy móc thiết bị.
Nhìn chung cả hai loại hình tài sản trên đều quan trọng đối với doanh nghiệp và nếu xét về lâu dài thì tài sản vô hình có phần quan trọng hơn. Tài sản vô hình là vũ khí cạnh tranh rất lợi hại của doanh nghiệp trên thị trường. Nó quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp.
Tài sản vô hình có thể tích lũy bằng hai cách:
- Cách quảng cáo trực tiếp trên phương tiện thông tin đại chúng, huấn luyện nhân viên của doanh nghiệp để giao tiếp tốt với khách hàng.
- Cách gián tiếp là các hoạt động hàng ngày thông qua giao tiếp với khách hàng, thông qua các dịch vụ phục vụ khách hàng để nâng cao tín nhiệm của sản phẩm và danh tiếng của sản phẩm trên thị trường.
+ Chiến lược thích nghi với môi trường
Môi trường của doanh nghiệp bao gồm môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Môi trường cạnh tranh bên ngoài thực sự nhiều phức tạp vì doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác. Để thích nghi với môi trường thì doanh nghiệp phải đáp ứng những điều kiện sau:
- Đáp ứng những nhu cầu khách hàng, đáp ứng những thay đổi trong nhu cầu kế hoạch của khách hàng.
- Xác định đối thủ cạnh tranh, tích luỹ và thực hiện lợi thế cạnh tranh, lựa chọn vũ khí cạnh tranh hợp lí.
- Tiếp cận được với khoa học kĩ thuật hiện đại. Đó là giới hạn về năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có những phương thức ứng xử hợp lí với sự phát triển của khoa học công nghệ, tìm ra giải pháp mới trong việc ứng dụng khoa học kĩ thuật.
+ Chiến lược marketing thương mại
Marketing là quá trình hoạch định và thực hiện một số công việc để thoả mãn nhu cầu của khách hàng về hàng hoá và dịch vụ thông qua việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì việc nắm bắt được bản chất của marketing và thực hiện tôt công tác marketing có một ý nghĩa quan trọng vì marketing là một công cụ quản lí kinh tế, kế hoạch hoá kinh doanh. Nhiệm vụ của marketing trong doanh nghiệp thương mại là làm cho kinh doanh phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường và thông qua đó doanh nghiệp bán được nhiều sản phẩm và thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Marketing thương mại trong các doanh nghiệp có vai trò hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, là vũ khí của nhà kinh doanh, làm cho công việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp dễ dàng hơn. Doanh nghiệp không chỉ bán được nhiều hàng hoá hơn mà còn có thể mở rộng thị trường. Nhu cầu của khách hàng được đáp ứng tốt hơn vì doanh nghiệp thông qua các biện pháp thăm dò, khuyến mại, tìm hiểu sở thích người tiêu dùng để cải tiến chất lượng hàng hoá, dịch vụ tốt hơn.
Kế hoạch kinh doanh hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại.
Trong doanh nghiệp thương mại, kế hoạch kinh doanh chính là kế hoạch lưu chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng.
Lưu chuyển hàng hoá có những loại sau:
- Lưu chuyển hàng hoá là những tư liệu sản xuất, yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất. Loại lưu chuyển này do các doanh nghiệp thương mại vật tư đảm nhiệm.
- Lưu chuyển hàng hoá là nông sản do hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh lương thực đảm nhiệm.
- Lưu chuyển hàng hoá là các tư liệu tiêu dùng cá nhân do các doanh nghiệp thương mại hàng tiêu dùng thực hiện.
- Lưu chuyển hàng hoá là các sản phẩm xuất nhập khẩu tham gia vào thương mại quốc tế do các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đảm nhiệm.
Nhiệm vụ chủ yếu của hoạch định lưu chuyển hàng hoá:
- Đáp ứng kịp thời, tốt nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại và thời gian giao hàng, tạo điều kiện phân phối hợp lí hàng hoá và các kênh tiêu thụ.
- Khai thác tốt nguồn hàng để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.
- Hình thành đầy đủ và đồng bộ lực lượng dự trữ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại.
- Tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
Các chỉ tiêu của kế hoạch lưu chuyển hàng hoá gồm:
+ Doanh số bán hàng.
+ Doanh số mua vào.
+ Dự trữ hàng hoá đầu kì và cuối kì kế hoạch.
+ Tốc độ chu chuyển vốn lưu động kì kế hoạch.
Trong các doanh nghiệp thương mại, kế hoạch lưu chuyển hàng hoá được xây dựng bằng hai phương pháp
Phương pháp thống kê - kinh nghiệm.
Phương pháp này chủ yếu dựa trên cơ sở là các số liệu báo cáo hoạt động kinh doanh trong thời gian gần nhất, căn cứ vào thời gian lên kế hoạch và ước tính thực hiện của thời kì còn lại để ước tính thực hiện kế hoạch lưu chuyển trong năm. Ước tính thực hiện của một số năm làm cơ sở kế hoạch lưu chuyển cho năm sau. Phương pháp này có nhược điểm là: không phản ánh chính xác số lượng hàng hoá lưu chuyển kì kế hoạch, không thâu tóm hết những thay đổi trong cơ cấu tổ chức bán hàng cho khách và những thay đổi trong danh mục sản phẩm do doanh nghiệp tạo ra.
Phương pháp kinh tế - kĩ thuật.
Đây là phương pháp kế hoạch hoá lưu chuyển hàng hoá được coi là đúng đắn hơn. Cơ sở xây dựng kế hoạch lưu chuyển hàng hoá theo phương thức này dựa trên nhu cầu của khách hàng và khả năng khai thác nguồn hàng để thoả mãn nhu cầu đó của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tính tổng mức bán hàng hóa theo công thức sau:
T = P + (Dđk – Dck)
Trong đó: T : là tổng doanh số bán
P : là lượng hàng hoá thu gom
Dđk : là dự trữ hàng hoá đầu kì
Dck : là dự trữ hàng hoá cuối kì
Sau khi xác địng doanh số bán doanh nghiệp cần tính lượng hàng hoá lưu chuyển thẳng. Lượng hàng hoá lưu chuyển thẳng tính bằng lượng hàng hoá thu gom thẳng.