25/05/2018, 16:10

Văn 6 - Bài 0: Bài mở đầu

Tập thể tác giả Nhóm Cánh Buồm tổ chức Bậc phổ thông cơ sở, như tên gọi, là bậc tạo nền tảng trí tuệ cho toàn thể trẻ em – sau chín năm học, một trí tuệ nền tảng gồm có (a) một phương pháp học đúng đắn; (b) một tư duy mạch lạc; và (c) một năng lực hành ...

Tập thể tác giả

Nhóm Cánh Buồm tổ chức

Bậc phổ thông cơ sở, như tên gọi, là bậc tạo nền tảng trí tuệ cho toàn thể trẻ em – sau chín năm học, một trí tuệ nền tảng gồm có (a) một phương pháp học đúng đắn; (b) một tư duy mạch lạc; và (c) một năng lực hành dụng – hành trang và đạo lý vào đời của người thiếu niên 15-16 tuổi.

 

Văn

Lớp 6

Cảm hứng nghệ thuật

(Vì sao người ta làm ra tác phẩm nghệ thuật)

Nhà xuất bản Tri thức

Hà Nội, 2016

Bộ sách Phổ thông cơ sở Cánh Buồm

Dùng chung tên gọi các bậc học với hệ thống Giáo dục đương thời, nhóm Cánh Buồm chỉ thay đổi cách học sao cho tự thân từng học sinh có thể đến với những điều cao hơn, xa hơn, và dễ tự học hơn so với một nền Giáo dục lấy bục giảng làm trung tâm. Nhiệm vụ bậc học, cũng là mục tiêu trông chờ ở cuối bậc Phổ thông cơ sở Cánh Buồm là một nền tảng trí tuệ làm hành trang vào đời cho toàn thể thanh thiếu niên – (a) một phương pháp học đúng đắn; (b) một tư duy mạch lạc; và (c) một năng lực hành dụng.

Bậc Phổ thông cơ sở 9 năm là một thể thống nhất, chia ra hai giai đoạn với nhiệm vụ khác nhau nhưng nối tiếp nhau và đã được thể hiện trong sách Văn và sách Tiếng Việt Cánh Buồm:

  • Giai đoạn Tiểu học Cánh Buồm năm năm có nhiệm vụ rèn luyện phương pháp học

mà mục tiêu là sở hữu cách tự học;

  • Giai đoạn Trung học cơ sở Cánh Buồm bốn năm có nhiệm vụ giúp các em dùng

phương pháp học đã có để tự tìm đến các tri thức cần thiết;

Từ đó có thể suy ra: nhiệm vụ của bậc Phổ thông Trung học là tập nghiên cứu để chuẩn bị cho cách tập độc lập nghiên cứu ở bậc Đại học (và cách độc lập nghiên cứu ở bậc sau Đại học).

Đi theo định nghĩa trên, bộ sách Tiểu học Cánh Buồm (đột phá với hai môn Tiếng Việt và Văn) thể hiện rõ tính chất tập tự học. Đến bộ sách Trung học cơ sở Cánh Buồm này, hoạt động học được tập trung vào hành động tự học. Việc học tiến hành bằng tự nghiên cứu, trao đổi nhóm, viết tiểu luận, hội thảo khoa học, xuất bản kỷ yếu xem như công trình tự đánh giá của cả lớp, cũng là cái mốc tham khảo cho các bạn năm học sau.

Tiếp nối cách học từ bậc Tiểu học Cánh Buồm, người dạy (bao gồm giáo viên và những người đỡ đầu trí tuệ khác) sẽ dắt dẫn học sinh đi dần vào con đường tự học. Cụ thể là, với mỗi bài học, người dạy vẫn nên hướng dẫn ngắn gọn về chủ đề, nội dung và cách học; rồi khi đi vào chi tiết, sau một “câu hỏi suy ngẫm”, hoặc sau “lời gợi ý thảo luận”… người dạy cần phải đòi hỏi học sinh viết ý tưởng của mình thành đoạn văn năm câu – năng lực đã được rèn từ Lớp 4 và Lớp 5.

Sẽ dễ dàng cho học sinh nếu các em được học sách Tiểu học Cánh Buồm trước khi dùng sách Trung học cơ sở Cánh Buồm – ít ra cũng phải học 2 tập sách tự học Tiếng Việt Văn dành cho các em trên mười tuổi.

Trong tiến trình giáo dục này, giáo viên có cơ hội đồng hành cùng học sinh thân yêu của mình. Theo cách tổ chức học này, uy tín của thầy cô giáo và tình nghĩa nhà giáo với học trò sẽ được tạo dựng theo cách khác, dân chủ, cởi mở và thẳng thắn.

Mong các bạn thành công.

Nhóm Cánh Buồm

Chịu trách nhiệm nội dung

 

Bài mở đầu: Cảm hứng nghệ thuật. Vì sao người ta làm ra tác phẩm nghệ thuật. (Phạm Toàn)

Phần 1 – Tác phẩm thơ

Bài 1 – Vì sao người ta làm thơ. (Nguyễn Đức Tùng).

Bài 2 – “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, tập thơ Việt Nam đầu tiên. (Đặng Tiến)

Bài 3 – Thơ ngụ ngôn La Fontaine. (Nguyễn Thị Thu Nguyên và Nguyễn Lân Bình)

Bài 4 – Cảm hứng dấn thân của tác giả bài thơ Cánh Buồm. (Nguyễn Thụy Anh)

Phần 2 – Tác phẩm tự sự

Bài 5 – Vì sao người ta viết văn tự sự - Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao. (Nhóm Cánh Buồm)

Bài 6 – “Tuổi thơ im lặng” của Duy Khán. (Nguyễn Thị Minh Hà)

Bài 7 – Nhà văn dấn thân làm phu xe viết văn phóng sự. (Lê Phú Khải)

Bài 8 – “Cuốn sách của bạn tôi” của Anatole France. (André Menras, Dương Tường dịch sang tiếng Việt)

Phần 3 – Tác phẩm hội họa

Bài 9 – Vì sao người ta vẽ. (Phan Cẩm Thượng)

Bài 10 – Họa sư Nam Sơn. (Anh Chi)

Bài 11 – Tranh Tết, một vốn cổ quý báu. (Anh Ngọc)

Phần 4 – Tác phẩm âm nhạc

Bài 12 – Vì sao người ta chơi âm nhạc. (Nguyễn Thị Minh Châu)

Bài 13 – Những câu hát giã bạn. (Đặng Tiến)

Phần 5 – Tác phẩm kịch

Bài 14 – Vì sao người ta chơi kịch – Kịch như là một môn học vỡ long. (Dương Tường)

Bài 15 – Trưởng giả học làm sang. (Molière)

Bài tổng kết – Về cảm hứng nghệ thuật. (Phạm Toàn)

Các tác giả soạn văn bản chính – các bài tập đều do ban Biên tập nhóm Cánh Buồm soạn

Tổ chức bản thảo: Phạm Toàn, Nguyễn Thị Minh Hà và Nguyễn Thị Thanh Hải

Hỗ trợ đọc bản thảo cuối cùng: Bùi Văn Nam Sơn, Phạm Khiêm Ích, Đặng Tiến, Hoàng Trọng Phiến, Mạc Văn Trang, Nguyễn Đức Dân, Lê Thời Tân

Chịu trách nhiệm cuối cùng: Nhóm Cánh Buồm

 

Bài mở đầu

Cảm hứng nghệ thuật

(Vì sao người ta làm ra tác phẩm nghệ thuật)

Hướng dẫn học

       Bài mở đầu này hướng dẫn bạn những điều tổng quát nhất về cách làm ra tác phẩm nghệ thuật. Một khi bạn hiểu rõ về cảm hứng nghệ thuật, thì bạn có thể tự đi tiếp để tự đến với những tác phẩm cụ thể.

       Trước hết, cần nói rõ thêm về cách học gửi trong các sách giáo khoa Cánh Buồm. Ngay từ Lớp 1, Cánh Buồm đã trao vào tay bạn cách tự học. Ngay từ khi mới chào đời, bạn đã tự học để mà sống. Không ai dạy bạn thở, bạn tự học cách thở. Không ai dạy bạn ăn, uống, nuốt, nhưng bạn đã tự học lấy. Rồi bạn còn học nhìn, học nghe, học lẫy, học bò, học đi… và học nói. Người lớn không làm thay các bạn, người lớn chỉ cổ vũ bạn mỗi khi nhờ tự học mà bạn tự làm một “trò” mới: Ôi, mẹ vẫy, mắt em nhìn sáng chưa kìa! Ôi, bà mới đẩy cửa, em đã nghe và quay đầu lại kìa!... Nào, tênh tênh, em đứng lên đi, nào... kìa em đi được mấy bước rồi!

       Nhóm Cánh Buồm giúp các bạn tiếp tục tự học để tự mình trưởng thành. Đường lối sư phạm Cánh Buồm là LÀM MÀ HỌC – tức là tổ chức việc làm cho người học tự thực hiện và tự rút ra những điều cần học.

       Từ Lớp 1 bạn đã làm ra lòng đồng cảm qua trò chơi đóng vai. Lên Lớp 6, bạn sẽ học cách làm ra cảm hứng nghệ thuật. Bạn sẽ trả lời câu hỏi “Vì sao người ta làm ra tác phẩm nghệ thuật?”. Bạn sẽ thấy chính lòng đồng cảm đã khiến người nghệ sĩ có cảm hứng làm ra tác phẩm nghệ thuật.

       Vậy là, cảm hứng nghệ thuật gắn bó với người nghệ sĩ – cách gọi chung cả những nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhà điêu khắc, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà viết kịch, diễn viên, v.v... Cảm hứng đến với người nghệ sĩ như thế nào, và họ sẽ làm gì? Đó là điều bạn sẽ học trong bài mở đầu này.

Thảo luận, suy nghĩ về phần hướng dẫn tự học

       Chú ý viết mỗi ý tưởng hoặc mỗi câu trả lời bằng đoạn văn năm câu!

  1. Phần hướng dẫn nói: tất cả chúng ta đều tự học từ khi mới chào đời, có đúng vậy không?
  2. Mỗi bạn tìm một ví dụ để minh họa cho nhận xét này: ngay từ khi ra đời chúng ta đều tự học nhờ đó mà biết mình có các giác quan. Bạn có mấy giác quan? Bạn suy nghĩ về cách tự học để sử dụng các giác quan đó?
  3. Phần hướng dẫn nhắc đến cách học theo sách Cánh Buồm tóm lại trong mấy chữ gì? Không làm mà học, chỉ nghe giảng và nhắc lại lời giảng, rồi xin điểm có thể gọi là học không?
  4. Khi học Văn ở Lớp 1 (chủ đề lòng đồng cảm) bạn đã làm mà học như thế nào?
  5. Bạn hình dung sẽ làm mà học như thế nào khi đi vào chủ đề học Văn ở Lớp 6 (cảm hứng nghệ thuật)?

Xin mời học tiếp.

 

Vì sao người ta làm ra tác phẩm nghệ thuật

Những tấm lòng đồng cảm khác nhau

       Bài mở đầu này nói về cảm hứng của những người làm công việc tạo ra sản phẩm nghệ thuật. Tại sao lại có những người chuyên tâm làm công việc làm ra các tác phẩm đó (làm thơ, viết truyện, vẽ tranh, chơi nhạc, diễn kịch...)? Ta có thể nghĩ đơn giản như sau: họ có lòng đồng cảm với con người nên họ có cảm hứng làm ra tác phẩm nghệ thuật.

       Câu trả lời đó không sai nhưng chưa đủ. Có những người không phải là nghệ sĩ nhưng cũng có lòng đồng cảm với con người và hoạt động vì cuộc sống hạnh phúc của con người. Ta hãy xem xét một kiểu người thứ nhất.

Kiểu người sản xuất của cải vật chất

       Ta hãy tưởng tượng người cày đồng đang buổi ban trưa / mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày… Người ấy chịu đựng cày đồng vất vả ròng rã ngày này ngày khác, năm này năm khác, đời này đời khác, không vì riêng mình – người đó chịu đựng vì cha mẹ già, vì con cái còn nhỏ, vì gia đình mình, nhờ đó mà xã hội no đủ, êm ấm.

       Ta hãy tưởng tượng người đồng cảm với nỗi vất vả và nguy hiểm khi thấy trẻ em và người lớn phải đi cầu khỉ, người đó tìm cách xây cây cầu thật tiện lợi… Giống như những người làm ra những cây cầu, có những người khác lại mở nhà máy, hoặc xây những ngôi nhà đủ tiện nghỉ, hoặc tổ chức canh tác khoa học để tạo ra những cánh đồng tươi tốt, nuôi những đàn bò cung cấp thật nhiều sữa và thịt... Những người này cũng có thể có lòng đồng cảm với con người, họ mong muốn con người no ấm, hạnh phục. Song, những sản phẩm của họ không phải là tác phẩm nghệ thuật

.

       Công việc tạo ra các sản phẩm vật chất khác nhau (dệt vải, xây nhà, làm đường, trồng rừng, làm xe ô tô, sản xuất điện, v.v…) có những đại diện ưu tú là những nhà bác học, những nhà nghiên cứu, những kỹ sư và bác sĩ,… những người hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nữa, và ở đâu cũng thấy họ có cảm hứng tạo ra những sản phẩm ngày càng nhiều, đẹp, bền, tốt, và giá rẻ.

       Bạn có thể tra cứu và suy nghĩ về công việc của các doanh nhân Nguyễn Sơn Hà, Ngô Tử Hạ, Bạch Thái Bưởi, và nhiều người khác nữa. Nguyễn Sơn Hà mở nhà máy sản xuất sơn đầu tiên ở Việt Nam, Ngô Tử Hạ mở nhà máy in lâu đời nhất ở Việt Nam. Bạch Thái Bưởi là người mở công ty vận tải biển đầu tiên của Việt Nam nối Hải Phòng với Sài Gòn và các vùng phụ cận…

       Bạn cũng có thể tra cứu xem các kỹ sư nông học Lương Định Của, Đào Thế Tuấn, Võ Thị Tri Túc,... đã tạo ra những sản phẩm nông nghiệp gì nổi danh?... Và bạn cũng tự đi tìm câu trả lời: sản phẩm của các vị này có phải là tác phẩm nghệ thuật không?

       Cùng sưu tầm – cùng học – tổ chức triển lãm:

  1. Mỗi bạn sưu tầm một phát minh – sáng chế trong lịch sử. Kể lại phát minh – sáng chế đó bằng hình ảnh.
  2. Sưu tầm hình ảnh và xếp lại thành chuỗi sản phẩm tiến dần từ thô sơ đến tinh xảo. (Ví dụ: đi bộ, cưỡi ngựa, đi xe đạp, đi xe máy, đi ô tô, đi máy bay…)
  3. Tương tự như việc 2, sưu tầm sự phát triển của nhà ở (từ ở hang động đến nhà ở hiện đại), các kiểu ăn mặc (từ ăn lông ở lỗ đến các kiểu ăn mặc khác), hay các nông cụ trồng trọt…

       Ta sẽ gọi kiểu người trên là kiểu người tạo ấm no... Mục tiêu họ nhằm vào là nâng cao cuộc sống vật chất cho con người. Kiểu người tạo cuộc đời ấm no này có đáng yêu không? Các bạn cho biết: họ đáng yêu ở điểm nào?

Còn đây là kiểu người gì?

       Bây giờ chúng ta sang một trường hợp với một người có tên là Jean-Jacques Rousseau. Ông Jean-Jacques Rousseau vốn là một đứa trẻ được nuôi nấng tại một nhà trẻ mồ côi. Thời xưa, có nhiều trẻ em bị bỏ rơi được đưa vào nuôi ở nhà trẻ mồ côi như Jean-Jacques Rousseau.

       Khổ thân ông Rousseau, đến khi trưởng thành, lấy vợ và có con, nhưng do nghèo quá, không làm lễ cưới chính thức được, nên con cái của ông Rousseau cũng lại phải gửi vào nuôi tại… nhà trẻ mồ côi!

       Ông Rousseau sau này viết sách về Giáo dục, tưởng tượng được nuôi dạy một em bé tên là Émile theo cách hoàn toàn tôn trọng sự phát triển tự nhiên của em. Ông còn viết sách khác, lấy tên là Khế ước xã hội có ý nói “con người sống chung trong xã hội cần có những quy ước, những ràng buộc, để xã hội yên bình, mọi người hạnh phúc”.

Bìa sách KHẾ ƯỚC XÃ HỘI – bạn nhìn thấy biểu tượng cái cân không? Cái cân có ý nghĩa gì vậy?

       Có không ít người giống kiểu người theo mẫu Jean-Jacques Rousseau – kiểu người mơ ước tạo cuộc đời hài hòa. Những người này không trực tiếp tạo ra ấm no cho con người. Họ chỉ nghĩ cách làm sao cho con người thực sự sống trong ấm no, hạnh phúc.

       Họ là những nhà hoạt động xã hội. Có khi họ chọn Tôn giáo để xoa dịu nỗi khổ của mọi người; có khi họ chọn Đấu tranh để cố đảo ngược cuộc sống đau khổ của con người; có khi họ dùng Nhận thức để giúp con người thoát mê muội...

       Ở Ấn Độ thời xưa có đức Phật Thích Ca (nơi sinh của Phật nay thuộc về nước Sri Lanka), Ngài từ bỏ nhà cửa lâu đài châu báu để đi tìm đường giảng đạo dạy con người thoát khỏi “bể khổ”. Ở Ấn Độ thời hiện đại có ông Gandhi được dân gọi là Thánh Gandhi, người chủ trương đấu tranh không bạo động để giành cuộc sống độc lập, tự do, no ấm. Cũng ở Ấn Độ thời hiện đại, có ông Aurobindo đứng ra tổ chức cả một vùng ở đó mọi người không tiêu tiền, con cái nuôi dạy chung, sản xuất và tiêu dùng chung để không có người giàu và người nghèo… (tiếc rằng công việc ông Aurobindo làm chỉ đứng được trong một thời gian không dài…).

       Ở Pháp, ngoài Jean-Jacques Rousseau còn rất nhiều nhà tư tưởng. Trong số đó có một nhà tư tưởng rất cần cho học sinh chúng ta, đó là nhà tâm lý học Jean Piaget. Xưa nay, người ta chỉ biết gửi con đến trường đi học, thầy giáo thì chỉ biết dạy và dạy, chẳng ai để ý trẻ em học như thế nào và như thế nào là cách học đúng để thầy giáo có cách dạy học đúng. Ông Piaget nghiên cứu cách trẻ nhỏ từ khi mới ra đời đã ăn thế nào, uống thế nào, khóc thế nào, cười thế nào, nhìn và nghe như thế nào,... cho tới cả khi nói thì nói như thế nào, chơi với bạn như thế nào... rồi học toán như thế nào, học chơi kịch như thế nào... Cách nghiên cứu của ông Piaget khiến các nhà giáo thấy cần tôn trọng trẻ em, cần là người bạn của trẻ em để tổ chức việc học của trẻ em, để các em đã đi học là học giỏi như nhau.

       Bạn thấy kiểu người như thế có lạ không? Các vị đó có làm cầu và xây nhà không? Có làm ra “dưa lê ông Của”, “cà chua bà Túc”, “gạo ngắn ngày năng suất cao” không?... Các vị đó có tạo ra của cải vật chất không? Theo ý bạn, các vị đó có cần cho cuộc sống của con người không?

       Thảo luận nhóm

  1. Các bạn tra cứu và trả lời nhà triết học là gì? Bạn nào sưu tầm và kể cho nhóm câu chuyện một nhà triết học thì cũng tốt. Nếu không, chỉ cần các bạn nói những ý nghĩ chung nhất về nhà triết học là đủ.
  2. Tra cứu và trả lời: nhà hoạt động xã hội là gì? (Xem lời dặn như với câu hỏi 1 bên trên)
  3. Khuyến khích các bạn sưu tầm chuyện về 1 trong 3 nhân vật này: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Martin Luther King, Nelson Mandela. Các vị đó đã làm những việc gì?

Kiểu người làm ra tác phẩm nghệ thuật

       Trong cuộc sống, còn có kiểu người thứ ba. Những người này không làm ra những cây cầu, những tòa nhà nhiều tầng, những chiếc máy bay chở vài trăm hành khách đi cả nghìn cây số trong vài ba giờ, những cánh đồng mỗi năm cho nhiều vụ thu hoạch, những đàn bò mà mỗi con bò cái cho cả nghìn lít sữa mỗi năm... Những người này cũng không kêu gọi hoặc bày cách cho mọi người sống cho ra sống, sống sao cho xứng đáng với danh hiệu con Người – biết yêu thương, biết xây dựng và bảo vệ hạnh phúc, biết khoan dung, biết đồng thuận, biết làm cho thế giới loài người chỉ còn hòa bình và xóa bỏ chiến tranh...

       Không giống như hai kiểu người trước, vậy đó là kiểu người như thế nào?

       Nhà nghiên cứu Arthur Koestler gọi đó là kiểu người có “đôi mắt ướt” – một cách nói mang nghĩa bóng là người dễ khóc. Họ dễ khóc, vì họ nhìn thấy cuộc sống của con người vô cùng mong manh và chứa chất đầy những đau buồn! Đến nỗi có nhà thơ nói con người sinh ra đã phải khóc thì mới sống, và khi chết cũng chết trong tiếng khóc.

       Nhà thơ Nguyễn Du kể chuyện thời thanh bình, ấy thế mà toàn bộ câu chuyện đã được mở đầu với hứa hẹn đẫm nước mắt:

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!

Nên nhớ đó là câu chuyện xảy ra vào thời thái bình phẳng lặng:

Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,

Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng…

       Có thể nói mà không sợ sai rằng tất cả các tác phẩm lớn của loài người đều nói chuyện buồn. Đó là vì lịch sử của cả loài người là những bước sải dài qua những nỗi buồn. Còn lịch sử từng cá nhân thì cũng đầy ắp những nỗi buồn.

       Tô Hoài viết truyện Nhà nghèo với cái chết của một bé gái đi bắt cá và chết đuối. Nam Cao viết truyện Lão Hạc với chi tiết trước khi lão tự tử thì nhà văn đã nhận thấy “đôi mắt lão ầng ậng nước”. Andersen (Đan Mạch) viết Em bé bán diêm kể chuyện em chết cóng trong đêm Giáng Sinh ở một góc phố đầy những cảnh ăn chơi sang trọng, Victor Hugo (Pháp) viết Những người cùng khổ, Feodor Doxtoevski (Nga) viết Tội ác và trừng phạt, Lỗ Tấn (Trung Hoa) viết Nhật ký người điên tưởng tượng cảnh ăn thịt trẻ nhỏ, và kết thúc câu chuyện bằng lời kêu than Hãy cứu lấy trẻ em!...

       Bạn sẽ hỏi, vậy những tác phẩm hài hước có nói chuyện buồn không? Câu trả lời là: đời đầy những chuyện buồn, càng kể với vẻ hài hước càng khiến nỗi buồn thêm sâu đậm.

       Đây là câu chuyện một Người Dễ Khóc nhưng lại chọn việc chọc cười… cười mà buồn ơi là buồn! Đó là Charles Chaplin – còn được biết với tên gọi Vua Hề Charlot.

       Có một chuyện hồi ông lên năm tuổi. Khi đó, mẹ ông là nữ diễn viên tạp kỹ, là chiếc cần câu cơm của cái gia đình một mẹ và hai con trai (bố ông nghiện ngập không ở chung). Bất hạnh xảy ra khi bà bị mất tiếng, không hát và không biểu diễn được nữa. Một bữa, đang diễn trên sàn diễn thì bà bị khan tiếng, rồi mất tiếng hẳn.

       Đêm sau, Charlot xin ông bầu cho lên biểu diễn thay mẹ. Cậu bé năm tuổi đã bắt chước y hệt mẹ mình. Cậu hát bài mẹ mình vẫn biểu diễn và bắt chước cả cảnh mẹ mình khan tiếng rồi mất tiếng. Thấm thía nỗi buồn từ ngay gia đình mình, rồi đồng cảm với cái buồn ngoài xã hội, Charles Chaplin đã tạo ra vô số bộ phim tuyệt vời, Ánh sáng thành phố (mà thực ra là cảnh đời người công nhân tăm tối ở những thành phố rực rỡ ánh đèn), Thời hiện đại (mà thực ra là cảnh đời bị vắt kiệt sức ở những thành phố công nghiệp)… Charles Chaplin đã mở đầu phim Thời hiện đại bằng cảnh tan tầm, công nhân mỏi mệt, kiệt lực từ các nhà máy túa ra đường xen kẽ với cảnh những đàn lợn chen chúc nhau đi, chẳng biết đi về đâu.

 

Cùng sưu tầm - cùng học:
  1. Sưu tầm các tác phẩm của Charles Chaplin (Charlot).
  2. Mượn thư viện hoặc mua đĩa DVD rồi cùng xem phim Charlot. Cũng có thể xem phim Charlot trên Youtube nữa đấy!
  3. Các bạn hãy cùng chọn tìm cảnh phim nào Charlot diễn cảnh vui mà lại rất buồn. Viết đoạn văn 5 câu trả lời: vì sao bạn thấy buồn trong khi xem cảnh vui đó?

       Đời con người nhiều tiếng khóc. Và trong lời nói của con người, cũng có nhiều từ để chỉ những cách khóc khác nhau, nào kêu khóc, oà khóc, gào khóc, khóc thương, than khóc, khóc nức nở, khóc thút thít, khóc tấm tức, khóc nước mắt chứa chan, khóc thầm, khóc một mình, khóc không nước mắt, khóc nuốt nước mắt vào trong...

       Khóc là một cách biểu hiện cảm xúc của con người. Trong truyện Cuốn sách Rừng rậm nhà văn Anh Rudyard Kypling tả một em bé lạc vào rừng và sống với bầy sói, lớn lên cùng sói, coi sói như gia đình, cho tới khi phải xa bầy sói để trở về làng sống với người…

Lúc ấy, Mowgli cảm thấy có cái gì đó làm xáo trộn mạnh mẽ bên trong người mình, điều em chưa từng gặp trước đây bao giờ, và em nín thở rồi nức nở, nước mắt ròng ròng trên mặt.

"Gì vậy? Gì vậy?" em nói. "Em không muốn xa rừng, mà tại sao lại thế này? Có phải em sắp chết không, anh Báo Đen?"

"Không đâu, em à. Đó chỉ là nước mắt thường thấy ở con người," Báo Đen nói. "Bây giờ thì anh biết em là một con người... Rừng rậm từ nay đóng chặt cửa đối với em. Cứ để cho nước mắt rơi, khóc nữa đi, em. Đó chỉ là nước mắt."

Thế là cậu bé ngồi xuống và khóc, tưởng chừng như tim cậu muốn vỡ ra. Cậu khóc như chưa từng khóc cả đời mình trước đó.

       Khóc không chỉ giải tỏa nỗi buồn đau của con người – con người còn có niềm riêng thích lưu giữ nỗi đau, con người còn muốn cho nỗi buồn và nước mắt thành kỷ niệm, có khi thành bài học nữa… Và người nghệ sĩ là kiểu người có tài năng riêng, người nghệ sĩ tự nhận lấy sứ mệnh lưu giữ hộ mọi người cái nỗi đau của chính mọi người. Trong chuỗi từ ghép gắn với từ gốc khóc bên trên, còn thiếu một từ khóc mướn. Cuộc đời diễn ra đầy đau khổ, nhưng vô số người lăn qua mà chẳng chú ý gì. Riêng người nghệ sĩ lại tự mình sung sướng làm lại những nỗi đau đời, được sống như kẻ khóc mướn. Nhà văn Nga Raxun Gamdatov (trong sách Đaghextan của tôi) nhận xét rất hay về kiểu người khóc mướn đó:

người mẹ mất con là người đau khổ nhất, song bài thơ nói lên được nỗi đau mất con có khi lại do nhà thơ chưa từng có con viết ra.

       Chúng ta đã nhận ra kiểu người nghệ sĩ làm công việc khóc mướn để giúp con người lưu giữ những giọt nước mắt chỉ con người mới có. Sứ mệnh đó đòi hỏi người nghệ sĩ làm công việc khóc mướn phải có đầy tinh thần trách nhiệm. Không có bộ luật nào quy định người nghệ sĩ phải có trách nhiệm ra sao. Nhưng cái bộ luật trong tinh thần nghệ thuật quy định cái trách nhiệm đó.

Trách nhiệm của người nghệ sĩ thể hiện ở những chỗ nào?

       Một là, người nghệ sĩ phải cất tiếng nói vì những chân lý trong cuộc sống. Nói đến “chân lý” tức là nói lên sự thật, sự đúng đắn, là chống lại sự giả dối. Người nghệ sĩ phải tìm thấy cảm hứng trong công việc nói lên sự thật. Nếu người nghệ sĩ nói những điều dối trá, họ sẽ không thể có cảm hứng nghệ thuật.

       Hai là, người nghệ sĩ phải cất tiếng nói vì những điều thiện trong cuộc sống. Người nghệ sĩ không được phép làm ra những tác phẩm để cổ vũ cho cái ác. Nếu người nghệ sĩ sống vì cái ác, sống với cái ác, họ sẽ không thể có cảm hứng nghệ thuật.

       Ba là, người nghệ sĩ phải cất tiếng nói vì cái đẹp trong cuộc sống và đem lại cái đẹp cho cuộc sống. Người nghệ sĩ không được phép cổ vũ cho những điều xấu xí, hơn thế, họ còn không được phép làm ra những tác phẩm xoàng xĩnh, rẻ tiền. Người nghệ sĩ làm ra những sản phẩm tầm thường để kiếm danh vọng và tiền bạc sẽ không thể có cảm hứng nghệ thuật.

       Ba điều về trách nhiệm của người nghệ sĩ được nói gọn trong ba chữ Chân – Thiện – Mỹ. Người nghệ sĩ hướng đến Chân, Thiện, Mỹ sẽ có được cảm hứng nghệ thuật và sẽ tạo ra được tác phẩm nghệ thuật có giá trị.

Tóm lại,

       Sách Văn Lớp Sáu này mời các bạn cùng đi tìm cảm hứng nghệ thuật – tìm xem vì sao người nghệ sĩ lại làm ra tác phẩm nghệ thuật.

       Với người tạo cuộc đời ấm no, sản phẩm của họ ngày một tốt hơn, rẻ hơn, đẹp hơn và bền hơn đời trước. Sản phẩm của họ ai ai cũng thấy được và hưởng thụ, ai ai cũng cảm nhận và đánh giá được.

       Với người tạo cuộc đời hài hòa, sản phẩm của họ là năng lực suy tư của họ. Không dễ gì để đánh giá sản phẩm của những người này. Cần người có học xem xét đánh giá loại sản phẩm này.

       Với kiểu người nghệ sĩ, sản phẩm của họ là cảm xúc – là nước mắt, nhiều khi tiếng cười cũng mang nước mắt – họ là những đôi mắt ướt hồn nhiên. Việc học Văn của các bạn sẽ giúp các bạn tập làm ra tác phẩm nghệ thuật, nhờ đó mà biết đánh giá tác phẩm nghệ thuật của những nghệ sĩ lớn.

       Hãy làm các bài tập nhỏ dưới đây (trả lời bằng đoạn văn năm câu):

       1. Cùng dịch câu nói trong hình dưới và thảo luận: Tại sao nghệ sĩ Charles Chaplin gắn đời ông với Nụ Cười (viết hoa)?

 

       2. Cùng dịch câu nói trong hình dưới đây và thảo luận: Charles Chaplin nghĩ gì về sứ mệnh người nghệ sĩ? Charlot nói đến “nỗi đau” của ông – theo bạn, nỗi đau đó như thế nào?

 

       3. Cùng dịch câu nói trong hình dưới đây và thảo luận: Tại sao Charlot khóc và muốn để nước mưa tràn qua mặt nhằm che giấu những giọt nước mắt của mình?

Gợi ý thảo luận và viết tiểu luận

  1. Ba kiểu người nói trong bài này có cảm hứng khác nhau như thế nào khi họ hành động?
  2. Bạn có đồng ý với cách đặt tên ba kiểu người như trong bài? Bạn muốn đặt tên nào khác? Vì sao?
  3. Bạn hãy giới thiệu ngắn gọn về kiểu người có đôi mắt ướt qua một tác phẩm văn hoặc thơ.
  4. Có ai giao việc “khóc mướn” cho người nghệ sĩ không, hay họ tự nhận lấy công việc nặng nề đó?
  5. Trách nhiệm của người nghệ sĩ bao hàm ngắn gọn trong những điều gì?

Dặn bạn

Những điều học ở bài mở đầu này sẽ được đem áp dụng trong các phần còn lại. Có những điều bạn chưa hiểu hết khi học bài mở đầu này. Nhưng khi học tiếp sang những bài tiếp theo, bạn sẽ càng hiểu kỹ hơn nội dung bài mở đầu này.

0